Monday, August 15, 2011

Tại sao dân Anh Quốc chịu đựng suy thoái dễ dàng hơn dân VN ?

Châu Xuân Nguyễn
-
Xin thưa đó là vì họ có mạng lưới an toàn xã hội (Social safety net) bao gồm trợ cấp thất nghiệp đủ sống, chương trình huấn luyện thêm tay nghể, học thêm Đại Học được trợ cấp v.v…
Đọc bài dưới đây về cuộc suy thoái năm 1981 mà tôi nói rất nhiều. Để ý một điều là nó giống VN kinh khủng, nó đến từ lạm phát cao (10.3%, VN 25%) rồi tăng lãi suất để chống lạm phát (từ 3% đến 21%, VN từ 12% đến 25%) và thời gian thoát khỏi suy thoái cũng tùy nền kinh tế nào bệnh nặng hơn nền kinh tế nào hay phản ứng nhanh hay chậm tùy nền kinh tế (Mỹ từ 81 đến 83, 2 năm, Anh Quốc từ 81 đến 87, 6 năm và Úc tương tự như Mỹ).CXN – Tuyên bố của Châu Xuân Nguyễn về suy thoái và khủng hoảng kinh tế VN tháng 09.2011 này

Một đặc điểm mà tôi viết rất nhiều lần là phải kiên trì siết chặt tín dụng thì mới hữu hiệu, còn nới lõng tín dụng cho cánh hẫu, cho bè phái thì suy thoái này sẽ dài hơn Anh Quốc (dài hơn 6 năm).
Điều nới lõng tín dụng là DCS đã làm bằng cách bơm 70 ngàn tỉ vnd, ngay sau đó, CPI tháng 7 tăng vọt lên liền. Những cuộc phỏng vấn của Tiến sĩ liên Xô Nguyễn văn Bình cho thấy tên lính mới này đang bị áp lực nặng nề của cánh hẫu để nới lõng tín dụng. Điều này có nghĩa là một lần nữa, ĐCS chứng minh là họ hành động vì một nhóm lợi ích cánh hẩu thay vì hành động vì dân tộc VN.
Một điều thú vị là vì đấu tranh chống lạm phát, nên những hậu quả chính trị thấy rõ là rất tai hại cho người cầm quyền, nhưng Reagan của Mỹ thu gọn chiến trường năm 83 (2 năm với quyết tâm cao) thì được tái đắc cử năm 1984, Thatcher làm dây dưa tới 87 nên thất cử, Úc cũng bị mất Malcolm Frazer về tay Bob Hawke.

Tôi hy vọng là lần này, dân tộc ta sẽ thấy rõ “tài năng” kinh tế của ĐCS này mà dẹp họ sang 1 bên để những người tài thật sự với kinh nghiệm, kiến thức và tâm tốt phục vụ cho dân tộc VN đảm nhận.

Đây là lần cuối cùng để dân VN thoát khỏi sự cai trị bất tài, tham nhũng, thối nát, ngu xuẩn của ĐCS, nếu không thì sẽ đợi ít nhất 50 năm nữa hay Trung Quốc sẽ xâm lăng để VN trở thành Tây Tạng, xem bài này CXN_Tương lai của Viet Nam theo BBC Anh Quốc, khi đó tôi đã ra người thiên cổ rồi, không còn một chút lo lắng gì nữa…

Người VN có cơ hội năm 1976, 1986 nhưng bị ĐCS khủng bố quá nên để lỡ cơ hội, làn này không hành động thì sẽ 50 năm sau nữa.

