Hiện nay vào đầu Thế kỉ 21 cả mấy tỉ người trong các nước Dân chủ đa
nguyên từng ngày, từng tháng, từng năm đang được hưởng các lợi ích thiết
thực của chế độ này, mặc dù còn ở những mức độ khác nhau. Ra đường
không sợ bị công an tra hỏi hạch sách cốt để được tống tiền; bạn bè hay
bà con tới thăm nhau tự do không bị công an theo dõi; đọc báo nào hay
nghe đài nào không ai được phép hạch hỏi; tham gia chính đảng, vào hội
đoàn, viết báo phê bình sai lầm của tổng thống, thủ tướng… không sợ bị
ghép vào tội phản quốc hay xâm phạm bí mật quốc gia. Những người có công
ăn việc làm đều được bảo hiểm thất nghiệp, y tế và hưởng hưu trí; những
người tàn tật… được hưởng trợ cấp xã hội.
Ở nhiều nước xây dựng trật tự xã hội theo Dân chủ đa nguyên đang có khả
năng biến các địa ngục trở thành thiên đàng chỉ trong vòng một thế kỉ,
thậm chí có những nước chỉ cần vài thập niên. Nói như thế không có ý là
các xã hội này đã trở nên hoàn hảo. Tại đó vẫn còn quan tham nhũng hoặc
lạm quyền, nhưng nếu bị khám phá thì bị trừng trị nghiêm khắc, ngay cả
những người cầm đầu chính phủ, tiêu biểu như ngay ở các nước Mĩ, Pháp,
Anh, Đức… Tại đó đôi khi vẫn có những người có quyền hành tìm cách bịt
miệng dân, đàn áp báo chí, nhưng thường bị ngay những cơ quan quyền lực
độc lập và bình đẳng khác điều tra làm rõ sai-đúng, nếu người có quyền
hành lạm dụng quyền lực thì bị nghiêm trị từ mất chức tới ngồi tù. Tại
đó cũng vẫn còn những người nghèo, nhưng được bảo trợ xã hội…
Các xã hội này đã biết rút kinh nghiệm từ các thời kì con người còn sống
đơn giản trong các bộ lạc chỉ quây quần vài chục ngàn dân, tới các
triều đại phong kiến và các giáo hội. Một số kết quả chung mà các nhà
khoa học xã hội trên thế giới trải qua nhiều thời đại đã rút ra là:
1. Xã hội càng lớn thì quyền lực càng nhiều.
2. Quyền hành càng cao thì lạm dụng quyền lực càng lớn.
3. Một cá nhân, một cơ quan công quyền hay một đảng cầm quyền không thể nào vừa cai trị vừa kiểm tra, vừa đá bóng vừa thổi còi.
4. Kinh nghiệm lịch sử loài người đã chứng minh, các vua chúa hay người
đứng đầu các tôn giáo cũng chỉ là người như chúng ta, đều có thể sai lầm
và đều có thể gây ra tội ác.
Trong mỗi con người có ông thiện và ông ác. Vấn đề là làm thế nào để ông
ác không có điều kiện phát triển và làm thế nào để ông thiện có cơ hội
được phát triển. Đó vừa là nguyên tắc vừa là nghệ thuật trong cách tổ
chức, điều hành của các xã hội văn minh này. Không cường điệu, không bi
quan, không lạc quan mù quáng.
Một nhận định khoa học khác rất cơ bản về tiến trình phát triển của nhân
loại là, với thời gian các cộng đồng dân tộc sống chung với nhau lên
tới hàng chục, hàng trăm triệu người, với diện tích từ hàng trăm ngàn
tới hàng chục triệu cây số vuông. Trong điều kiện như thế thì mỗi nước
không thể tổ chức và điều hành xã hội như thời kì còn sống trong các ốc
đảo, các bộ lạc như thời tiền sử, chỉ có vài ngàn tới vài chục ngàn
người sinh sống. Trong một xã hội lớn như thế thì phải được tổ chức và
điều hành như thế nào thích nghi trong một xã hội đa chủng và đa diện
quyền lợi cả về vật chất lẫn tinh thần. Bình quân chủ nghĩa, công hữu
tài sản theo cách cộng sản thời còn ăn lông ở lỗ hoàn toàn không còn
thích hợp và không thể thực hiện được trong thời đại mới.
