Wednesday, February 28, 2018

Hiệp định Paris 1973 chưa chết?


AuthorKý ThiệtSourceThế Giới MớiPosted on: 2018-02-28
Hiệp định Paris được ký‎ kết ngày 27.1.1973, cách đây 45 năm, giữa 4 bên: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (CSBV), Việt Nam Cộng Hòa và Cộng Hòa Miền Nam VN. Ngoài bốn bên tham chiến k‎ý kết, bản hiệp ước còn được Liên Hiệp Quốc và 12 nước cùng ký tên “bảo đảm” sự thi hành.
Chưa đọc nội dung bản hiệp định, chỉ mới nhìn vào “bốn bên” ký‎ tên đã thấy có điều không ổn: Hoa Kỳ và CSBV ký ngang nhau, VNCH chỉ được ký hàng dưới, ngang với bọn VC ở miền Nam, một con ma mà ai cũng biết do CSBV vẽ ra.
Trong hơn bốn năm thương thuyết, cũng chỉ có Kissinger (HK) và Lê Đức Thọ (CSBV) đi lại với nhau, trả giá với nhau cho đến khi đẻ ra cái quái thai được gọi là “Hiệp Định Chấm dứt Chiến Tranh và Phục Hồi Hòa Bình tại Việt Nam” (Agreement on Ending the War and Restoring peace in Vietnam).
Trong gần 5 năm Hoa Kỳ và CSBV điều đình với nhau, VNCH bị đặt ra ngoài và đã bị đồng minh Hoa Kỳ ép buộc phải ký vào một “hiệp định hòa bình” mà TT Nguyễn Văn Thiệu gọi là “hòa bình của nấm mồ”.
Chuyện gì xảy ra sau đó và số phận của bản “hiệp định” ấy ra sao thì mọi người đã biết. Nay, sau 45 năm, biết bao nhiêu “nước đã chảy qua cầu”, bao nhiêu nước mắt và máu của dân Việt Nam vẫn còn tiếp tục chảy, thì Luật sư Lê Trọng Quát đã nhân danh “Thủ tướng Chính Phủ Pháp Định Việt Nam Cộng Hòa” viết cho TT Hoa Kỳ Donald Trump một bức thư (đề ngày 1.2.2018), có đồng kính gửi Tổng Thống, Thủ Tướng Pháp, Anh, Canada, Nga, Nam Dương, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Nguyên văn bức thư được dịch ra Việt ngữ và được phổ biến trên mạng điện tử như sau:
Kính thưa Tổng Thống,
Tình hình Biển Đông Á Châu càng ngày trầm trọng. Bên cạnh thái độ hung hãn của Chủ tịch Bắc Hàn Kim Yong Un hăm dọa phóng hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử vào lãnh thổ Hoa Kỳ, Trung Cộng tăng cường quân sự hóa Trường Sa và Hoàng Sa bất chấp cảnh cáo của Hoa kỳ, hoành hành trong vùng biển thuộc nhiều quốc gia, làm suy giảm sự tin cậy của các nước trong Vùng với HK, điển hình là Phi Luật Tân
Ảnh hưởng xấu này đang lan tràn đến các nước vốn là đồng minh của HK nay dần dần ngả về TC trong kế hoạch TC kéo họ tham gia chương trình Ngân Hàng Á Châu Đầu Tư Hạ tầng Cơ Sở (Asia Investment in Infrastructures Bank) và chương trình xây dựng « Đường Tơ Lụa Mới » New Silk Road Funds xuyên Á – Trung Đông đến tận Phi Châu « One Belt One Road » (OBOR) nhằm phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung Cộng trong một vùng rộng lớn bao trùm 68 quốc gia, 4,4 tỷ người, 62 % tổng lợi tức GDP thế giới và chất chứa 75% dự trữ năng lượng biết được.
Chủ trương bành trướng lãnh thổ và kinh tế vĩ đại này không gặp một sự cản trở nào, ngay cả tại vùng kế cận Đông Nam Á Châu. Sự kiện lạ lùng này đã rõ, bắt nguồn từ những sai lầm lớn lao của chính sách đối ngoại của đảng Dân Chủ Hoa Kỳ trong 72 năm nay.
– Thật vậy, đảng Dân Chủ Hoa Kỳ với Tổng Thống Harry Truman đã bỏ rơi nhiều dân tộc ở Đông Âu trong vòng tay của lãnh tụ cộng sản Staline sau Đệ Nhị Thế Chiến rồi tệ hại hơn nữa, bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc năm 1949 cho cộng sản Mao Trạch Đông trong lúc quốc gia này đã cùng chiến đấu với Hoa Kỳ chống Nhật và trở thành một trong 5 cường quốc thành viên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc từ sau khi Đồng Minh chiến thắng Nhật ở Thái Bình Dương, tháng 8, 1945.
– Tiếp đến là Tổng thống John F.Kennedy với những trách nhiệm nặng nề qua hai lỗi lầm quan trọng: sách lược quân sự “ bờ đê ngăn chận” đánh trả hạn chế, đánh địch nhưng không chủ trương thắng địch, của bộ trưởng Quốc Phòng MacNamara khiến cho cuộc chiến kéo dài cho đến khi Hoa Kỳ bỏ cuộc trong lúc có thể kết thúc thắng lợi cuộc chiến bất cứ lúc nào để củng cố vững chắc con đê ngăn chận sự bành trướng của Trung Cộng ở Đông Nam Á.
– Chính phủ Kennedy cũng đã tạo nên cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11, 1963 phá sập nền Đệ Nhất Cộng Hòa VN, và sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người lãnh đạo hữu hiệu nhất của nước này, mở đường cho bộ đội Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập ồ ạt Miền Nam, làm suy yếu hẳn năng lực chống Cộng của VNCH khiến cho Hoa Kỳ phải đưa liên tục nhiều trăm ngàn quân vào Miền Nam, tham chiến từ 1965 đến 1973 với vô vàn tổn phí và hy sinh nhân mạng để cuối cùng thất bại.
– Thật vậy, tiếp tục thi hành chính sách đánh nhưng không được thắng, sau cuộc dội bom dữ dội các mục tiêu quân sự của CSBV trong suốt hai tuần trước lễ Giáng Sinh 1972, Hà Nội đã sẵn sàng đầu hàng nhưng Hoa Kỳ ngưng tấn công để vài tuần sau ký Hiệp Định Paris ngày 27 tháng 1, 1973, bán đứng VNCH cho CSBV. Riêng về vụ này, tổng thống Nixon muốn giữ lời hứa mang lại hòa bình cho Việt Nam, đã hứa với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sẽ can thiệp mạnh và tức thời nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp Định, tấn công VNCH. Sự cam kết bằng nhiều văn thư chính thức của TổngThống Nixon đã không được thực hiện vì ông đã buộc phải từ chức bởi vụ Watergate và vì đa số nghị sĩ đảng Dân Chủ ở Quốc Hôi Hoa Kỳ đã ngăn cấm mọi hoạt động quân sự ở Việt Nam.
– Vừa đây một số cựu giới chức tình báo Hoa Kỳ với ông Ted Gunderson đã tiết lộ công khai rằng Hà Nội đã xin đầu hàng tếp theo vụ dội bom trước Giáng Sinh 1972 nhưng Hoa Kỳ đã dấu nhẹm để tiếp tục hiệp thương với Hà Nội như ghi trên. Đây là một trường hợp đặc biệt cần được Tổng Thống cho điều tra để làm sáng tỏ một vụ hết sức quan trọng vì nếu thật như vậy thì không phải là một lỗi lầm mà rõ ràng là một hành động phản bội trắng trợn Đồng Minh VNCH và 57.000 chiến sĩ Hoa kỳ đã hy sinh trên chiến trường Việt Nam.
-Sau cùng cũng chính Đảng Dân Chủ Hoa Ký, qua đa số của họ ở Quốc Hội, đã ngăn cấm quân đội Hoa kỳ can thiệp chống lại các cuộc tấn công của quân đội cộng sản Bắc Việt, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris 27 tháng 1, 1973 mà Định Ước chung quyết (Acte final) ngày 2 tháng 3 được chính phủ Hoa Kỳ ký kết với 11 chính phủ khác trước sự chứng giám của Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc, một sự can thiệp mà chính Tổng Thống Hoa Kỳ Nixon đã chính thức cam kết thực hiện với Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu như đã ghi trên.
Tệ hại hơn nữa, với đa số ở quốc Hội, đảng Dân Chủ đã không cho tháo khoán 375 triệu đô-la còn lại trong ngân sách quân viện để quân đội VNCH tăng cường phương tiện chiến đấu trong trận chiến quyết định số phận của đất nước họ.
– VN là một tiền đồn án ngữ sự bành trướng của Trung Cộng về Đông Nam Á Châu nên không thể nào nằm mãi trong tay của CSVN, một đàn em của chính TC. Bởi những lệ thuộc chặt chẽ về nhiều mặt: giáo điều chủ nghĩa, công ơn của TC hỗ trợ tối đa cho CSVN trong cuộc xâm lăng VNCH, đảng CSVN không thể nào thoát ra được sự kiềm tỏa của TC, chưa kể Hiệp Ước Thành Đô năm 1990 đang dần dần thực hiện cho đến năm 2020 thì VN sẽ trở thành một Vùng Tự Trị của Trung Cộng.
– Để bảo vệ chính sinh mạng của quốc gia Việt Nam liên hệ mật thiết với an ninh và hòa bình của toàn vùng Đông Nam Á Châu và Thái Bình Dương, chúng tôi , Chính Phủ Pháp Định VNCH phản ảnh ý nguyện của dân tộc VN trong nước và ở hải ngoại, long trọng và thiết tha kêu gọi Tổng Thống Donald Trump vì quyền lợi chính đáng của Hoa Kỳ, đại cường của Thế Giới và đặc biệt của vùng Thái Bình Dương đang dậy sóng, ngăn chận cụ thể sự bành trướng đại qui mô của TC như kể trên và chế tài các hành động của chúng : bất chấp luật pháp quốc tế như vụ xâm chiếm và quân sự hóa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, chiếm đoạt các vùng biển đảo của các nước khác trong vùng, kiểm soát các tuyến lưu thông trên không và trên biển, ngăn cản đe dọa các hoạt động đánh cá và khai thác dầu hỏa trên biển Đông Nam Á.
– Mặt khác, chúng tôi thỉnh cầu Tổng Thống cho thi hành đạo luật của Quốc Hội Hoa Kỳ PL 93-559-DEC.30, 1974 khoản 4 “phục hoạt Hội Nghị Paris nhằm thực hiện toàn vẹn các điều khoản của Hiệp Định Paris 27 tháng 1, 1973 về phần các đối tác Việt Nam….” mà VNCH chúng tôi là một đối tác chính.
– Với hiệu lực của đạo luật này và hiệu lực vĩnh viễn của Hiệp Định Paris – một hiệp định quốc tế không bị triệt tiêu bởi thời gian và không bị bỏ quên vì nhân dân Miền Nam VN và chính phủ VNCH trước và sau 1975, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, liên tục đòi hỏi và tranh đấu bằng mọi cách trong khả năng của mình để phục hoạt Hiệp Định – chúng tôi tin rằng một giải pháp công bằng, hợp lý, đúng với công pháp quốc tế có thể thành tựu đặng dân tộc Việt Nam hành sử được quyền tự quyết của mình, giải thoát khỏi chế độ cộng sản độc tài toàn trị và góp phần xứng đáng vào công cuộc ngăn chận làn sóng đỏ tuôn tràn xuống miền Đông Nam Á Châu.
– Để thi hành sứ mạng này đồng thời tái thiết và phát triển toàn diện đất nước của mình từ Bắc chí Nam, Việt Nam Cộng Hòa tương lai sẽ hợp tác chặt chẽ, bền vững với ưu tiên cao nhất với quý quốc trong mọi lãnh vực, hai nước cùng có lợi , an ninh và hòa bình được củng cố trong vùng địa lý chiến lược này của thế giới.
– Chúng tôi chắc rằng Tổng Thống đã nhận thấy những sai lầm cực kỳ tai hại của đảng Dân Chủ từ 7 thập niên qua như đã trình bày,và thỉnh cầu Tổng Thống giải quyết những hậu quả đang còn di lụy cho Việt Nam và các vùng khác trên địa cầu vì chính quyền lợi chính đáng thiết thực của Hoa Kỳ và sự cần thiết chu toàn sứ mạng lịch sử của Hiệp-Chủng-Quốc Hoa Kỳ góp phần thiết yếu bảo vệ tự do của nhân loại và hòa bình của thế giới.
– Với khả năng đặc biệt của Tổng Thống chỉ trong một năm chấp chánh đã thực hiện sự gia tăng thịnh vượng của Hoa Kỳ, chúng tôi tin tưởng Tổng Thống sẽ chu toàn sứ mạng cao quí này.
– Một khi giải thoát xong khỏi đảng CSVN lệ thuộc Trung Cộng, dân tộc VN chúng tôi, non 100 triệu người như một, sẽ tạo nên một thành trì vững chắc chống lại mọi kẻ thù xâm lược từ phương Bắc và góp phần xứng đáng vào công cuộc bảo vệ an ninh và hòa bình cho toàn cõi Á Châu -Thái Bình Dương.
Trân trọng kính chào Tổng Thống và xin Ngài nhận nơi đây lòng tri ân sâu xa nhất của dân tộc Việt Nam chúng tôi, một dân tộc khao khát tự do, công lý và dân chủ.
(ngưng trích)
Đạo luật PL 93-559-DEC.30, 1974 là cái gì và Khoản 4 nói gì? Và cũng chưa biết TT Donald Trump sẽ trả lời LS Lê Trọng Quát ra sao. Trong khi chờ đợi, tưởng cũng nên nhắc lại cuộc phỏng vấn mà TT Nguyễn Văn Thiệu đã dành cho tờ báo Đức Spiegel năm 1979 sau khi Kissinger viết những điều dối trá về Hiệp định Paris trong hồi ký của ông ta. Bài phỏng vấn này khá dài, dưới đây là đoạn kết qua bản dịch của Nhà văn Phạm Thị Hoài:
________________________________________
Spiegel: Khi Mỹ đã rút, còn Hà Nội thì được phép tiếp tục đóng quân ở miền Nam, chắc ông phải thấy là ông đã thua trong cuộc chiến này?
Nguyễn Văn Thiệu: Không hẳn, nếu chúng tôi tiếp tục được sự trợ giúp cần thiết từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đã hứa khi chúng tôi đặt bút ký hiệp định. Ngay cả khi ký, tôi đã coi đó là một nền hòa bình tráo trở.
Nhưng chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt. Vì hai lý do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng văn bản của Tổng thống Nixon rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định. Thứ hai, chúng tôi được đảm bảo là sẽ có đủ viện trợ quân sự và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ thực lòng giữ lời hứa thì chiến tranh có thể kéo dài, nhưng miền Nam sẽ không bị Bắc Việt thôn tính.
Spiegel: Về điều này thì ông và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy viết rằng chiến lược toàn cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động trước bất kỳ một vi phạm nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam. Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, vì sau đó Tổng thống Mỹ không còn đủ uy tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách nhiệm, khiến tất cả sụp đổ không?
Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không phải là người Mỹ. Tôi không muốn quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu người Mỹ giữ lời hứa thì đó là sự cảnh cáo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp tục xâm lăng, và chiến tranh có thể sẽ dần chấm dứt.
(hết trích)
“Nhà người Mỹ” hiện nay cũng đang có nhiều “rác”, nào DACA, nào MEMO, nào FISA…