Melbourne,
15.08.2011
Châu Xuân Nguyễn
——————–
Suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ
GDP tăng trưởng ở Hoa Kỳ trong những năm đầu 1980. Suy thoái kinh tế ngắn vào đầu thập kỷ này, theo sau một thời gian ngắn tăng trưởng và suy thoái kinh tế sâu sắc hơn trong 81-82, đã dẫn đến giai đoạn này được mô tả như là một cuộc suy thoái hình chữ W-.
Phần trăm thay đổi từ thời kỳ trước có trong GDP (hàng năm, điều chỉnh theo mùa); tăng trưởng GDP trung bình 1947-2009

Nguồn: Cục Phân tích kinh tế
Đầu những năm 1980 suy thoái kinh tế là một cuộc suy thoái nghiêm trọng tại Hoa Kỳ bắt đầu vào tháng 7 năm 1981 và kết thúc vào cuối tháng 11 năm 1982 [2] [3], nguyên nhân chính của suy thoái kinh tế là một chính sách tiền tệ thắt chặt bắt đầu bởi Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang (Fed. Reserves) để giảm lạm phát cao [4]. Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 và cuộc khủng hoảng năng lượng 1979, lạm phát đã bắt đầu gây đau đớn cho các nền kinh tế của Hoa Kỳ. Tỷ lệ thất nghiệp đã tăng từ 5,1% trong tháng 1 năm 1974 cao 9,0% tháng 5 năm 1975. Mặc dù nó đã dần dần giảm 5,6% tháng 5 năm 1979, tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu tăng trở lại sau đó. Tăng mạnh lên 6,9% trong tháng 4 năm 1980 và 7,5% tháng 5 năm 1980. Một cuộc suy thoái nhẹ từ tháng Giêng đến tháng 7 năm 1980 giữ tỷ lệ thất nghiệp cao, nhưng mặc dù kinh tế phục hồi tình trạng thất nghiệp vẫn ở mức cao lịch sử (khoảng 7,5%) cho đến cuối năm 1981 [5] Tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục phát triển qua năm 1982, đạt 10% trên toàn quốc, và đạt một đỉnh cao kỷ lục 25% trong Rockford, Illinois [6] Lạm phát, trong đó có trung bình 3,2% hàng năm trong giai đoạn hậu thế chiến, đã tăng hơn gấp đôi sau cú sốc dầu mỏ năm 1973 đến một tỷ lệ hàng năm 7,7%. Lạm phát đã đạt 9,1% trong năm 1975, tỷ lệ cao nhất kể từ năm 1947. Lạm phát giảm 5,8% trong năm sau, nhưng sau đó vượt cao hơn. Đến năm 1979, lạm phát đạt 11,3% đáng ngạc nhiên và năm 1980 tăng lên 13,5%. [2] [7] Một cuộc suy thoái ngắn xảy ra vào năm 1980. Các ngành công nghiệp chủ yếu -bao gồm cả một số trọng điểm nhà ở, sản xuất thép, ô tô phải trải qua một cuộc suy thoái mà từ đó họ không phục hồi cho đến vào cuối của cuộc suy thoái tiếp theo. Nhiều thành phần kinh tế phụ trợ cho các ngành công nghiệp này cũng bị thiệt hại nặng. [8]Quyết tâm để diệt trừ lạm phát của nền kinh tế, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Paul Volcker làm chậm lại tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng lãi suất. Lãi suất liên ngân hàng, khoảng 11% vào năm 1979, tăng lên 20% vào tháng 6 năm 1981. Lãi suất cơ bản, biện pháp kinh tế rất quan trọng, cuối cùng đạt 21,5% trong tháng 6 năm 1982 [3] [9]Suy thoái kinh tế Vương quốc Anh

Như với hầu hết các nước phát triển, suy thoái kinh tế Vương quốc Anh vào thời điểm chuyển của những năm 1980, mặc dù nền kinh tế đã bị cản trở bởi một chuỗi các cuộc khủng hoảng đối với hầu hết những năm 1970 và tỷ lệ thất nghiệp đã tăng dần kể từ giữa những năm 1960.

Khi Đảng Bảo thủ dẫn đầu là Margaret Thatcher đã thắng cuộc tổng tuyển cử tháng 5 năm 1979 và thắng đậm Đảng Lao động của James Callaghan, đã chứng kiến ​​mùa đông bất mãn, trong đó nhiều công nhân khu vực công cộng đã tổ chức đình công. Lạm phát được khoảng 10% và khoảng 1.500.000 người thất nghiệp so với một số 1.000.000 vào năm 1974, 580.000 vào năm 1970 và hơn 300.000 vào năm 1964 [44] Margaret Thatcher bắt đầu chống lạm phát với các chính sách tiền tệ (thắt chặt) và thay đổi luật công đoàn trong một nỗ lực để giảm thiểu các cuộc đình công đã tàn lụi Anh trong nhiều năm qua.

