Vợ chồng “anh” Thìn ly hôn từ nhiều năm trước. Các con của họ đều đã
trưởng thành. Hôm ấy đi gặp gia đình về, “anh” Thìn vui lắm, khoe: “Tao vừa lên chức bà ngoại. Gái lớn mới sinh con trai rồi”. Vẻ
mặt hớn hở, “anh” Thìn lấy gói kẹo trong túi quà tiếp tế ra bảo tôi
chia cho mọi người, coi như chung vui với “anh” được lên chức bà ngoại.
Cánh tù nữ thường gán ghép cho nhau đủ thứ danh xưng của cánh mày râu
như ông, bố, chú, anh, cậu. Tuy lối xưng hô ấy chẳng giống ở đâu nhưng
như thế nó... ngồ ngộ, và vui. Mà niềm vui đối với người tù thì quý giá
lắm.
Ngoại trừ một số người là dân đồng tính thật sự, tức mang yếu tố sinh
học, nhưng cũng không ít người tự biến mình thành người đồng tính vì...
thích như thế, tức hoàn toàn xuất phát từ yếu tố tâm lý.
Lúc còn ở ngoài, họ là những người rất bình thường, cũng lấy chồng, sinh
con như những phụ nữ khác. Có lần, tôi đã nói đùa với cánh bạn tù rằng “Nhà tù là nơi lý tưởng để thực hiện một cuộc cách mạng về giới tính”. Mấy chị tù “có tật”, đấm thùm thụp vào lưng tôi chữa ngượng.
Trình tự của một cuộc “chuyển giới” không qua phẫu thuật trước tiên là
cắt tóc ngắn, sau đó quẳng chiếc coóc-xê (thứ tố cáo “anh” vẫn là một mụ
đàn bà) vào một xó và ăn mặc theo phong cách đàn ông. Đối với những chị
có vòng ngực nở nang, việc giả trai khó khăn hơn vì hai quả đồi khi
được thả rông cứ ngúng nguẩy theo chuyển động của cơ thể, trông đến
ngượng mắt. Tức nhất là có đứa chửi đổng “trông chả ra dáng đàn ông gì cả, đúng là dở hơi”.
Tiếp theo là sự điều chỉnh về phong thái: từ dáng đứng, điệu đi, nết ăn
đến giọng nói cũng phải mạnh bạo (pha chút hùng hổ), làm sao cho thật
giống đàn ông. Và như thế, không ít những cô gái, những người phụ nữ,
người mẹ từ bình thường đã tự biến mình thành những người khác biệt
trong các trại tù.
Bước chân vào nhà tù - Trại 5 Thanh Hóa, chị Thìn cũng muốn coi mình như
một người đàn ông. Vì thế mới có cái lối xưng hô kỳ cục là “anh” Thìn.
Có một thứ chị Thìn không cần giả vờ cũng giống đặc đàn ông, đó là giọng
nói. Tôi nhớ rất rõ hôm chị nhập buồng, cánh tù nhân chưa thấy mặt, mới
chỉ nghe giọng nói của chị, tưởng cai tù vào sục (1) buồng đã vội vàng
dập điếu thuốc lá, hoặc cuống quýt giấu vội ít tiền mặt. Hóa ra một chị
tù mới! Cánh tù nhân thở phào.
Nhưng “anh” Thìn hiền lành và sống tử tế với các bạn tù, ít ra là với cảm nhận của tôi.
“Anh” Thìn nhập trại vào khoảng mùa thu năm 2011- tôi nhớ mang máng thế.
Anh bị bắt vì tội “buôn bán trái phép chất ma túy” nhưng tôi không nhớ
rõ anh bị kết án bao nhiêu năm. Giống như các tù nhân khác trong phân
trại, nhất là với những người cùng buồng, “anh” Thìn cũng bị cảnh báo
phải tránh xa tôi nếu muốn được yên thân. Nhưng chính sách cô lập của
cai tù đối với tù nhân chính trị không phải lúc nào cũng có tác dụng.
“Anh” Thìn là một trong những người tù dám vượt qua ranh giới cấm đoán
để giao du với một “tên phản động” như tôi. Người ta gọi “anh” và những
người dám chơi với tôi là kẻ “liều lĩnh”, hoặc “bọn không cần giảm án”.