Ký Thiệt
------------

Đúng là miệng lưỡi cộng sản!

Nguyễn Dư (Danlambao) - Lang thang trên mạng, đọc một bài viết thấy... hay hay nên tôi có vài lời để gọi là đáp lễ. Bài viết trên báo Công An Nhân Dân với tựa đề: "Cảnh giác trước chiêu trò “vặt” dịp kỷ niệm 50 năm Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968". 

Mở đầu, có đoạn cần lưu ý: "Những ngày qua và cho đến Tết Mậu Tuất 2018, tại nhiều địa phương cả nước có những hoạt động thiết thực kỷ niệm sự kiện lịch sử trọng đại này của dân tộc"

"Thông qua các hoạt động đó, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công càng được khẳng định, trở thành biểu tượng của ý chí quyết chiến, quyết thắng, khí phách quật cường và khát vọng hòa bình, độc lập của toàn thể dân tộc; thể hiện nghệ thuật chiến tranh cách mạng, sức sáng tạo vượt bậc của chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh…"

Luận điệu của cộng sản thì không ai còn lạ gì! Đọc toàn bài thì khó ai mà chịu nổi cái mùi xú uế. Thối đến thế thì thôi!

Xin kể một câu chuyện có thật như thế này: Tôi có người cậu thứ Sáu, hồi những năm đầu của thập niên sáu mươi, ông là trưởng ấp. Trưởng ấp thời đó không được trang bị vũ khí cá nhân vì làm công việc thuộc về hành chánh (đó là một trong những cái ngây thơ của người thuộc phe Việt Nam Cộng Hòa). Ban đêm quân du kích mò về dụ dỗ ông vào rừng theo chúng chống lại người Quốc gia. Dụ không được, chúng trở mặt đe dọa. Sợ quá, ban đêm thì cậu và thằng con trai lớn phải ôm mùng mền chiếu gối vào đồn lính Quốc gia ngủ; ban ngày thì về nhà lo việc hành chánh, làm ruộng. Bỗng một hôm, biết tin lính Quốc gia đêm đó đi hành quân nên hai cha con cậu yên lòng ngủ nhà (theo lời Mợ thì cậu bị nội gián tung tin, gài). Đến gần sáng, độ chừng bốn năm giờ gì đó, lính Quốc gia rút về đồn nghỉ ngơi; quân du kích lại mò về bịt mắt cha con cậu, dẫn ra bờ ruộng phía sau nhà bắn.

Nhớ lại trận Mậu thân, ngày nay người ta phần đông chỉ tập trung vào vụ thảm sát ở Huế. Có lẽ đó là vụ thảm sát tập thể ghê rợn, dã man nhất, cho nên mọi người quên đi thời đó khắp trên bốn vùng miền Nam, đâu đâu quân "nổi dậy" tàn sát người dân có dính líu với người Quốc gia cũng không kém phần dã man như trường hợp hai cha con của cậu tôi như thế. Họ không dám "đụng" trực tiếp quân đội Quốc gia, cho nên mới tìm cách "ăn vặt". Năm Mậu Thân, ở vùng đồng bằng, chúng giết người rồi cột thành từng chùm thả trôi sông. Báo chí một thời lên án về sự tàn độc đó, nhưng rồi dần dần người ta cũng quên đi.