Cuộc chiến chống lạm phát của Bà Thatcherdẫn đến việc đóng cửa nhiều nhà máy không hiệu quả, nhà máy đóng tàu và mỏ than khoáng sản – chủ yếu trong nhiệm kỳ bốn năm đầu tiên của bà. Điều này đã giúp mang lại lạm phát dưới 10% lần lượt của năm 1982 (đã đạt vị trí 22% trong năm 1980) và vào mùa xuân 1983, nó đã giảm xuống mức thấp trong vòng 15-năm là 4%. Cuộc đình công cũng ở mức thấp nhất kể từ đầu những năm 1950.
Tuy nhiên, nó cũng dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp đạt 3.000.000 tháng 1 năm 1982 – một mức độ chưa từng thấy trong 50 năm. Ngay cả con số 2.000.000 được nhìn thấy lần đầu tiên vào cuối năm 1980 đã không đạt được trong hơn 40 năm. Đến năm 1983, Anh – nổi tiếng trên toàn cầu như “một nhà máy sản xuất của thế giới” do cơ sở sản xuất mạnh mẽ của nó đã trở thành một nước nhập khẩu (nhiều hơn xuất khẩu) của hàng hóa lần đầu tiên, chủ yếu là do sự mất mát của ngành công nghiệp nặng theo Thatcher. Các khu vực của Tyneside, Yorkshire, Merseyside, South Wales, phía Tây Scotland và Tây Midlands đặc biệt khó khăn bởi sự mất mát của ngành công nghiệp và hệ lụt tăng mạnh tiếp theo của tỷ lệ thất nghiệp. Trung bình toàn quốc tháng 1 năm 1982 là khoảng 12,5%, nhưng trong một số các khu vực này nó đã được gần 20% và sẽ vẫn cao tương tự như thế cho những năm sau đó. Trong ba năm đầu tiên của thủ tướng bà Thatcher của, cuộc thăm dò dư luận về sự chấp nhận của cử tri cho Chính phủ Tory của bà là 25%, với các cuộc thăm dò đầu tiên dẫn đầu là các phe đối lập Lao động và sau đó các liên minh SDP-Tự do đó đã thành lập Đảng Tự do và Đảng Dân chủ Xã hội Lao động ly khai trong 1981.Tuy nhiên, chiến thắng của Anh trong cuộc chiến tranh Falklands vào tháng Sáu năm 1982 gây ra một sự chuyển biến trong việc hỗ trợ cho chính phủ Tory, người được bầu lại huy hoàng trong cuộc tổng tuyển cử 12 tháng sau đó [45].Phục hồi

Các cuộc bầu cử giữa kỳ của Quốc hội đã chứng minh là điểm thấp của các tổng thống Reagan.

Theo các nhà kinh tế Keynes, một sự kết hợp của chi tiêu công (hậu suy thoái, sau khi đánh thắng lạm phát) và giảm lãi suất từ ​​từ dẫn đến sự phục hồi kinh tế [46] Từ mức cao 10,8% trong tháng 12 năm 1982, tỷ lệ thất nghiệp dần dần được cải thiện cho đến khi nó đã giảm xuống còn 7,2%. Vào ngày bầu cử vào năm 1984. [5] Gần hai triệu người có việc lại. [47] Lạm phát đã giảm từ 10,3% năm 1981 còn 3.2% vào năm 1983 [2] [48]. Lợi nhuận doanh nghiệp tăng 29% trong quý tháng Chín năm 1983, so với cùng kỳ năm 1982. Một số cải thiện đáng kể nhất trong các ngành công nghiệp ảnh hưởng nặng nhất bởi suy thoái kinh tế, chẳng hạn như giấy và lâm sản, cao su, các hãng hàng không và ngành công nghiệp xe hơi. [47]