Trên những cơ sở nhận thức khoa học này các xã hội Dân chủ đa nguyên đã
từng bước tiến lên xây dựng một trật tự mới với mục tiêu là giới hạn và
phân chia ranh giới các quyền lực để ngăn ngừa tối đa sự lạm quyền. Cơ
cấu xã hội ở thượng tầng được chia làm ba quyền lập pháp (ban bố luật
pháp), hành pháp (điều hành chính quyền) và tư pháp (kiểm tra và chế
tài). Ba quyền này độc lập, bình đẳng với nhau như thế chân vạc, chế tài
và kiểm soát lẫn nhau để tránh lạm quyền, đồng thời giữ xã hội ổn định
vững bền nhờ đó có phát triển đều đặn.
Các quyền căn bản của con người (chính trị, kinh tế, tôn giáo, văn hóa,
giáo dục…) được luật pháp và các cơ quan công quyền tôn trọng và bảo vệ.
Từ đó có các hệ thống báo chí độc lập và tự do, các tổ chức dân sự
(nghiệp đoàn –công nhân và chủ nhân- , tôn giáo, văn hóa, xã hội…) ví
như các bộ phận, tai mắt và tứ tri của một cơ thể lành mạnh. Toàn bộ hệ
thống này, trong đó kinh tế thị trường cùng với chế độ pháp luật công
khai và nghiêm minh là nền tảng đóng vai trò rất quan trọng để cá nhân
và các đoàn thể vươn lên và từ đó toàn xã hội phát triển, ổn định chính
trị, đất nước hùng mạnh, độc lập…
Khi có sự hài hòa quyền lợi chính đáng giữa cá nhân, đoàn thể và cộng
đồng - ai có khả năng thì được xã hội tưởng thưởng, nhưng cũng phải đóng
góp nhiều hơn vào lợi ích chung, ai gặp bất hạnh thì được xã hội giúp
đỡ, ai sai phạm thì bị pháp luật xử nghiêm minh - thì mọi người cảm thấy
hãnh diện có phần mình đóng góp ở trong đó. Sự phát triển tâm lí tin
cậy lẫn nhau giữa các cá nhân và thành phần dân tộc, khi thịnh vượng
cũng như lúc khó khăn, là chìa khóa thành công của một xã hội văn minh.
*
Trong khi nhiều dân tộc trên thế giới tiến theo chiều hướng đúng đắn đó,
thì 70 năm qua VN lại bị dẫn dắt theo hướng ngược chiều, mặc dầu lòng
ái quốc của dân tộc ta rất cao! Cho nên mới đây chính Phó thủ tướng Vũ
Đức Đam đã phải nêu câu hỏi về sự nghịch lí kì lạ này "Tại sao dân ta tốt mà vẫn cứ nghèo?" (VNNet
12.8) Còn chuyên gia kinh tế, bà Phạm Chi Lan đã lập lại câu hỏi của
nhiều chuyên viên nước ngoài rất thẳng thắn nhưng thành thực là "Tại sao đất nước (VN) không muốn phát triển?".
Giữa khi đó trong những ngày kỉ niệm 70 năm cướp chính quyền, các người
cầm đầu chế độ toàn trị lại lấp liếm những thất bại, dựng lên khẩu hiệu
sĩ diện hão "Vinh quang VN", trong khi thực sự VN đang tụt hậu,
chạy sau cả Kampuchia và Lào; đi ra nước ngoài bị khinh khi, thậm chí
Singapore không cho nhập cảnh!
Lòng yêu nước của dân tộc ta rất cao, nhiều dân tộc khác cũng vậy. Nhưng
tại sao nhiều dân tộc khác đóng góp cho đất nước của họ thì được nhà
nước đền bù xứng đáng, nhưng ở VN lại diễn ra tình trạng hoàn toàn ngược
lại? Trong chuyến đi Mĩ vừa qua Nguyễn Phú Trọng đã liệt kê số tổn thất
nhân mạng trong các cuộc chiến dưới sự chỉ huy của chế độ toàn trị lên
tới "3 triệu người đã bị chết, 4 triệu người bị thương" (Tạp chí
CS -TCCS 14.7). Sự hi sinh vừa vĩ đại vừa đau đớn này, nhưng chế độ toàn
trị đã đền ơn và cư xử như thế nào với nhân dân ta trong suốt 70 năm
qua?