Thật là... hết biết luôn! Khổ quá! Giết người man rợ như thế thì đúng đó là "biểu tượng của ý chí quyết chiến, quyết thắng, khí phách quật cường", hay có thể gọi gọn gàng, chính xác hơn chỉ gồm hai chữ: hiếu chiến; nó không phải là "khát vọng hòa bình, độc lập của toàn thể dân tộc"!

Từ khi chia đôi đất nước cho đến ngày thống nhất cả hai miền, cộng sản bắc Việt giết người dã man và luôn nuôi ý đồ thôn tính miền Nam bằng vũ lực, chứ không cho người dân hai miền có cơ hội tự chọn lựa đảng phái lãnh đạo quốc gia trong "hòa bình". Người miền Nam chỉ biết lo chống đỡ, tự vệ và bảo vệ lãnh thổ của mình; mà miệng mồm kẻ xâm lấn, hiếu chiến cộng sản lại phun ra lời lẽ "khát vọng hòa bình" thì là một luận điệu rất ấu trĩ, ngây ngô hết thuốc chữa luôn!

Trận Mậu Thân là một vụ thảm sát, người cộng sản ra tay tàn độc không thể chối cãi. Nhiều năm nay, hễ đến đầu năm, người ta hay nhắc đến chuyện đau buồn đó. Phía người cộng sản thì đổ thừa do sợ máy bay Mỹ phát hiện quân đội bắc Việt rút quân và dẫn theo tù binh; rồi nào là do quân nổi dậy (thời nay còn gọi là "quần chúng tự phát") căm thù nên mới có cuộc thảm sát (!). Có người (hình như bác Bùi) thì cho rằng trong lệnh rút quân vào rừng, cộng sản không thể dẫn theo tù binh, sợ bị lộ... (!)

Điểm lại cách hành xử từ khi chia đôi đất nước cho đến ngày cộng sản cưỡng chế bằng vũ lực để thống nhất hai miền; những chứng nhân còn sống chứng kiến và những câu chuyện được kể, sự thật phơi bày, người ta khó ai mà tin lời cộng sản. Phải khẳng định, họ giết người dã man và phá rối sự yên bình của miền Nam là có chủ trương và là sự chỉ đạo từ trung tâm đầu não bộ chính trị Hà Nội, chứ không vì bất kỳ một lý do khách quan nào cả.

Mậu Thân là một trận đánh mà Hà Nội định chơi xả láng: "được thì ăn cả", mà "ngã thì về... bưng". Thật vậy, cả bốn chục ngàn tàn quân du kích miền Nam trang bị thô sơ: mặc quần đùi, áo cộc tay, cầm AK, mìn và lựu đạn thì ngụy trang bằng những gánh hàng trái cây hay xe ba gác chở hoa quả. Họ vào các thành phố lớn hoặc Sài Gòn không biết đường. Khi bị phản công của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, họ chạy tán loạn và bị tiêu diệt gần hết. Ông tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa căm phẫn cộng sản đến tột độ, bắn vào đầu một tên chỉ huy đặc công Việt cộng trước các ống kính và nhiều ký giả của các tờ báo lớn. Hình ảnh đó cho chúng ta thấy ít nhất là hai điều: Một là người du kích ăn mặc áo cộc tay, quần đùi như một tên đầu đường xó chợ; hai là ông tướng bất chấp hậu quả cá nhân phải gánh chịu trước công luận về sau. 

Hà Nội có ý định, nếu rủi ro bị nướng sạch đám tàn quân ô hợp và rời rạc, không có tổ chức chu đáo, trang bị thô sơ, lượm thượm này thì họ sẽ thành lập đội quân chính quy được điều khiển hẳn hoi từ Trung ương cục và Bộ chính trị. Trận đánh lớn lần thứ nhì, mùa hè năm 1972 đã nói lên điều đó.

Hàng năm, đáng lý ra chuyện giặc cộng tấn công năm Mậu Thân nên cho vào quên lãng, nhưng khổ nổi người ta lại ca ngợi chiến công, thành tích giết người man rợ đáng kinh tởm đó cho nên cư dân mạng mới dậy sóng trong mấy ngày đầu năm

Nhắc đến chính sử thì mấy ông cộng sản dốt đặc. Họ chỉ biết nói lấy được về phần mình, bất kể thiên hạ nghĩ sao, tùy! Lý do nào dẫn đến trường hợp như thế? 

Đọc lại danh sách trong bộ chính trị thì chúng ta sẽ thấy: Đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng, già nhất nhưng khổ nổi ông mang cái hỗn danh là lú. Còn lại những người kế tiếp, tuổi đời cao nhất là sinh năm 1953 (không tính tuổi ăn gian của Trần Đại Quang) thì những người đó trong lúc trận Mậu Thân, họ chỉ mới mười lăm tuổi. Với số tuổi đó thì biết gì về thời cuộc!? 

Thế nhưng, về lịch sử của cộng sản thì đã có chủ trương hẳn hoi: đảng nói sao, nghe vậy; cộng với sự bưng bít thông tin thì có ai mà sáng mắt sáng lòng được đâu! Cho nên trên báo Công an mới có bài viết... ca ngợi về sự thất trận, chết chóc ê chề năm Mậu Thân, mà họ cứ tưởng là chiến công hiển hách, "khát vọng hòa bình"!


Tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư Việt Nam-Hiện trạng và khả năng thực tế

Nguyễn Hoàng Dân (Danlambao) - Theo số liệu chính thức do ban tuyên giáo trung ương của đảng cộng sản Việt Nam tổng kết và đưa ra trong năm 2013, tính trên toàn quốc Việt Nam đã có 4,28 triệu người có trình độ học vấn từ bậc cao đẳng, hay đại học trở lên, trong đó có hơn 24.300 tiến sĩ, tức Doctor’s degree, hay Ph.D tức Doctor of Philosophy và 101.000 thạc sĩ, tức Master’s degree, như MA (Master of Art ), hay MS (Master of Science), hoặc MBA (Master of Business Administration)… tùy ngành học.

Số lượng giáo sư, phó giáo sư sau 25 đợt chính phủ cộng sản Việt Nam tổ chức xét tuyển và phong cấp chức danh từ 1980 đến 2016, đã có 10.774 người trong tổng số các tiến sĩ nói trên, được cấp chức danh giáo sư (Professor), hoặc phó giáo sư (Associate Professor), trong đó có 1.715 giáo sư và 9.059 phó giáo sư.

Kết quả nghiên cứu công bố năm 2015 của diễn đàn kinh tế thế giới WEF (World Economic Forum) cũng cho thấy Việt Nam là một trong 10 quốc gia hàng đầu thế giới có số kỹ sư rất lớn. Tuy báo cáo không đề cập tới Trung cộng và Ấn Độ, nhưng về tổng thể Việt Nam chỉ đứng sau Nga, Hoa Kỳ, Iran, Japan, South Korea, Indonesia, Ukraine, Mexico và Pháp với nhịp độ đào tạo, cung ứng vào thị trường nhân lực 100.390 kỹ sư tốt nghiệp trong năm nghiên cứu.

Nhìn những con số rực rỡ trên đây người ta dễ lóa mắt trước các thành tựu trồng người, đào tạo nhân tài cho xứ sở của hệ thống giáo dục nhà nước cộng sản Việt Nam, nếu thỉnh thoảng không có một vài tiếng sét kinh hoàng bất ngờ xẹt ngang giữa bầu trời êm ả, nhưng lại có sức công phá khủng khiếp, xé toạc màn đêm dối trá, danh giá hảo, với những tiến sĩ giấy, những phỗng giáo sư và các thành tích là sự thật trần trụi đến mức vô duyên, không thể hiểu nổi.

1/ Không có khả năng nghiên cứu, hay phát minh: Trong tổng số 24.300 tiến sĩ và với gần 11.000 chức danh giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam, chỉ có 8.869 tiến sĩ (36%) hay 4.900 người có chức danh giáo sư, phó giáo sư (44%) đang giảng dạy, hay tham gia vào các lãnh vực nghiên cứu khoa học ở các trường đại học. Nếu tính chung luôn với các nhà khoa học làm việc ở các viện nghiên cứu thì chỉ có tổng cộng 9.328/24.300 tiến sĩ có tham gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học. Trong số đó, có một số có công bố kết quả nghiên cứu lên các tạp chí, chuyên san khoa học quốc tế, trong danh sách được bình duyệt, chấp nhận bởi cơ sở dữ liệu trắc lượng khoa học ISI, hay Scopus.

Việc công bố kết quả đề tài nghiên cứu trên các tạp chí, chuyên san khoa học có uy tín, là một yêu cầu căn bản có tính bắt buộc, vì có qua đó mới khảo nghiệm được ảnh hưởng từ một đề tài nghiên cứu của các cá nhân, hay các tổ chức nghiên cứu khoa học lên cộng đồng khoa học thế giới, dựa vào chỉ số IF (Impact Factor) là số lần trích dẫn các bài trong tạp chí đó và chỉ số H-Index là ảnh hưởng cá nhân, biểu hiện bằng số lần trích dẫn bài viết, hay đề tài nghiên cứu của người đó. Do có quá nhiều tạp chí khoa học trên thế giới, nên chỉ có các tạp chí được Viện Thông tin Khoa học Hoa Kỳ (Institute for Scientific Information – ISI) khởi sự đánh giá từ năm 1960 và nhà xuất bản Elsevier của Hòa Lan với hệ thống Scopus bắt đầu đánh giá từ năm 2004 công nhận, mới được cộng đồng khoa học thế giới chấp nhận về mức độ uy tín, trong đó ISI có giá trị vượt trội.