Đến tháng 11 năm 1984, sự tức giận của cử tri từ việc suy thoái kinh tế đã bốc hơi và chuyện tái đắc cử của Reagan đã không còn nghi ngờ gì nữa [35] [36] [43] Reagan sau đó đã được bầu lại bởi đa số cao nhất trong cuộc bầu cử tổng thống 1984. Ngay lập tức sau khi cuộc bầu cử, Dave Stockman, quản lý OMB Reagan đã thừa nhận rằng thâm hụt ngân sách cao hơn nhiều so với những dự báocáo hồi tranh cử.

Đối với Vương quốc Anh, tăng trưởng kinh tế đã được tái thành lập vào cuối năm 1982, mặc dù thời kỳ thất nghiệp hàng loạt còn kéo dài lâu hơn sau đó. Vào mùa hè năm 1984, tỷ lệ thất nghiệp đã đạt mức kỷ lục mới của 3.3 triệu (mặc dù suy thoái đầu những năm 1930 cao hơn) và nó vẫn trên 3 triệu cho đến mùa xuân năm 1987, khi Boom Lawson - đặt tên như vậy vì nó là hậu quả của cắt giảm thuế do Bộ Trưởng Kinh Tế Nigel Lawson – gây ra sự bùng nổ phát triển kinh tế cho thấy tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể. Đến đầu năm 1988, dưới 2.5 triệu. Đến đầu năm 1989, nó giảm dưới 2 triệu, và vào cuối năm 1989 chỉ hơn 1.6 triệu người thất nghiệp – gần một nửa con số của ba năm trước đó [49] Ưu điểm khác mà hỗ trợ sự phục hồi kinh tế Anh sau khi suy thoái đầu những năm 1980 bao gồm việc giới thiệu Khu doanh nghiệp, về đất đai deindustrialised nơi ngành công nghiệp truyền thống đã được thay thế bởi các ngành công nghiệp mới cũng như phát triển thương mại với các doanh nghiệp được giảm thuế và miễn lãi suất trong một thời gian nhất định, như một sự khuyến khích thành lập cơ sở trong các khu vực này.
Hậu quả Chính trị.
Bài chi tiết: Hoa Kỳ Nhà cuộc bầu cử năm 1982 và Thượng viện Hoa Kỳ bầu cử năm 1982
Cuộc suy thoái diễn ra gần một năm khi Tổng thống Ronald Reagan tuyên bố vào ngày 18 tháng 10 1981, nền kinh tế đang có một “cuộc suy thoái nhẹ”. [22] ”Reagan suy thoái kinh tế”, [23] [24] [25] cùng với cắt giảm ngân sách (được ban hành vào năm 1981 nhưng bắt đầu có hiệu lực vào năm 1982), dẫn đầu nhiều cử tri tin rằng Reagan đã không nhạy cảm với nhu cầu của người dân. [26] [27] [28] Tháng 1 năm 1983, mức chấp nhận cử tri của Reagan đã giảm còn 35%, gần mức của Richard Nixon và Jimmy Carter tại thời điểm họ không được ưa chuộng nhất [29]. [30] [31] Mặc dù mức chấp nhận không tệ như Nixon trong vụ bê bối Watergate, chuyện Reagan tái đắt cử dường như không tưởng [32] [33] [34] [35] [36] Bị áp lực để chống thâm thủng gia tăng do suy thoái kinh tế, Reagan đã đồng ý tăng thuế doanh nghiệp vào năm 1982. Tuy nhiên, ông từ chối để tăng thuế thu nhập cá nhân hoặc cắt giảm chi tiêu quốc phòng. Đạo Luật Thuế Doanh Nghiệp và Luật Trách nhiệm Ngân Sách năm 1982 hình thành gia tăng trong vòng 3 năm 100 tỷ USD, đây là đợt tăng thuế lớn nhất kể từ Thế chiến II [37].Năm 1982 trong cuộc bầu cử Quốc hội giữa nhiệm kỳ được xem như là một trưng cầu dân ý về Reagan và các chính sách kinh tế của ông. Kết quả bầu cử được chứng minh là một trở ngại cho Reagan và Đảng Cộng hòa. Đảng Dân chủ đã đạt thêm được 26 ghế trong Hạ viện, đó là số ghế nhiều nhất cho bất kỳ Đảng phái nào sau “Watergate” của năm 1974 [38] [39] [40] [41] [42] [43] Tuy nhiên, số ghế tại Thượng viện vẫn không thay đổi.