Nếu không tính chị Trần Ngọc Anh, một dân oan Vũng Tàu đã về hết án hồi
đầu năm 2012 thì tôi là tù nhân duy nhất trong Phân trại số 4 (K4) từ chối lao động. Trong mắt các tù nhân và cai tù thì tôi thuộc “thành phần chống đối lao động”.
Hàng ngày, cứ ra tới xưởng sản xuất là tôi lại ôm chiếu ra gốc cây ngồi
đọc sách. Cũng có lúc, tôi rời “đại bản doanh” là cái gốc cây để đến
chơi với bạn tù ở đội khác- những người quý mến tôi hoặc không sợ cai
tù.
Chiều hôm ấy, “anh” Thìn đến chỗ tôi, bắt chuyện:
- Em bị tội gì?
Vốn dị ứng với câu hỏi đó, tôi trả lời với giọng hơi “gằn”:
- Em ấy à? Tội nói thật và tội yêu nước.
Nhiều người tù sau khi nhận được câu trả lời ấy của tôi thì bỏ đi (vì
sợ), hoặc trố mặt ngạc nhiên. “Anh” Thìn hỏi tiếp, giọng có phần gấp
gáp:
- Vậy em biết bác sĩ Phạm Hồng Sơn và luật sư Lê Quốc Quân chứ?
Tôi giật mình. Lưỡi líu lại không nói ra câu.
- Trời! Anh... anh... biết anh Sơn và anh Quân sao?
- Biết chứ, giam chung với nhau ở quận Hoàn Kiếm một ngày mà.
Tôi choáng váng, trống ngực đập thình thịch.
Một trong những điều đáng sợ nhất là nhận được tin anh em của mình bị
bắt. Trong suốt thời gian 4 năm ở tù, tôi nhẩm tính có hàng chục người
bị bắt vì đấu tranh cho Nhân quyền, Dân chủ và Tự do tôn giáo. Không ít
người trong số đó là người tôi thân quen hoặc từng may mắn được gặp mặt.
Tổng cộng số năm tù cho những người đấu tranh ôn hòa này lên tới hàng
trăm năm tù. Với tôi, Phạm Hồng Sơn và Lê Quốc Quân là hai người anh tôi
rất trân quý. Nếu hai anh bị bắt, những anh em tranh đấu ở ngoài mà tôi
quen biết chỉ còn lại mấy người.
Cố gắng lắm tôi mới thốt ra được một câu:
- Có nghĩa là cả anh Sơn và anh Quân đều bị bắt hả anh?
- Ừ! Sơn và Quân vào sau anh ít hôm. Sơn bị giam buồng giữa, anh và Quân
hai bên. Sơn chủ động “còi”( 2) sang cho anh mà. Hai người bị bắt đêm
mồng 4 tháng 4 nhưng đều bị chuyển đi vào đêm hôm sau.
- Anh có biết hai anh ấy bị chuyển đi đâu không? Mà anh có biết hai anh
ấy bị bắt theo điều bao nhiêu không? Ngoài anh Sơn và anh Quân còn ai bị
bắt nữa không? Tinh thần họ thế nào?
Tôi bắt đầu hỏi dồn.
- Anh không biết có ai bị bắt nữa không. Nhưng anh nghe Sơn và Quân nói
thì anh biết họ là những người rất đặc biệt. Hình như là liên quan tới
chính trị thì phải.
“Anh” Thìn bảo rất thích nghe giọng Nghệ An của anh Quân và ấn tượng với
bài thơ “Cây tre” mà anh Sơn đọc trong buồng tạm giữ hôm ấy. “Anh” Thìn
kể:
- Sơn hát nhạc Trịnh rất hay. Giọng Sơn ấm, truyền cảm. Quân thì ít nói
hơn. Anh không thể ngờ trong chế độ này có những con người đáng quý như
Sơn, như Quân và em. Rất không ngờ, dám chống chế độ cơ đấy.
“Anh” còn kể, hôm đầu tiên anh Phạm Hồng Sơn cất tiếng hát, tên cai tù đá cửa buồng giam rồi quát nạt, không cho hát tiếp.