Trong vòng 10 năm, từ 1996 tới 2005, các giáo sư, tiến sĩ Việt Nam chỉ công bố vỏn vẹn được 3.456 đề tài nghiên cứu khoa học, lên các chuyên san quốc tế thuộc hệ thống ISI, bằng 1/3 so với Malaysia, 1/5 so với Thailand và 1/14 so với Singapore.

Chỉ tính riêng năm 2004, trong tổng số 1.600 tổ chức khoa học, công nghệ trên cả nước, gồm luôn hai viện nghiên cứu cấp quốc gia và 207 trường đại học, cũng chỉ có tất cả 403 đề tài nghiên cứu khoa học được công bố quốc tế, trong đó có 83 đề tài thuộc 4 trường đại học hàng đầu và 82 đề tài của viện Khoa học Công nghệ Việt Nam, so với cùng thời kỳ 2 trường đại học Thailand là Chulalongkorn công bố 416 đề tài và trường đại học Mahidol công bố 465 đề tài. Số lượng đã ít, phẩm chất các đề tài do Việt Nam công bố lại càng thê thảm hơn. Số lần các đề tài nghiên cứu Việt Nam được các tác giả khác trích dẩn trung bình là 6,8 lần, so với số lần trích dẫn những đề tài do Thailand công bố trung bình là 12,95 lần. Không hiểu tình trạng này xảy ra là vì trình độ nghiên cứu non kém, hay khả năng của giới khoa học Việt Nam cũng chưa thoát ra khỏi sự ngớ ngẩn khi chọn đề tài, như trường hợp phi hành gia Phạm Tuân và chuyến bay hữu nghị Việt – Xô vào vũ trụ trong tháng 7/1980, cũng đem bèo hoa dâu lên không gian để thực hiện nghiên cứu (?).

Bên cạnh sự kém cỏi của vấn đề công bố quốc tế về khoa học, những diễn tiến về cầu chứng bằng phát minh - được coi là thước đo đẳng cấp công nghệ, kỹ thuật của một nước, thì trong thời gian từ năm 2006 đến 2010, giới khoa học công nghệ Việt Nam cũng chỉ cầu chứng được 5 bằng phát minh tại Hoaky. Năm 2011 lại không có cầu chứng bằng sáng chế nào mới, so với Singapore có 647 bằng, Malaysia có 161, Thailand có 53 bằng, Philippines có 27, Indonesia có 7 và Brunei có 1 bằng sáng chế cầu chứng năm 2011 tại Hoaky. Tổng cộng số lượng bằng sáng chế do chính Việt Nam cấp theo tiêu chuẩn nội địa, cũng chỉ bằng 1/3 so với Thailand, 1/11 so Malaysia, 1/30 so Singapore, 1/1.214 so Nam Hàn và 1/3.170 so Trung cộng.

2/ Nhiều tiến sĩ, đông đảo kỹ sư nhưng không sản xuất nổi con ốc vít: Trong cuộc hội thảo "Chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ cho Việt Nam", tổ chức tháng 9/2014 tại Hà Nội, tổng giám đốc Shim Won Hwan của đại công ty điện tử Samsung tiết lộ trong tổng số 120 triệu điện thoại thông minh (smart phone) do nhà máy Samsung ở Bắc Ninh sản xuất hàng năm, đóng góp nội hóa của kỹ nghệ Việt Nam chỉ có phần in ấn và bao bì cho sản phẩm. Samsung đã đưa ra danh sách 170 loại phụ tùng rời cần thiết cho smart phone, để đề nghị các cơ sở sản xuất Việt Nam tham gia sản xuất, cung ứng, nhưng đều không được đáp ứng vì không đủ khả năng, dù chỉ là những phụ tùng rất đơn giản, như ốc vít (screws), sạc pin (battery charger), USB cable, tai nghe (headphones), hay vỏ nhựa… Qua các lần hội thảo, triển lãm công nghiệp phụ trợ trong tháng 7/2015 và vào tháng 6/2016, sự bết bát trước yêu cầu tăng tỷ lệ nội hóa trong sản phẩm của Samsung vẫn không được cải thiện, phần đóng góp của Việt Nam vẫn chỉ là bao bì, in ấn, dù theo lời Han Myoung Sup, tổng giám đốc tổ hợp Samsung Việt Nam, họ luôn mong mỏi những doanh nghiệp Việt Nam tham gia nhiều hơn nữa vào chuỗi cung cấp phụ tùng rời cho sản phẩm và khẳng định Samsung vẫn tiếp tục tìm kiếm các đơn vị cung cấp từ phía Việt Nam có đủ khả năng đáp ứng, nhưng vẫn chưa tìm thấy?!!.

Vì đâu nên nỗi:

1/ Văn bằng dỏm xã hội chủ nghĩa: Cho đến thập niên 90 của thế kỷ 20, do khả năng và trình độ chuyên môn của các trường đại học quá kém, nên tất cả tiến sĩ ở miền bắc Việt Nam, đều chỉ được cấp và công nhận học vị tiến sĩ qua ngã làm nghiên cứu sinh tại các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, như Lienxo, Đông Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc. Đây là thành phần được chế độ ưu đãi, có lý lịch tốt, thậm chí là con dòng, cháu giống của các đại công thần được đưa đi… tỵ nạn chiến tranh, nên trình độ học vấn căn bản không đồng đều. Nhiều người ra tới ngoại quốc dành thời gian cho việc học, hay nghiên cứu thì ít, chỉ lo buôn bán kiếm tiền, hay sa đà chuyện ăn chơi, hưởng thụ trong suốt thời gian học tập chuyên môn (không kể thời gian học ngoại ngữ), đến khi phải trình luận án tốt nghiệp thì nhờ người khác viết giúp, để học thuộc lòng và cầu cạnh, quà cáp cho giáo sư hướng dẫn, để nhờ giúp đỡ. Do khuynh hướng hữu nghị xã hội chủ nghĩa, tâm lý đồng cảm Việt Nam còn chiến tranh và cả ý thức coi thường chư hầu nên mọi việc cũng đều ổn thỏa, phần lớn ai cũng bảo vệ thành công học vị tiến sĩ, người kém lắm cũng được công nhận là phó tiến sĩ (Candidate of Sciece), khiến một người trong cuộc là tiến sĩ Nguyễn Văn Hiệu, cựu viện trưởng viện khoa học Việt Nam, đã phải ví von "cứ dắt một con bò qua Nga, thì khi trở về là có một phó tiến sĩ" và dân gian giễu cợt tấm bằng PTS viết tắt là bằng "Phun Thuốc Sâu".

Từ sau năm 1998 trở đi văn bằng phó tiến sĩ được đồng hóa tương đương với học vị tiến sĩ quốc tế hiện hành. Các phó tiến sĩ "con bò" hay "Phun Thuốc Sâu" sau một đêm ngũ dậy, cũng ngang nhiên vươn vai và hãnh diện trở thành… tiến sĩ!!!.

Bên cạnh đó, việc trình và công nhận luận án tiến sĩ cũng bắt đầu được thực hiện tại một số trường đại học, học viện Việt Nam, đưa đến hàng loạt sai phạm nặng nề, thậm chí đã để xảy ra các trớ trêu như những câu chuyện đùa.

Chương trình đào tạo tiến sĩ trong hệ thống giáo dục quốc tế, nhắm đến mục đích cung cấp cho xã hội những nhà khoa học chuyên nghiệp, có đủ khả năng phát hiện, đặt vấn đề nghiên cứu, thí nghiệm, phân tích, đối chiếu và diễn giải một chuyên đề khoa học theo chuyên ngành, tương thích và có ảnh hưởng thiết thực lên công cuộc phát triển quốc gia, hay cho toàn cộng đồng xã hội, thì xu hướng chung của các cơ sở đào tạo tiến sĩ của Việt Nam lại nhằm để phục vụ cho mưu đồ của một tổ chức chính trị, hay tệ hơn chỉ để đáp ứng cho nhu cầu hám danh, trục lợi, giữa người học lẫn người dạy.

Việt Nam là quốc gia hiếm hoi thiết lập hẳn một hệ thống trường đại học cấp quốc gia là học viện chính trị quốc gia Hồ chí Minh, có nhiều học viện phụ thuộc, như học viện báo chí và tuyên truyền, các học viện chính trị khu vực, nhằm mục tiêu duy nhất là đào tạo ra các thạc sĩ, tiến sĩ, phục vụ cho một tổ chức duy nhất là đảng cộng sản Việt Nam, với các chuyên ngành học không giống ai!!!, như tiến sĩ triết học Mác - Lênin, tiến sĩ xây dựng đảng… mà các tiến sĩ tiêu biểu bảo vệ thành công luận án nói lên được khả năng tri thức của họ, như Nguyễn Phú Trọng, đương nhiệm tổng bí thư đảng cộng sản, Tô Huy Rứa, trưởng ban tổ chức trung ương đảng, Phạm Quang Nghị, bí thư thành ủy Hà Nội, Nguyễn Thế Thảo, chủ tịch ủy ban thành phố Hà Nội, hay Vũ Văn Hiền, tổng giám đốc hệ thống phát thanh quốc gia.