Early 1980s recession

Recession in the United States

GDP growth in the United States in the early-1980s. The short recession at the start of the decade, followed by a brief period of growth and the deeper recession in 81–82, have led to this period being characterized as a W-shaped recession.
Percent Change From Preceding Period in RealGross Domestic Product (annualized; seasonally adjusted); Average GDP growth 1947–2009
Source: Bureau of Economic Analysis

The early 1980s recession was a severe recession in the United States which began in July 1981 and ended in November 1982.[2][3] The primary cause of the recession was a contractionary monetary policy established by the Federal Reserve System to control highinflation.[4]

In the wake of the 1973 oil crisis and the 1979 energy crisis, stagflation began to afflict the economy of the United States.Unemployment had risen from 5.1% in January 1974 to a high of 9.0% in May 1975. Although it had gradually declined to 5.6% by May 1979, unemployment began rising again thereafter. It jumped sharply to 6.9% in April 1980 and to 7.5% in May 1980. A mild recession from January to July 1980 kept unemployment high, but despite economic recovery unemployment remained at historically high levels (about 7.5%) through the end of 1981.[5] Unemployment continued to grow through 1982, reaching 10% nationally, and reached a record peak of 25% in Rockford, Illinois.[6] Inflation, which had averaged 3.2% annually in the post-war period, had more than doubled after the 1973 oil shock to a 7.7% annual rate. Inflation reached 9.1% in 1975, the highest rate since 1947. Inflation declined to 5.8% the following year, but then edged higher. By 1979, inflation reached a startling 11.3% and in 1980 soared to 13.5%.[2][7]

A brief recession occurred in 1980. Several key industries—including housing, steel manufacturing and automobile production—experienced a downturn from which they did not recover through the end of the next recession. Many of the economic sectors that supplied these basic industries were also hard-hit.[8]

Determined to wring inflation out of the economy, Federal Reserve chairman Paul Volcker slowed the rate of growth of the money supply and raised interest rates. The federal funds rate, which was about 11% in 1979, rose to 20% by June 1981. The prime interest rate, a highly important economic measure, eventually reached 21.5% in June 1982.[3][9]

Recession in the United Kingdom

As with most of the developed world, recession also hit the United Kingdom at the turn of 1980s, although the economy had been plagued by a string of crises for most of the 1970s and unemployment had gradually increased since the mid 1960s.

When the Conservative Party led by Margaret Thatcher won the general election of May 1979 and swept James Callaghan’s Labour Partyfrom power, the country had just witnessed the Winter of Discontent in which numerous public sector workers had staged strikes. Inflation was about 10% and some 1,500,000 people were unemployed; compared to some 1,000,000 in 1974, 580,000 in 1970 and just over 300,000 in 1964.[44] Margaret Thatcher set about to control inflation with monetarist policies and change trade union laws in an attempt to reduce the strikes which had blighted Britain for so many years.

Mrs Thatcher’s battle against inflation resulted in the closure of many inefficient factories, shipyards and coalpits – mostly during her first four-year term in power. This helped bring inflation below 10% by the turn of 1982 (having peaked at 22% in 1980) and by spring 1983 it had fallen to a 15-year low of 4%. Strikes were also at their lowest level since the early 1950s.

However, it also resulted in unemployment reaching 3,000,000 by January 1982 – a level not seen for some 50 years. Even the 2,000,000 figure first seen towards the end of 1980 had not been reached in over 40 years.