- Hắn gọi Sơn là “thằng” và bảo “đi tù còn hát mới hò”. Thế là Sơn đi ra
cửa, gọi “thằng cán bộ” đó lại và chất vấn. Vì “anh” ghé tai qua cửa để
nghe mà. Đại loại Sơn bảo hắn không được gọi tù bằng “thằng, con” và
không được có thái độ hống hách như thế. Sơn nói mấy câu thế nào mà
thằng cai tù kia lỉnh mất.
Ấn tượng tốt đẹp của “anh” Thìn về hai người anh khiến tôi tự hào. Nhưng
tôi không khỏi lo lắng và nghĩ tới những ngày tồi tệ của Phong trào
tranh đấu bên ngoài. Đếm trên đầu ngón tay, chỉ còn lại dăm ba người
là... chưa bị bắt hoặc mới về hết án nhưng còn bị giam lỏng tại nhà.
Sự kiện bác sĩ Phạm Hồng Sơn và luật sư Lê Quốc Quân bị bắt sau hàng
loạt những vụ bắt bớ khác ít nhiều khiến tôi xuống tinh thần. Chị Hương,
một người bạn tù khác buồng nói với tôi: “Phải nghĩ tích cực lên
chứ. Em chả bảo chị là nhiều người trong số những người bị bắt, em còn
chưa từng nghe đến tên của họ là gì. Chứng tỏ đang có thêm nhiều người
cùng đấu tranh như em. Thế thì cần mừng chứ sao lại ủ rũ vậy”.
Ngày về, mẹ tôi “khoe”:
- Mấy hôm trước có anh Sơn và anh Quyền (chồng luật sư Lê Thị Công Nhân)
tới thăm. Tôi lại nghĩ chắc anh Sơn mới ra tù. Lúc nhận được điện thoại
chúc mừng của anh Lê Quốc Quân, tôi vô duyên đến mức hỏi đi hỏi lại: “Anh Quân tức là luật sư Lê Quốc Quân phải không ạ?” Rồi tôi lại hỏi tiếp: “Thế anh và anh Sơn ra tù bao giờ thế?”
Đến lượt anh Quân ngạc nhiên. Tôi nhắc tới chị Thìn, anh ngậm ngùi.
Lúc ấy, tôi mới biết hai anh bị bắt khi đến quan sát phiên tòa xử Luật
sư Cù Huy Hà Vũ. Và cả hai đều được trả tự do sau chín ngày bị tạm giữ.
Trở lại với câu chuyện về “anh” Thìn.
Từ hôm ấy, thi thoảng “anh” Thìn vẫn ra ngồi với tôi dưới gốc cây. Tôi
hỏi “anh” có sợ không, đã bị cán bộ gọi đi uống cà phê (3) chưa? Anh bảo
“người ta phấn đấu vào khung giảm, anh có phấn đấu cũng chỉ vào khung ảnh thôi. Với lại ngồi nói chuyện với em hay lắm. Sợ gì!”.
Sợ tôi quên, lần nào “anh” cũng nhắc nếu có dịp thì chuyển lời hỏi thăm của “anh” tới hai anh Quân và Sơn. “Anh” Thìn còn khoe: “Sơn cho anh địa chỉ nhà đây rồi. Ở ngõ 72 Thụy Khuê. Hết án nhất định anh sẽ tới thăm Sơn rồi bảo Sơn chở đến nhà Quân. Lúc ấy chắc sẽ vui lắm”.
Sợ tôi quên, lần nào “anh” cũng nhắc nếu có dịp thì chuyển lời hỏi thăm của “anh” tới hai anh Quân và Sơn. “Anh” Thìn còn khoe: “Sơn cho anh địa chỉ nhà đây rồi. Ở ngõ 72 Thụy Khuê. Hết án nhất định anh sẽ tới thăm Sơn rồi bảo Sơn chở đến nhà Quân. Lúc ấy chắc sẽ vui lắm”.
Mấy tháng sau, tôi chuyển buồng và ở hẳn trong phân trại cho tới ngày ra tù.