Kinh khủng hơn, chỉ trong thời gian ba năm, từ 2015 đến 2017, học viện khoa học xã hội, trực thuộc viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, đã đào tạo được hơn 1.100 tiến sĩ thuộc 36 chuyên ngành, tức trung bình một ngày sản xuất được hơn 1 tiến sĩ, với các luận án bị xã hội hóa đến mức ngô nghê, có một không hai và giả khoa học đến mức không thể coi là đề tài nghiên cứu thích đáng, nghiêm chỉnh cho học vị tiến sĩ, dù là tiến sĩ khoa xã hội học và thuần túy nội địa như "Đặc điểm giao tiếp với dân của chủ tịch xã" hay "Hành vi nịnh trong tiếng Việt", hoặc "Hành vi tham gia giao thông đường bộ của thanh niên" và "Thần thoại mặt trời ở Việt Nam". Có nghiên cứu sinh ngành này, được hướng dẫn bởi một chuyên viên ngành khác, như ngành kinh tế đi hướng dẫn cho ngành giáo dục? một số giáo trình bậc tiến sĩ được soạn chung cho 4, 5 ngành đào tạo khác nhau? hơn nữa các chuyên viên của viện lại ôm đồm trong một lúc rất nhiều nghiên cứu sinh, lên tới mức gần 50 người trong một học kỳ, hầu thu được nhiều tiền hơn!!!. Chỉ tính chương trình đào tạo thạc sĩ trong hai năm của học viện, mỗi học viên phải đóng 15 triệu VNĐ học phí một năm và hàng chục loại phí không có biên lai thanh toán, như tiền hỗ trợ đào tạo, tiền vớt điểm bài thi, tiền vớt điểm bộ môn, tiền bồi dưỡng hội đồng coi thi… tổng cộng lên tới khoảng hơn 100 triệu đồng phí ngoài lề, đối với một học viên bậc tiến sĩ thì còn phải đóng cao hơn (1). Với các thành tích này, dư luận xã hội Việt Nam đã gọi học viện khoa học xã hội Việt Nam là lò ấp tiến sĩ.

2/ Văn bằng giả đại học quốc tế và tiến sĩ đào tạo từ xa: Dốt thì ưa khoa trương, hay phú quý sinh lễ nghĩa gần như là đặc điểm tất yếu của con người. Trong trường hợp đảng cộng sản Việt Nam thoát thai từ hạng cùng đinh, côn đồ thời Pháp thuộc, phối hợp với sự cám dỗ bịp bợm, cổ võ, thúc đẩy giai cấp bần cố nông đang khao khát thoát khỏi cảnh nghèo khó, cùng nổi lên cướp chính quyền, xây dựng và nắm giữ chính quyền bằng bạo lực với đa số quan chức cộng sự, đồng đảng đều không có nền tảng tri thức căn bản của một nền giáo dục khả tín. Khi đã leo lên tới đỉnh cao danh vọng và quyền lực, đồng thời diễn biến thời cuộc không còn cho phép mãi náu mình, tự tung tự tác sau bức màn sắt, phải ra trước ánh sáng công luận của cộng đồng thế giới, thì yếu tố cần phải khoác cho giới cầm quyền một ngoại hình sáng sủa, một ít vốn liếng tri thức giả cầy, phù phiếm để khoe mẽ, hầu che đậy cho thực tế dốt nát của cán bộ và sự hắc ám, tối tăm của một chế độ chính trị công an trị, đã làm nẩy sinh ra nhu cầu phải có được những loại vỏ bọc vừa có giá trị biểu hiện cụ thể, vừa đồng thời phải dể thủ đắc nhất trong xã hội vô pháp, độc tài, thông qua việc xử dụng nhiều giải pháp tồi tệ nhất trong lãnh vực giáo dục để cố giành giật lấy một mảnh bằng, một tước vị học vị, một chức danh học hàm, đáp ứng cho nhu cầu chính trường và cá nhân quan chức kiếm chác danh lợi.

Quan chức cộng sản Việt Nam ngoài mớ lý luận chính trị được đảng trang bị, phần lớn tri thức chỉ là con số không, mặc cảm sút kém văn hóa khiến họ trở nên ưa đeo kính trắng và đua nhau lấy mác tiến sĩ, gắn vào chức danh của mình, vừa để thỏa mãn thói háo danh, sĩ diện hão, vừa được coi như thứ bùa hộ mạng, hay là giấy thông hành giúp họ leo cao, chui sâu hơn vào các bậc thang quyền chức của chế độ, nên trào lưu xài văn bằng giả, tự trang bị cho cá nhân những mảnh bằng tiến sĩ dỏm đủ ngành nghề mua từ các xưởng sản xuất văn bằng (Diploma Mill, hoặc Degree Mill), ngụy trang dưới những danh xưng như đại học quốc tế chi nhánh tại Việt Nam, đại học Việt Nam liên kết đào tạo tiến sĩ với đại học ngoại quốc, hay chương trình đào tạo tiến sĩ từ xa… mà chẳng cần phải học ngày nào trở nên phổ biến, tràn lan trong xã hội Việt Nam.

Kết quả điều tra trong các năm 2011, 2012, do tiến sĩ Mark A. Ashwill của hãng cố vấn giáo dục Capstone Việt Nam, cho thấy có đến 22 trường đại học có nguồn gốc Hoaky, nhưng không được công nhận tại Hoaky, hầu hết là những trường đại học hàm thụ qua mạng internet, tức học online, trong đó có một số lớn đã được xác định chỉ là xưởng sản xuất văn bằng, không được ngành giáo dục của chính phủ liên quan kiểm soát, là nơi thu nhận học viên mà không cần, hay có rất ít yêu cầu về khả năng học vấn của học viên, đã và đang tham gia khai thác thị trường giáo dục bát nháo và hỗn loạn tại Việt Nam (2).

Trong thời gian 9 năm, từ 1998 đến 2007, trường đại học bách khoa Hà Nội đã liên kết với trường đại học Southern California University for Proffesional Studies (SCUPS) để đào tạo tiến sĩ tại Việt Nam. Đây là một trường đại học dỏm, có địa chỉ tại Santa Ana thuộc tiểu bang California với cơ ngơi không bảng hiệu, một parking lot chỉ đủ chỗ cho 8 chiếc xe đậu và con số tiến sĩ đã được xuất xưởng đang là một thứ "bí mật quốc gia", không thể biết đang chiếm bao nhiêu phần trăm trong hơn 24.000 tiến sĩ của Việt Nam.

Trường SCUPS cũng là nơi Nguyễn Xuân Anh, bí thư thành ủy Đà Nẵng lần lượt tốt nghiệp các bậc học thạc sĩ và tiến sĩ, chỉ trong 4 năm học online từ 2002 – 2006, với giá không dưới 30.000USD mỗi năm. Qua năm 2007, Nguyễn Tấn Bình, phó hiệu trưởng của trường đại học Văn Hiến – Sài Gòn cũng mua của trường SCUPS tấm bằng tiến sĩ quản trị kinh doanh DBA (Doctor of Business Administration) với giá 6.500USD, khi trường đã bị đổi qua tên mới là California Southern University – CSU (3).

Tâm thư trong ngày nhà giáo 20/11/2006 của bộ trưởng giáo dục Nguyễn Thiện Nhân cho biết bộ sẽ khai triển một chương trình kéo dài đến năm 2015, nhằm đào tạo ra 20.000 tiến sĩ cho đất nước, được cụ thể hóa bằng quyết định số 911/QĐ-TTg ngày 17/6/2010 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự trù đến năm 2020 sẽ đào tạo và bổ sung 23.000 tiến sĩ vào thị trường nhân lực cao cấp, trong đó có 10.000 tiến sĩ đào tạo trong nước, 10.000 tiến sĩ đào tạo ở ngoại quốc và 3.000 tiến sĩ còn lại đào tạo theo hình thức phối hợp liên kết, khiến phong trào người người học tiến sĩ bùng phát và môi trường giáo dục Việt Nam nhanh chóng trở thành thị trường béo bở cho mọi trường đại học ở trong nước, cũng như ngoài nước, dỏm cũng như thật, nhảy vào chia chác.

Trong hai năm 2010 – 2011, hai trường đại học quốc tế là trường Irvine University (IU) ở tiểu bang California và trường Adam International University (AIU) ở tiểu bang Georgia, đều nằm trong danh sách đại học ma do hãng Capstone công bố, đã liên kết với khoa quản trị kinh doanh của trường đại học quốc gia Hà Nội và một cơ sở giáo dục khác tại Sài Gòn để đào tạo cho Việt Nam 800 thạc sĩ và 200 tiến sĩ, dù cơ ngơi thực sự ở Hoaky của IU chỉ có nhân sự 5 người, một phòng mướn trong building cho thuê và một chương trình đào tạo online văn bằng thạc sĩ giá 6.000USD, chỉ cần 90 credit học trọn khóa, so với đòi hỏi gần 130 credit của chương trình học cử nhân chính quy tại Hoaky.