Chủ nghĩa yêu nước hay tinh thần ái quốc chân chính là đặc tính tự nhiên
của con người; nó đi từ bản chất tự nhiên, đó là thương yêu con, cha
mẹ, quê hương, đất nước. Tinh thần ái quốc chân chính mong cho đất nước
và dân tộc thoát qua nguy nan để từ đó cùng nhau xây dựng cho nhân dân
ấm no, hạnh phúc, đất nước hùng mạnh. Kết quả của lòng yêu nước có được
nhà nước đền bù xứng đáng không có thể đo và cảm nhận được trong nhiều
lãnh vực và kích thước. Như người dân đói hay no, trẻ em được học hành
tử tế hay phải đi ăn mày hoặc trộm cắp; mọi người có công ăn việc làm,
nhà cửa tươm tất hay lương không đủ sống. Khi phê bình công khai nhà
nước người dân có bị tù tội không, khi tham gia các tổ chức có bị cấm
cản theo dõi không, có cảm thấy hãnh diện là công dân một nước như vậy.
Tiền thuế đóng góp của nhân dân và tài nguyên của đất nước có được sử
dụng hợp lí và đúng chỗ không, hay rơi vào túi của các tham quan? Một sự
thật hết sức hiển nhiên là, không ai lại điên rồ hi sinh để chính mình
hay con cháu phải cổ cực hơn, phải chịu đày đọa hơn!
Trong dịp 70 năm Cách mạng tháng 8 những người cầm đầu chế độ toàn trị thừa nhận "Cách mạng tháng 8 là kết tinh của chủ nghĩa yêu nước".
Nhưng đây mới là một nửa sự thật. Nửa sự thực khác rất quan trọng nhưng
họ không dám nói thẳng ra là, tại sao dân tộc ta đã phải chịu hi sinh
cao, tổn thất khủng khiếp như vậy để nay đất nước lại phải trở về với
hoàn cảnh đen tối và tồi tệ gần một thế kỉ trước? Tại sao nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới không phải hi sinh gian khổ, nhưng lại
đang có cuộc sống ấm no, hưởng tự do dân chủ và độc lập thực sự?
Hồ Chí Minh nguyền rủa thực dân Pháp là không cho dân ta mở miệng thì
chính Nguyễn Phú Trọng nói không úp mở, báo chí phải tuyệt đối dưới sự
lãnh đạo của đảng. Hồ Chí Minh tố cáo bọn điềm chỉ thực dân Pháp đàn áp
người yêu nước thì chế độ toàn trị bỏ tù những người khác chính kiến.
Nguyễn Tấn Dũng hô hoán sớm ra Luật biểu tình, nhưng mấy năm qua cố tình
đưa ra rồi lại rút về để tiếp tục cho công an thả cửa đàn áp thanh
niên, trí thức biểu tình chống Bắc kinh xâm lấn, chống dân oan biểu tình
đòi lại ruộng đất!
Đất nước không muốn phát triển hay đất nước không thế phát triển lên được. Vì lí do nào?
Như phần trên đã dẫn chứng, nhiều nước trên thế giới đã sáng suốt và
thành công thoát ra khỏi các thời kì bộ lạc theo lối sống cộng sản sơ
khai, giã từ chế độ dã man của thời Trung cổ, vì họ đã nhận thức rõ được
con đường đi tới phát triển văn minh là Dân chủ đa nguyên. Tuy nó không
phải toàn là mầu hồng, nhưng nó có khả năng tổ chức thành những xã hội
văn minh, biết giải quyết tốt những nhu cầu và quyền lợi của cá nhân và
cộng đồng. Sau mấy thế kỉ thử nghiệm, nó không chỉ là lí thuyết viển
vông mà đã được thực nghiệm thành công ở rất nhiều nước. Cách tổ chức và
vận hành của chế độ Dân chủ đa nguyên là kinh nghiệm chung rất quí báu
của nhân loại.