Thời gian đầu, hôm nào tôi cũng trở lại buồng cũ chơi. Nhưng về sau ngày
càng thưa dần, một phần vì đã quen với buồng mới, một phần có quá ít
thời gian. Khổ nhất là về mùa đông, có hôm người tù đi làm về còn chưa
ăn xong bữa cơm, có chị còn đang tắm dở đã bị lùa vào buồng.
Bẵng đi một thời gian, tôi mới gặp “anh” Thìn. “Anh” hỏi tôi có tin gì
của anh Sơn và anh Quân thì cho “anh” biết. Tôi bảo, mấy tháng nữa em về
thì mới có tin. “Anh” Thìn kêu dạo này hơi mệt. Mấy hôm sau, tôi nhờ
người gửi cho anh ít đồ ăn.
Buổi chiều hôm ấy tôi đi dạo quanh sân chung. Đang giờ lao động nên
trong trại vắng tanh. Một người tù đẩy một người tù khác trên xe lăn từ
cổng phủ (4) đi vào.
Tôi đứng chết trân nhìn chiếc xe lăn tiến lại gần, sững sờ thốt lên: “Ôi! anh Thìn!”.
Anh gắng cười với tôi, thều thào: “Đi gặp gia đình về. Chắc lần cuối em ạ”.
Tôi lóng ngóng, không biết phải làm sao. Cô trực sinh ra hiệu cho tôi
mang giúp ít đồ vào trong buồng. Hai cô cháu khó khăn lắm mới đỡ được
“anh” Thìn ra khỏi chiếc xe lăn và đặt “anh” nằm xuống chiếu- tấm chiếu
đơn đã bị cắt bớt một đoạn chiều ngang, để vừa đủ với tiêu chuẩn 60 cm
chỗ nằm (5). Thân hình “anh” Thìn chỉ còn một dúm nhỏ, nằm co ro trên
chiếc chiếu hẹp bỗng trở nên thênh thang. Cái dáng co ro của người tù
rất khác với cái co ro của người bình thường. Cái co ro của người tù sắp
chết càng đặc biệt. Tôi không biết phải diễn tả thế nào, nhưng không ít
lần cái dáng nằm co ro ấy đã trở thành hình ảnh cuối cùng của những
cuộc đời tù.
Bấy giờ tôi mới biết, “anh” Thìn đang ở giai đoạn cuối của căn bệnh AIDS.
Hôm sau, một bạn tù khác dìu “anh” Thìn xuống Y xá. Ai cũng biết “anh”
Thìn sắp chết, nhưng vì vẫn còn lê lết được (mặc dù phải có người dìu)
nên anh phải đích thân đi trình diện cán bộ y tế để được cấp giấy nghỉ
ốm. Tôi từng thắc mắc về cái sự bắt người tù bệnh nặng phải đi làm, hoặc
được nghỉ nhưng hàng ngày vẫn phải đi trình diện, lấy giấy ốm. Câu trả
lời tôi nhận được là: “Đây là quy định chung, cả nước đều thế chứ có
riêng trại nào. Chúng tôi có tự bịa ra luật đâu. Đã là quy định thì phải
tuân thủ, không còn cách nào khác”. Lạ! người cộng sản không bịa ra luật để cai trị người dân thì còn ai vào đây được nữa. Chắc luật trên trời tự nhiên rơi xuống!
Hôm sau nữa, tôi mang mấy hộp sữa tươi sang cho “anh” Thìn. Mấy người
buồng cũ bảo: “Lưỡi trắng toát hết rồi, nổi cục lên, còn ăn uống được gì
nữa đâu”.
- Anh Thìn ơi! Tôi khẽ gọi. “Anh” Thìn hé mắt, nhưng lại thiếp đi.