Các chương trình đào tạo tiến sĩ từ xa của các trường đại học của Philippines như Tarlac State University (TSU), Ifugao State University (IFSU), Nueva Ecija University of Science and Technology (NEUST) hay Bulacan State University (BSU), còn đưa ra nhiều chương trình rất thoải mái cho người học vẫn giữ chức vụ, vẫn làm việc tại Việt Nam, dễ dàng về trình độ học vấn và khả năng Anh ngữ, chỉ cần nộp đủ tiền và 10 đến 16 ngày đi học lẫn du lịch qua Hongkong, Malaysia, hay Philippines là đủ để hoàn tất khóa học dài 2 năm trên danh nghĩa, tức tiến sĩ học giả, nhưng văn bằng thật và do trường thật cấp. Dịch vụ này bắt đầu khoảng năm 2011, đến năm 2013 thì nở rộ khắp nơi do chi phí khá nhẹ nhàng, trọn khóa học chỉ tốn khoảng 200 – 300 triệu VNĐ và đến năm 2015 các lứa tiến sĩ đầu tiên đã được cấp bằng. Lê Kim Toàn, phó bí thư thường trực tỉnh Bình Định là điển hình công khai trong hàng trăm trường hợp thuộc dịch vụ này, chỉ cần học 3 tháng và 10 ngày du lịch Philippines là có bằng tiến sĩ giáo dục, do trường đại học Bulacan cấp, với giá tổng cộng là 386 triệu VNĐ lấy từ ngân sách chính phủ.

Nhiều trường hợp tiến sĩ khác, tham gia các khóa học của các cơ sở quốc tế đào tạo từ xa khác, hay cố tình nhập nhằng giữa tiến sĩ và thạc sĩ, giữa chuyên ngành này với ngành học kia, cũng đầy rẫy chuyện lố bịch và bi hài.

Học viên học hàm thụ online qua phiên dịch, hoặc với bài vở đã được chuyển ngữ chỉ trong vòng 6 tới 10 tháng như Nguyễn Ngọc Ân, giám đốc sở văn hóa thể thao du lịch tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Văn Ngọc, phó bí thư tỉnh ủy Yên Bái, dù không hề nói được tiếng Anh, nhưng đều được trường đại học Southern Pacific University (SPU), đặt trụ sở tại Hawaii, cấp văn bằng tiến sĩ trong giai đoạn 2009 – 2010, với giá 17.000USD, hay Vũ Viết Ngoạn, đương nhiệm chủ tịch ủy ban giám sát tài chánh quốc gia, có văn bằng tiến sĩ tài chánh của trường đại học La Salle – Lousiana cấp từ năm 1999, nhưng qua năm 2001 do bị kết tội mua bán bằng giả qua hình thức đào tạo từ xa, La Salle phải đổi qua tên Orion College và bị đóng cửa năm 2002.

Nguyễn Xuân Sang, cục trưởng cục hàng hải Việt Nam khai có bằng tiến sĩ hàng hải được đào tạo từ xa trong khóa học 2 năm từ 2006 đến 2008, nhưng thực chất mới chỉ là một kỹ sư, chưa có bằng thạc sĩ, học online và qua Nga 1 tuần lễ để bảo vệ luận án bằng tiếng Việt, với thông dịch viên là được một viện công nghệ hoàn toàn không dính líu chút gì tới hàng hải là viện khoa học, nghiên cứu, thực nghiệm xe hơi, điện tử và dụng cụ điện (The Scientific and Research and Experimental Institute of Automotive Electronics and Electrical Equipment – NIIAE) cấp văn bằng tiến sĩ. Trong khi Cao Minh Quang, thứ trưởng bộ y tế, kiêm cục trưởng cục quản lý dược, mới có chứng chỉ Licentiatexamen để hội đủ điều kiện tham gia các khóa học tiến sĩ, thì đã thậm xưng khai trong lý lịch là tiến sĩ dược khoa của trường đại học Uppsala University tại Thụy Điển.

Điều đáng ngại là các phát giác trên đây chỉ là những trường hợp ngẫu nhiên, có tính chất lẻ tẻ, có thể nói chỉ là những người "kém may mắn" như tiến sĩ Nguyễn Ngọc Ân than thở và chẳng khác gì vài hạt cát bất ngờ phải làm vật… hiến tế giữa một sa mạc đầy rẫy tiến sĩ giả, tiến sĩ dỏm ở Việt Nam, nhưng chưa có dấu hiệu muốn dừng lại.

Năm 2009 tiến sĩ Lê Anh Sắc và sở nội vụ Hà Nội đã đưa ra phác thảo "Chiến lược cán bộ, công chức khối chính quyền thành phố Hà Nội", theo đó đến năm 2020 Hà Nội sẽ hoàn tất mục tiêu 100% cán bộ do thành ủy quản lý có bằng tiến sĩ, 100% cán bộ do ủy ban thành phố quản lý có trình độ trên đại học, trong đó 50% có bằng tiến sĩ và 100% số cán bộ chủ yếu cấp phường, xã, thị trấn có trình độ đại học, trong đó 50% có học vị trên đại học. Tháng 11/2017, Phùng Xuân Nhạ, bộ trưởng bộ giáo dục lại đưa ra đề án "Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học và các trường cao đẳng sư phạm, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, giai đoạn 2018 – 2025, tầm nhìn 2030" với kinh phí tổng cộng 12.000 tỷ VNĐ, để xuất xưởng thêm 9.000 tiến sĩ Việt Nam trước năm 2030.

3/ Gian lận chức danh giáo sư, phó giáo sư: Trong một xã hội giả dối, chạy theo hư danh tại Việt Nam ngày nay, ngoài các văn bằng thạc sĩ, tiến sĩ giả, dỏm nói trên, các chức danh giáo sư, phó giáo sư – tuy thực chất chỉ là cách định danh thứ bậc vị trí giảng dạy, xét theo khả năng và kinh nghiệm dạy học trong trường đại học của từng cá nhân, nhưng cũng đã trở thành một sân chơi ngụy trá cho các kẻ háo danh, những người trục lợi chen chân dày đặc, không ngoài mục đích tìm kiếm sự thăng quan, tiến chức và đặc quyền, đặc lợi đến từ các chức danh đó, do cách quy định của chế độ coi đó như là một học hàm được nhà nước công nhận và có giá trị suốt đời.

Năm 2010 Việt Nam có 578 giáo sư, phó giáo sư và diễn tiến công nhận mới từng năm được ghi nhận gồm 2011 có 408 người, năm 2012 có 469 người, năm 2013 có 547 người, năm 2014 có 644 người, năm 2015 có 522 người, năm 2016 có 703 người và năm 2017 dự trù có thêm 1.226 người mới.

Trong tổng số lượng giáo sư, phó giáo sư nêu trên, ước lượng rộng rãi nhất cũng chỉ có chưa tới 30% có thể đáp ứng tương đối với tiêu chí quốc tế. Nếu xét theo tiêu chí bất thành văn của các trường đại học danh tiếng ở Úc, mỗi một giáo sư phải có từ 50 tới 100 công bố khoa học trên hệ thống đánh giá ISI, Scopus, thì con số giáo sư, phó giáo sư Việt Nam có thể đếm được trên đầu ngón tay.

Năm 2016 có 703 người được cấp chức danh giáo sư, hay phó giáo sư, với 65 giáo sư và 638 phó giáo sư. Chỉ có 40% trong tổng số trên có 2.431 công bố khoa học theo hệ thống ISI, Scopus. Phân tích chi tiết trong 411 chức danh giáo sư, phó giáo sư mới thuộc nhóm khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ, trung bình có 5,76 công bố khoa học cho mỗi đầu người, trong 237 giáo sư, phó giáo sư mới thuộc nhóm khoa học xã hội và nhân văn, trung bình chỉ có 0,19 công bố khoa học cho mỗi đầu người và 55 người còn lại không có một công bố khoa học ISI, hay Scopus nào.

Tháng 2/2018 hội đồng chức danh giáo sư do Phùng Xuân Nhạ, bộ trưởng giáo dục làm chủ tịch, công bố có 1.226 ứng viên đủ tiêu chuẩn cho chức danh giáo sư và phó giáo sư của năm 2017, trong đó có 85 là giáo sư, 1.141 là phó giáo sư và có 5.316 công bố khoa học ISI, hay Scopus. Phân tích chi tiết cho thấy có 1.177 công bố về vật lý, 1.027 công bố về hóa học – công nghệ thực phẩm, 674 công bố về y học, 597 công bố về sinh học, 102 công bố về kinh tế và 14 công bố về triết học, chính trị và xã hội. Có 56 người trong tổng số 85 tân giáo sư có 924 công bố ISI, Scopus, chiếm 66% và 29 tân giáo sư không có công bố khoa học nào, chiếm 34%.

Đáng chú ý là trong vai trò chủ tịch hội đồng chức danh giáo sư, bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cũng đang phải đối mặt với nhiều gian dối cá nhân và mờ ám trong chức trách chủ tịch hội đồng chức danh mới bị đưa ra ánh sáng công luận trong thời gian gần đây.

- Phùng Xuân Nhạ làm chủ tịch hội đồng chức danh giáo sư nhiệm kỳ 2014 – 2019 lúc đang còn là phó giáo sư, ứng viên chức danh giáo sư, lại có quyền ký quyết định công nhận giáo sư cho người khác và đi xét tuyển chức danh giáo sư cho bản thân?!