By April 1983, Britain – once known globally as the “workshop of the world” due to its strong manufacturing base – became a net importer of goods for the first time ever, largely due to the loss of heavy industry under Thatcher. Areas of Tyneside, Yorkshire,Merseyside, South Wales, the West of Scotland and the West Midlands were particularly hard hit by the loss of industry and subsequent sharp rise in unemployment. The national average by January 1982 was around 12.5%, but in some of these regions it was approaching 20% and would remain similarly high for a number of years afterwards.

In the first three years of Mrs Thatcher’s premiership, opinion polls gave the Tory government approval ratings as low as 25%, with the polls initially being led by the Labour opposition and then by the SDP-Liberal Alliance which was formed by the Liberal Party and the Labour breakaway Social Democratic Party during 1981.

However, Britain’s victory in the Falklands War in June 1982 sparked a turnaround in support for the Tory government, who were re-elected by a landslide in the general election 12 months later.[45]

Recovery

The mid-term Congressional elections proved to be the low point of the Reagan presidency.

According to Keynesian economists, a combination of deficit spending and the lowering of interest rates slowly led to economic recovery.[46] From a high of 10.8% in December 1982, unemployment gradually improved until it fell to 7.2% on Election Day in 1984.[5]Nearly two million people left the unemployment rolls.[47] Inflation fell from 10.3% in 1981 to 3.2% in 1983.[2][48] Corporate earnings rose by 29% in the July–September quarter of 1983, compared with the same period in 1982. Some of the most dramatic improvements came in industries hardest hit by the recession, such as paper and forest products, rubber, airlines, and the auto industry.[47]

By November 1984, voter anger at the recession evaporated and Reagan’s re-election was not in doubt.[35][36][43] Reagan was subsequently re-elected by a landslide electoral and popular vote margin in the 1984 presidential election. Immediately after the election, Dave Stockman, Reagan’s OMB manager admitted that the coming deficits were much higher than the projections released during the campaign.

As for the United Kingdom, economic growth was re-established by the end of 1982, although the era of mass unemployment was far from over. By the summer of 1984, unemployment had hit a new record of 3,300,000 (although the depression of the early 1930s had seen a higher percentage of the workforce unemployed) and it remained above the 3,000,000 mark until the spring of 1987, when theLawson Boom – so named as it was the consequence of tax cuts by chancellor Nigel Lawson – sparked an economic boom that saw unemployment fall dramatically. By early 1988, it was below 2,500,000. By early 1989, it fell below 2,000,000, and by the end of 1989 just over 1,600,000 were unemployed – almost half the figure of three years earlier.[49] Other incentives which aided the British economic recovery after the early 1980s recession included the introduction of Enterprise Zones, on deindustrialised land where traditional industries were replaced by new industries as well as commercial developments – with businesses being given tax breaks and exemption from rates for a certain period of time, as an incentive to set up base in these areas.

Political fallout

The recession was nearly a year old before President Ronald Reagan stated on October 18, 1981, that the economy was in a “slight recession”.[22]

The “Reagan recession,”[23][24][25] coupled with budget cuts (which were enacted in 1981 but began to take effect in 1982), led many voters to believe that Reagan was insensitive to the needs of average citizens.[26][27][28] In January 1983, Reagan’s popularity rating fell to 35%—approaching levels experienced by Richard Nixon and Jimmy Carter at their most unpopular.[29][30][31] Although his approval rating did not fall as low as Nixon’s during the Watergate scandal, Reagan’s reelection seemed unlikely.[32][33][34][35][36]

Pressured to counteract the increased deficit caused by the recession, Reagan agreed to a corporate tax increase in 1982. However, he refused to raise income taxes or cut defense spending. The Tax Equity and Fiscal Responsibility Act of 1982 instituted a three-year, $100 billion tax hike—the largest tax increase since World War II.[37]

The 1982 mid-term Congressional elections were largely viewed as a referendum on Reagan and his economic policies. The election results proved to be a setback for Reagan and the Republicans. The Democrats gained 26 House seats, which at the time was the most for the party in any election since the “Watergate year” of 1974.[38][39][40][41][42][43] However, the net balance of power in the Senate was unchanged.

0 comments:

Powered By Blogger