Đêm hôm ấy, “anh” Thìn đi bệnh viện, vài hôm sau thì chết. Nhưng cuộc
vĩnh biệt với bạn tù đã được tính từ ngày “anh” rời trại. Lũ tù chúng
tôi đều hiểu rằng, “đi bệnh viện” là để chết, là sẽ “thẳng ra Núi
Mành”(6) chứ không phải để chữa bệnh. Trừ những trường hợp gia đình có
nhiều tiền, khéo chạy chọt và không thuộc dạng bệnh hiểm nghèo thì người
tù mới được đưa đến bệnh viện điều trị. Còn lại, các bệnh nhân khác đều
phải chờ ngấp nghé cửa tử mới được mang tới bệnh viện để khỏi phải chết
trong trại giam, một điều kiêng kỵ đối với bọn cai tù. Biết bao nhiêu
trường hợp bệnh nhẹ thành nặng, bệnh nặng thành không cứu vãn nổi rồi
chết oan chỉ vì không được chữa trị. Khi chết, người ta vẫn không cho
mang xác về nếu người nhà không đủ tiền chạy chọt, lo lót. Nó giống như
một hình thức mua bán xác tù nhân mà “bên mua” không có quyền mặc cả.
Không ít gia đình đã phải đau xót, ngậm ngùi chấp nhận để người thân nằm
lại Núi Mành, chờ đợi nhiều năm sau với những thủ tục nhiêu khê mới
mang được thi hài tù về nhà.
Mang tới bệnh viện dù là để chết vào ngày hôm sau, coi như hoàn tất khâu
cuối cùng cái gọi là “chính sách nhân đạo” của đảng đối với “phạm
nhân”. Đấy! đi tù còn được khám chữa bệnh miễn phí, sướng thế... còn gì
nữa.
Sau này, tôi được nghe anh Phạm Hồng Sơn kể rằng chị Thìn đã dùng cách
riêng của mình để gửi cho anh và anh Quân mỗi người một suất lạc rang
cho bữa chiều. Chi tiết này chị Thìn không kể với tôi. Ấy là nét khiêm
tốn và chân thực của một con người chỉ dám nhận mình là “dân bụi đời”
như chị Thìn.
Chị Thìn được tự do. Không phải thứ tự do đến từ tờ “lệnh tha” tên cai
tù đọc trước xác chết của những người tù xấu số. Thoát kiếp đọa đầy, đấy
là thứ tự do thật sự.
“Hết án nhất định anh sẽ tới thăm Sơn rồi bảo Sơn chở đến nhà Quân. Lúc ấy chắc sẽ vui lắm”. Lời hẹn ấy cứ văng vẳng bên tai tôi, buồn buồn, dìu dịu.
Kể câu chuyện này, tôi muốn cùng anh Sơn, anh Quân nhớ đến một người bạn tù đặt biệt: Chị Thìn.
Ba năm trước, cũng khoảng thời gian này, chị ra đi. Không biết bây giờ,
thi hài của chị đã được đón về, hay vẫn còn nằm lại núi Mành?
Mùa thu năm 2015.
Chú thích:
(1) Sục buồng: Chỉ việc cai tù đột xuất kiểm tra buồng giam. Thường là
sau khi được người tù- tay trong của cai tù “bẩm báo” để tìm kiếm và
tịch thu vật cấm như: tiền mặt, điện thoại di động, các vật nhọn, thư từ
chưa qua kiểm duyệt v.v… Ngoài việc tịch thu, “chủ nhân” của vật cấm sẽ
chịu những hình thức kỷ luật tùy theo sự “ quyết định” của cai tù sau
đó.
(2) Còi: Người từ buồng giam nọ gọi sang, nói chuyện với người ở buồng giam khác.
(2) Còi: Người từ buồng giam nọ gọi sang, nói chuyện với người ở buồng giam khác.
(3) Uống cà phê: Tiếng lóng của tù, chỉ việc người tù bị đi gặp“cán bộ”. Thường là chuyện không vui.
(4) Cổng phủ: Cổng trại.
(5) Chỗ nằm: 60 cm chiều ngang là tiêu chuẩn thực tế vì nhà tù luôn bị quá tải. Theo quy định (luật) thì chỗ nằm dành cho mỗi người tù là 2 m2, tức phải rộng 5 viên đá hoa 20cm, dài 10 viên.
(5) Chỗ nằm: 60 cm chiều ngang là tiêu chuẩn thực tế vì nhà tù luôn bị quá tải. Theo quy định (luật) thì chỗ nằm dành cho mỗi người tù là 2 m2, tức phải rộng 5 viên đá hoa 20cm, dài 10 viên.
(6) Núi Mành: Nơi vùi xác hoặc chôn cất những người tù.
0 comments:
Post a Comment