- Phùng Xuân Nhạ có 2 công bố quốc tế đăng trong tạp chí Asian Social Science, thuộc danh sách Scopus năm 2014, gồm Deficiency in Investment Early Education: The Second Best Optimal Levels of Investment in Later Education and Human Capital, viết chung với Phạm Xuân Hoan và Reponse of Vietnamese Private Enterprises’ Leader under Global Financial Crisis: From Theorical to Empirical Approach, viết chung với Lê Quân, nhưng cả hai đều có các khuyết điểm trầm trọng. Bài 1 bị sai phạm nhiều lần về cú pháp Anh ngữ và có nhiều trích dẫn khống, lung tung, sai tên tác giả, sai nguyên tắc. Bài 2 chỉ là một sao chép lẫn lộn với bài Leadership in Times of Recession: An Empirical Research of Private Enterprise Leadership in Việt Nam, cũng do Phùng Xuân Nhạ viết chung với Lê Quân và công bố năm 2013 trên tạp chí VNU Journal of Science Economics and Business thuộc trường đại học Hanoi, nếu chỉ tính phần copy và paste thì có đến 48% và phân tích câu văn mới, ý tưởng cũ thì hai bài viết đã giống nhau 100% (4). Quan trọng hơn tạp chí Asian Social Science, thuộc công ty Canadian Center of Science and Education chỉ là một tạp chí chuyên đăng bài có trả tiền, giá từ 300 – 400USD mỗi bài, có mặt trong hệ thống Scopus từ 2011 đến 2015 và đã bị Scopus thải loại khỏi danh sách, sau khi phát giác ra các nhảm nhí, giả khoa học và hành vi trục lợi kinh doanh của nó.

Đất nước Việt Nam sẽ về đâu, khi các thành phần cai trị và mọi phần tử theo đóm ăn tàn trong chính quyền cộng sản Hà Nội, đều là những bọn giả hình và các đám trí thức dỏm vô liêm sỉ, nhưng vẫn còn được coi là giới tinh hoa của chế độ, giữ mọi đặc quyền, đặc lợi và ăn trên ngồi trốc trong xã hội hiện nay.

02/2018.


_____________________________________

Chú thích:

(1) TS giáo dục Lê vinh Quốc, Thị trường học vị và hệ lụy của nó, 09/2017.

(2) TS Mark A. Ashwill, US – Based or Affliated Unaccredited Institutions in Việt Nam, 02/2012.

(3) Trần bích Đăng, Thạc sĩ, Tiến sĩ dỏm tàn phá đất nước, 11/2014.

(4) TS Nguyễn Tiến Dzũng, Báo cáo phân tích sơ bộ về sự giả khoa học của ông Phùng Xuân Nhạ, 02/2018. 

Lại Tết Mậu Thân Huế 1968! Thảm sát! Rồi tượng đài, trai đàn!?

Lê Thiên (Danlambao) - Sau bài “50 năm - Mậu Tuất (2018) uất nghẹn Mậu Thân (1968)”, tôi tính không viết gì nữa về biến cố tang thương hồi đó, vì nhiều tác giả đã cập nhật nhiều chi tiết giá trị về mặt lịch sử. Nhưng hôm nay ngày 26/2/2018 (dương lịch) nhằm ngày 11 Tháng Giêng Âm lịch, ngày này hồi Mậu Thân 1968 vẫn còn là một trong những ngày tang tóc hãi hùng nhất của con dân cố đô Huế, tôi lại tiếp tục viết về Huế, Tết Mậu Thân 1968.

Hoàng Phủ Ngọc Tường

Qua "lời cuối cho câu chuyện quá buồn" do Nguyễn Quang Lập phổ biến ngày 10/2/2018, Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) đã “tự thú” nhưng lại hàm ý phân bua, chối tội như sau: “Để chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất- “tôi”, “chúng tôi” khi kể một vài chuyện ở Huế mậu thân 68. Đó là những chuyện anh em tham gia chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến….Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi…. Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân."

Nhà bình luận Nguyễn Văn Lục đã có bài Hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Ai là ‘Quân nổi dậy’?” (DCVOnline 14/02/2018). Có lẽ chẳng cần biện luận đối đáp gì với HPNT về lời phân bua của y. Y là gương mặt trí thức Huế do VNCH đào tạo. Nhưng do mù quáng chạy theo cái bã hư danh trong hàng ngũ CS, HPNT trở nên hèn hạ, đốn mạt, bẩn thỉu và gian ác đến giết người không gớm tay như mọi người đều biết...

Chính HPNT bộc lộ, cho tới sau năm 1981, Tường vẫn cứ nghĩ mình sẽ được đãi ngộ xứng đáng, nên càng ra sức tâng công, tự đánh bóng mình, đem cái tôi ra mà phủ lấp cái tối, cái tồi và cái tội của y, tưởng đâu được chiếu cố! Nào ngờ! “Chỉ vài năm sau tôi đã nhận ra sai lầm của mình.” Nhưng trong cái sự nhận ra ấy của HPNT, người ta thấy y vẫn ngoan cố quanh co chạy tội, trốn tội, gán tội cho người khác dầu y có quả quyết “không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu Thân 1968”. Những sai lầm của CS mà HPNT nói ở đây là gì nếu không phải là tội ác của quân CS?

Nguyễn Đắc Xuân

Trên BBC ngày 12/2/2018, qua bài “Ông Nguyễn Đắc Xuân: Nên tưởng niệm tất cả nạn nhân Huế” người ta lại đọc thấy lời tường thuật của Xuân như sau: “Đêm 30 rạng sáng 31/1/1968, pháo binh Bắc Việt đồng loạt công phá thành phố, mở màn cho cuộc tấn công vào Huế… Đó là dịp Tết, hưu chiến. Chỉ có một số điểm quân sự, như ở mấy cửa thành, thì có đội giữ cửa thành."

Nguyễn Đắc Xuân (NĐX) nhìn nhận 3 điều: 

1. CS tấn công VNCH đúng dịp Tết, vào giờ hưu chiến! Cuộc hưu chiến như vậy rõ ràng đã được hai phe tham chiến đồng thuận để cho binh lính hai bên an tâm buông súng vui xuân cùng vợ con, gia đình. 

2. Trong tinh thần đó, phía VNCH cho quân lính nghỉ ngơi để ăn Tết với gia đình, nên ở Huế “chỉ có một số điểm quân sự, như ở mấy cửa thành, thì có đội giữ cửa thành."

3. Bất ngờ, Huế bị phía CS Bắc Việt và Việt Cộng cho pháo binh “công phá thành phố” ngay từ giờ phút đầu khi chúng mở cuộc tấn công.

Rõ ràng chính NĐX xác nhận CS đã dùng pháo binh công phá thành phố Huế ngay từ giờ phút đầu của cuộc tiến công. Rồi y lại khoe: “Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa bị bất ngờ. Dân chúng Huế cũng vậy. Dân chúng Huế tới sáng mai ngủ dậy thấy chúng tôi đi đầy trong thành phố, chỗ nào cũng có mặt."

Cộng quân “đi đầy trong thành phố, chỗ nào cũng có mặt.” Còn dân chúng Huế thì sao? Có “nổi dậy” xuống đường hùa theo kẻ chiến thắng mà hoan hô, tiếp tế, ủng hộ, làm bia đỡ đạn cho chúng không mà bảo là dân chúng nổi dậy

Không thấy NĐX mô tả hình ảnh “quân nổi dậy” xuống đường hoan hô đả đảo như thế nào, mà chỉ nghe y lặp đi lặp lại điệp khúc tuyên truyền: “dân chúng nổi dậy”! Nếu quả dân chúng Huế nổi dậy và giá VNCH phản công, thì hẳn dân đã chết vô số kể… Như vậy không cần ai khác, chỉ mỗi mình Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan vốn là những tay viết lách bịa chuyện chuyên nghiệp hẳn đã dư sức viết ra hàng pho sách kể tội “Mỹ-ngụy” và rồi phía CS sẽ lấy đó là chứng liệu lịch sử tung ra cả thế giới, to hơn chuyện lính Mỹ bắn chết dân Mỹ Lai hay chuyện Tướng Loan bắn tên CS nằm vùng Ba Lém.

Đằng này Nguyễn Đắc Xuân lại tự thú: “Lúc ban đầu, phía Việt Cộng áp dụng chiến thuật lẫn vào trong dân, khiến Mỹ không biết lực lượng là bao nhiêu. Mặt trận Giải phóng không dàn quân. Đánh là đánh bí mật, giấu quân chứ không đứng hàng ngang tiến lên. Tuy nhiên, sau khi bị lộ diện, quân Cộng sản đã bị hỏa lực đối phương tấn công dữ dội.” 

Lẫn vào dân! Đánh bí mật! Giấu quân! Có dân hậu thuẫn! Thế thì tại sao phía VNCH và Mỹ lại nhận diện ra được Cộng quân để mà truy kích khiến Cộng quân tháo chạy tất tưởi, phải vội chôn sống người dân vô tội trong các hố chôn tập thể? Vậy, ta có thể khẳng định, CS thua trận Tết Mậu Thân 1968 là do nghịch lòng dân trước khi bị phản công bởi hỏa lực của VNCH và Mỹ, không phải chỉ ở Huế mà tại khắp các thị thành của Miền Nam Việt Nam, trong đó có Thủ đô Sài Gòn.

Đi thực tế sao không nhìn thực tế???

NĐX quanh co: “Sau khi chúng tôi rút chạy sang bên Lào, lực lượng của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã đào bới lên tất cả những xác chết, những hầm chôn người. Họ nói là mấy ngàn người, một con số lớn. Họ nói rằng đó là những đồng bào Huế bị Mặt trận Giải phóng giết. Nhưng mà khi tôi đi thực tế và theo tôi hiểu, thì chôn tập thể là bởi khi đó việc chôn một người đã là khó rồi. Cho nên có những hố bom đào lên, hay có cái gì đó có thể chôn được thì tất cả những người chết được cho xuống đó hết."