Trong khi ấy tại VN chế độ toàn trị lại hành động nghịch lí và trái
chiều. Từ 70 năm họ đang lạm dụng quyền lực để cai trị theo kiểu dã man
thời Trung cổ, ép buộc đất nước trở về thời kì cộng sản sơ khai. Họ mơ
mộng chủ nghĩa Marx, muốn đưa VN về thời kì CS, mọi thứ đều là của
chung, tài sản chia đều, hưởng theo nhu cầu, thế giới đại đồng… Tuy
nhiên thực hiện giấc mơ này là đi ngược với tiến trình tiến hóa của nhân
loại, tức là trái với quyền lợi tinh thần và vật chất của con người.
Nghĩa là con đường đó sẽ gặp phải phản kháng mãnh liệt của xã hội.
Một khi đi ngược với chiều phát triển của văn minh nhân loại thì đảng
cầm quyền chỉ còn cách phải dùng các phương thức cai trị bằng bạo lực,
cưỡng bức, cưỡng chế... Vì vậy để tiến tới nắm chính quyền độc đoán, 70
năm trước họ đã thờ sách lược cướp và nắm chính quyền của Lenin như là
"đũa thần". Từ những niềm tin và cơ sở tư tưởng cực kì sai lầm này họ đã
đề cao và thực hiện giai cấp đấu tranh, bạo lực với giết hại và đàn áp!
70 năm nắm chính quyền của họ chồng chất hận thù, nội chiến và chiến
tranh với bên ngoài. Trong nước họ thực hiện tàn bạo chủ trương "trí, phú, địa, hào - đào tận gốc, trốc tận dễ!" qua các phong trào “cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ”, đàn áp văn nghệ sĩ và trí thức như “nhân văn giai phẩm”,
đốt sách báo không CS, từ các trại tập trung tới các trại cải tạo giam
giữ hàng triệu người, xua đuổi hàng triệu đồng bào thành các thuyền
nhân, thanh toán các thành phần “tư sản mại bản” để tiêu diệt kinh tế tư nhân, dựng lên hệ thống kinh tế quốc doanh bất lực và phí phạm tài nguyên!
Đối với bên ngoài, họ hết tôn thờ Liên xô tới quì lạy Bắc kinh với mục tiêu là giữ độc quyền cho ĐCS theo phương châm hành động “dĩ bất biến, ứng vạn biến!”
Chủ trương ngoại giao cực kì sai lầm đã đẩy đất nước hết cuộc chiến
tranh này tới cuộc chiến tranh khác, mấy triệu người bị giết hại, nhưng
những người cầm đầu chế độ toàn trị lại hãnh diện làm người gác cổng cho
toàn thế giới suốt từ 1945, như cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết
từng tuyên bố! Sau năm 1975 lại sa lầy trong chiến tranh xâm lấn ở
Kampuchia và khốn đốn trong cuộc chiến tranh với “đồng chí”
phương Bắc suốt trên một thập niên niên nữa. Tới khi Liên xô sụp đổ họ
vẫn không tỉnh ra, lại tiếp tục đâm đầu đòi giữ độc quyền cho đảng theo
sách lược “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nên cuối cùng phải sang
Thành đô cúi đầu xin qui phục và che chở của Đặng Tiểu Bình và Giang
Trạch Dân. Khiến cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và cố Thứ trưởng ngoại
giao Trần Quang Cơ phải than thở thốt lên, Hội nghị Thành đô 1990 mở đầu
cho thời kì Bắc thuộc kiểu mới!
Kết quả của chính sách nội trị sai lầm và ngoại giao mù quáng suốt 70
năm làm cho hận thù chồng chất và chia rẽ giữa các thành phần dân tộc,
giữa các miền. Cầm cờ làm tiền đồn cho thế giới đại đồng đẩy đất nước
vào những thảm họa chiến tranh, trở thành con tốt thí của Liên xô (cũ)
và Bắc kinh. Chính vì thế sau 70 năm đảng nắm độc quyền nên đất nước vẫn
lệ thuộc và nhân dân vẫn đói nghèo!