Rõ ràng Nguyễn Đắc Xuân đốt sử chứ không dốt sử. Y khoe mình “đi thực tế”, song không dám nhìn thẳng vào thực tế để nói lên sự thật, mô tả sự thật tai nghe mắt thấy. Y lại ỡm ờ rằng “theo tôi hiểu”. Phải chăng y cố tình đánh tráo khái niệm “thấy” và “hiểu”, cố tình chối bỏ mặt khách quan (thấy), thay vào bằng ý niệm chủ quan (hiểu) hầu trốn chạy sự thật! Rồi từ đó, NĐX thú nhận: “Có cái gì đó có thể chôn được thì tất cả những người chết được cho xuống đó hết!" Cả những người sống gây trở ngại cho cuộc tháo chạy cũng chôn nốt! Ghê gớm chưa?

Phải chăng NĐX bị ám ảnh bởi những hố chôn tập thể người dân Huế hồi Tết Mậu 1968 khiến đến nay y vẫn chưa thoát ra khỏi cơn mù lòa của lương tâm y? 

Riêng người dân Huế sau 1968 vẫn còn bị đè nặng bởi cơn ác mộng kinh hoàng của cuộc Thảm sát Tết Mậu Thân, đến nỗi 7 năm sau, vào năm 1975, khi Cộng quân đánh vào Huế, dân chúng hốt hoảng tất tưởi bỏ nhà cửa, đất đai, ruộng vườn và vô số tài sản quý giá… ùn ùn chạy theo quân đội VNCH, thà chết đường chết sá, chết biển, chết rừng còn hơn để mình rơi vào tay Cộng quân cùng bọn đao thủ giết người không gớm tay!

Quân Giải phóng: nông dân… ngu muội?

NĐX lại phân bua: “Trình độ những người lính Giải phóng phần lớn là những người nông dân mới ngoài 20 tuổi, đi vô trong một thành phố như thế này, họ đâu hiểu hết thành phố đó như thế nào." Đến hành động vô nhân tính giết chết 3 Bác sĩ thiện nguyện người Đức cùng một phụ nữ, vợ của một trong ba vị trên, NĐX cũng tìm cách chối từ trách nhiệm và đổ lên đầu những “nông dân” đang thuộc phe y: "Họ [quân Giải phóng – đám nông dân] thấy người phương Tây là cho rằng là người Mỹ hết. Và bởi trong chiến tranh, nên khi cho là Mỹ là họ bắn thôi. Đã xảy ra việc các giáo sư người Đức, người đã làm nên Đại học Y khoa hiện nay... bị những người lính Giải phóng tưởng là người Mỹ, nên bắn chết hết."

Người lính Giải phóng là ai? Bọn chui rúc trong rừng (trong bưng) thôi hay gồm cả bộ đội Bắc Việt? Người CS Bắc Việt lúc nào cũng dương dương tự đắc về kỷ luật sắt của “bộ đội cụ Hồ” trong khi Quân Giải phóng cũng được tung hô là “anh giải phóng quân” kỷ luật nghiêm minh, sáng tạo, vì dân, cho dân, kính già yêu trẻ, đến cây kim sợi chỉ của dân cũng chẳng đụng, vân vân và vân vân! Bây giờ NĐX lại bảo họ “phần lớn là những người nông dân mới ngoài 20 tuổi… đâu hiểu hết thành phố đó như thế nào!”

Lời biện bạch của NĐX nghe không ổn. Xuân bênh vực hay đổ lỗi cho “người lính Giải Phóng” là quyền của Xuân. Nhưng cách Xuân bênh vực chẳng hàm ý đổ lỗi cho nguồn gốc nông dân của lính Giải phóng hành xử theo cung cách “người rừng”, thú rừng sao? Theo cách nói của NĐX, quân Giải phóng là bọn ngu, dốt, ácnên mới có hành động bất nhân là vậy.

Thực ra, nông dân Miền Nam Việt Nam thời đó có thể do hoàn cảnh chiến tranh phá hoại của CS khắp vùng nông thôn nên một số người trẻ tại một số vùng nông thôn xôi đậu rơi vào thất học, nhưng xã hội Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ đã nung đúc những mẫu người nông dân ấy thành những con người mẫn cán và hiền lành chứ không thất đức điêu ngoa và hung tợn như loại nông dân bị đưa vào rừng để bị nhồi sọ tẩy nào thành những tên lính Giải phóng điên cuồng thích “lột da chặt đầu” hay “uống máu quân thù”, không biết phân biệt đúng sai, phải trái gì cả! 

Như tôi đã trình bày trong bài “50 năm - Mậu Tuất (2018) uất nghẹn Mậu Thân (1968)”, chính sách của CS là “giết lầm hơn bỏ sót”, là “nhổ cỏ, nhổ tận gốc…” thì việc “người nông dân” trong hàng ngũ cộng quân ra tay sát hại người dân lành vô tội, không phải là bởi “chất nông dân” trong người họ, mà là phát xuất từ ý thức hệ CS điên cuồng do Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng… đầu độc!

Nguyễn Đắc Xuân sống ở Huế, trải qua nhiều thời kỳ khác nhau của xã hội Miền Nam Việt Nam. Nếu NĐX bình tĩnh nhìn lại những gì Miền Nam Việt Nam đã cưu mang trước 1975 và những gì CS đã mang đến cho Miền Nam Việt Nam sau Tháng Tư 1975, ắt Xuân nhận ra ngay sự khác biệt giữa nền văn minh của Miền Nam VN thời VNCH hoàn toàn đối lập với sự dốt nát man rợ của chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc du nhập vào Nam. Chính vì vậy mà tại Miền Nam Việt Nam sau 1975 cái xấu nhanh chóng soán ngôi những thói quen và cách hành xử tốt, văn minh trước đây. 

Nguyễn Đắc Xuân có thấy không chính y đã và đang góp phần trách nhiệm vào việc tạo nên cái hỗn loạn tâm lý và nếp sống hỗn đôn trên mọi miền đất nước Việt Nam hôm nay? 

Người ta thấy những phần tử a dua như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân… có lúc đã lên tiếng thú nhận lỗi lầm, nhưng chỉ thú nhận nửa vời, hoặc vừa thú nhận vừa đổ lỗi cho kẻ thất thế, thay vì can đảm mở lời sám hối.

 

Trai đàn chẩn tế: Sáng kiến tân kỳ của NĐX?

Điều khôi hài nữa là việc NĐX đề nghị “tổ chức minh oan cho những người đã chết” và hô hào: "phải làm tượng đài. Người dân Huế dù cho họ thuộc Việt Nam Cộng hòa hay theo cách mạng, hay không theo bên nào, nếu họ đã chết cho cuộc chiến thắng này thì phải tưởng niệm họ. Phải có trai đàn chẩn tế để thanh minh, giải oan cho những người bị uất ức, những người đã làm nên chiến thắng này."

Xây tượng đài! Tưởng niệm! Lập trai đàn chẩn tế! Nhân bản lắm! Nhưng tượng đài thờ ai? Tưởng niệm ai? Chay đàn chẩn tế cho ai? Nguyễn Đắc Xuân đã có câu trả lời chắc nịch: “Cho những người đã chết cho cuộc chiến thắng này! Cho những người đã làm nên chiến thắng này!” Thì ra thế! NĐX lại giở giọng tuyên truyền thay vì nhìn vào sự thật! 

Tuy nhiên, cũng xin nói rõ ở đây, ý tưởng của NĐX về một “Trai đàn Chẩn tế”chẳng phải là sáng kiến gì độc đáo mới mẻ gì đâu! Vở tuồng “Trai đàn Chẩn tế”, Đảng và Nhà nước Cộng sản VN đã cho trình diễn từ lâu rồi! 

Người ta không quên năm 2007 Thích Nhất Hạnh từ Pháp về Việt Nam dựng Trai đàn Chẩn tế từ nam chí bắc dưới sự giám sát chặt chẽ và lèo lái khéo léo của Đảng và Nhà Nước CSVN, tại chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn, (16-18/3/2007); tại chùa Diệu Đế, Huế, (02-04/04/2007); tại Học Viện PGVN Sóc Sơn, Hà Nội, (20-22/04/2007). 

Rồi vào năm 2014, nhân lễ hội “Sóng nước Tam Giang” ở tỉnh Thừa Thiên Huế, ngày 30/04/2014 tại bến đò Cồn Tộc, xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, Đảng và Nhà nước CSVN lại ồn ào tổ chức Đại lễ Trai đàn Chẩn tế. Hình ảnh tên Thứ Trưởng Ngoại giao CSVN Nguyễn Thanh Sơn nổi bật trong lễ này đủ nói lên điều gì khi y mặc quần gin, áo ca-rô, chắp tay khấn vái, mà hợm hĩnh như tay giang hồ đi xem một trận đá gà! Người ta không quên Sơn đã từng một thời gây hoạt náo ở Mỹ với nghị quyết 36, chiêu dụ “kiều bào hải ngoại (?)” đẩy mạnh chính sách “hòa hợp hòa giải” bịp!

Nguyễn Thanh Sơn mặc quần gin, áo ca-rô, chắp tay khấn vái.

26/2/2018

Powered By Blogger