Từ gần 30 năm “đổi mới” què quặt, đảng vẫn độc quyền và lại đẻ
thêm chủ trương Kinh tế thị trường định hướng XHCN với các Tập đoàn và
Tổng công ti nhà nước để phung phí và tham nhũng trong mọi lãnh vực, đặc
biệt từ các ngân khoản khổng lồ lên tới 72 tỉ USD trong 20 năm qua vay
của các nước ngoài theo mô hình ODA để xây dựng các công trình hạ tầng
(VNEconomy, 8.8.15). Chính các Tập đoàn và Tổng công ti nhà nước đang
trở thành những ổ tham nhũng của bọn tham quan từ Bộ chính trị tới các
địa phương. Để bảo vệ lợi ích vị kỉ nên các nhóm lợi ích đang bung ra
ngay từ Trung ương đảng tới các đảng bộ các cấp theo vây cánh và gia
đình. Con cái của Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng quốc phòng,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP Hồ Chí Minh, các cựu Tổng bí thư, Chủ Tịch
nước... được cất nhắc giữ những chức vụ cao, những nơi làm ăn béo bở.
Các tập đoàn Vinashin, Vinalines làm ăn thua lỗ nhiều tỉ Mĩ kim nhưng từ
Thủ tướng tới các Ủy viên Bộ chính trị có trách nhiệm chẳng ai bị khiển
trách hay từ chức. Hầu hết ngân sách của các công trình xây dựng cầu,
đường, phi trường, hải cảng bị đục khoét; khiến cho nhiều công trình bị
bỏ hoang phế, hoặc vừa khánh thành đã bị hư hại nghiêm trọng. Chính Ủy
viên Trung ương và Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương
Vũ Ngọc Hoàng đã xác nhận một cách gián tiếp là, chế độ toàn trị hiện
nay ở VN đang chuyển hóa thành chế độ "chủ nghĩa tư bản thân hữu" giống như thời kì đầu của chế độ tư bản hoang dã, theo luật rừng xanh, cá lớn nuốt cá bé!
*
Người sáng lập đảng đề cao khẩu hiệu rất kêu "Nhân dân làm chủ, đảng làm đầy tớ!", "Đảng là người đày tớ thật trung thành của nhân dân!", "Dân biết, dân làm, dân kiểm tra!"…Nhưng
70 năm qua họ đều làm ngược lại. Khi vừa cướp được chính quyền các "đầy
tớ" phải sống chui rúc trong các túp lều tranh ở Tân trào, nhờ nhân dân
đùm bọc và che chở. Nay 70 năm sau các "đầy tớ" ở cấp cao nhất
là các ủy viên Bộ chính trị và Ban bí thư –như Nguyễn Tấn Dũng vừa công
bố hai Quyết định số 27/2015/QĐ-TTg ngày 10.7.15 và số 32/2015/QĐ-TTg
ngày 4.8.15 - đang chia nhau những biệt thự đại sang, diện tích đất rộng
tới 450-500m², diện tích nhà 300-350m², nội thất trang trí sang trọng,
hưởng chế độ ăn uống đặc biệt, xe hơi loại đắt nhất trên một tỉ đồng mỗi
chiếc, chưa kể tài xế và các nhân viên khác phải phục vụ ngày đêm. Các
ủy viên Trung ương đảng, các sĩ quan cấp tướng và cán bộ cao cấp cũng
được chế độ ưu đãi nhà và xe. Hiện có tới 40.000 xe biển xanh (xe nhà
nước) ở VN (đài Bắc kinh 9.8.15). Trong khi ấy, thật là mỉa mai 70 năm
sau những “Chủ nhân”, tức hàng chục triệu nông dân vẫn sống trong
nghèo đói, hàng triệu công nhân phải sống chui rúc trong các phòng chật
hẹp, tối tăm, mất vệ sinh, phải ăn thịt ôi, dùng nước bẩn ngay trong
các trung tâm chế xuất cạnh các thành phố của các nhà đầu tư nước ngoài…
Giữa lúc đó những người cầm đầu chế độ toàn trị sẵn sàng bỏ ra hàng
ngàn tỉ đồng để xây dựng các tượng đài Hồ Chí Minh ở rất nhiều nơi!
Chuyên viên, trí thức tiếp tục bị khinh rẻ, bị đàn áp. Suốt 70 năm những “đầy tớ” lạm dụng quyền lực tham nhũng, lập bè nhóm làm ăn theo lối Mafia, luật pháp chỉ bảo vệ cho bọn tham quan!
Tình trạng trên đây cho thấy, sau 70 năm cai trị độc quyền các “Đầy tớ” đã xây dựng lên ở VN một chế độ “Cộng hòa Chuối” (Banana republic), phản bội lời thề của người sáng lập chế độ toàn trị. Thuật ngữ “Cộng hòa Chuối”
trong chính trị học đang được phổ thông, mô tả những chế độ độc tài lệ
thuộc bên ngoài và bên trong thì bọn quan chức tham nhũng, luật pháp chỉ
là trò chơi, có quyền là có tiền, lập các băng đảng hoạt động tàn ác
quỉ quyệt kiểu bọn Mafia! 70 năm độc quyền cai trị, các “Đầy tớ” đã coi dân và đất nước như những trái chuối, thả cửa nắn bóp vuông tròn theo ý đồ riêng!
70 năm cai trị độc quyền nên các “Đầy tớ” đã tịch thu ruộng đất và tài sản của “Chủ nhân”, không những thế còn bắt “Chủ nhân” phải đóng thuế và phục dịch, nếu chống lại đều bị đàn áp!
Sau chuyến đi Hoa kì đầu tháng 7.15 Nguyễn Phú Trọng người cầm đầu chế độ “Cộng hòa Chuối”
đã không dám nhìn thẳng vào sự thực, không dám vượt qua chính mình, vẫn
rơi vào tật đổi đen thành trắng. Ông Trọng không dám nhìn nhận là, theo
công pháp quốc tế việc thiết lập quan hệ giữa hai nước trước hết là vì
quyền lợi của hai bên, không phải tự động là công nhận chế độ chính trị
của nhau! Nguyễn Phú Trọng cũng không dám nhìn thẳng sự thật là, TT
Obama đã nói thẳng trong “Tuyên bố về tầm nhìn chung Việt Nam-Hoa kì”
là hai bên còn tồn tại những khác biệt lớn cả về nhân quyền lẫn các
quyền kinh tế, lao động…; cho nên các cơ sở hợp tác chiến lược toàn diện
vì thế không thể đạt được.
Nhưng trong các tuần lễ gần đây sau khi từ Mĩ về, Nguyễn Phú Trọng đã cố
tình bưng bít những khó khăn rất lớn này. Trái lại ông Trọng lại chỉ hô
hoán lên nói là Hoa kì đã nhìn nhận chế độ chính trị ở VN và như thế là
công nhận "vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam!" (TCCS
14.7) Nguyễn Phú Trọng cố tình thổi phồng sự kiện không có này theo
chiến thuật mượn gió bẻ măng. Vì thế hiện nay trong nhiều dịp ông Trọng
đã chủ ý cố tình hành động như vậy. Trong các hội nghị quan trọng của
quân đội, công an, ngoại giao, báo chí và tư pháp… mà ông chủ trì mới
đây, ông vẫn ngang ngược lập đi lập lại lệnh bắt các cơ quan này phải
trung thành tuyệt đối với ĐCS… Mục tiêu nhắm tới của ông là làm sao để
phe bảo thủ giáo điều, mà ông làm thủ lãnh, sẽ giật lại thượng phong
trong Đại hội 12 vào đầu năm tới. Điều này có nghĩa là ông quyết tâm duy
trì và củng cố tiếp tục chế độ “Cộng hòa Chuối”, mặc dầu chế độ này đang đầy các phe nhóm chỉ lo lợi ích thối nát, tham nhũng, bất công và đàn áp.
Đối với Nguyễn Phú Trọng cầm đầu phe bảo thủ giáo điều, cũng như những
người cầm đầu các nhóm lợi ích đều có một quyền lợi chung là làm sao
phải gìn giữ cho được “Cộng hòa Chuối”, để từ đó các “Đầy tớ” có thể tiếp tục ngồi mát ăn bát vàng, mặc kệ nhân dân đói rách, đất nước tụt hậu và lệ thuộc phương Bắc!
Thật quá rõ ràng, các “Đầy tớ” đang phản bội nhân dân. Thực chất khẩu hiệu 70 năm của chế độ toàn trị “dân làm chủ, đảng làm đầy tớ” là như thế!!!
29.8.15
Mục Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển điện tử:
Email: dcvapt@gmail.com
0 comments:
Post a Comment