Đã có những dấu hiệu run chân trước thềm Đại hội Đảng XII của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang cho đến đội ngũ
Tuyên giáo và Quân ủy Trung ương.
Trước hết hãy nói về bài viết "Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp, làm tốt hơn nữa
công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội" của ông Nguyễn Phú Trọng nhân kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống của Công an nhân dân (19/8/1945 - 19/8/2015)
Mở đâu, ông Trọng tự khen đảng đã phá vỡ thành công kế họach muốn thay
đổi Việt Nam sau khi các nhà nước Cộng sản ở Nga và Đông Âu tan rã trong
giai đoạn 1989-1991.
Ông nói: “Trong lúc đất nước gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù
địch, phản động, cơ hội chính trị đẩy mạnh các hoạt động phá hoại tư
tưởng, đòi "phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang, trong đó có lực lượng
Công an nhân dân; kích động "đa nguyên", "đa đảng", âm mưu bạo loạn,
lật đổ hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân chủ
động phát hiện, đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa
bình" của các thế lực thù địch; giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội.”
Nhưng đó là chuyện của 24 năm trước, sau khi Đại hội đảng VI năm 1986 thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh quyết định “Đổi mới” để “chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Nói cách khác là đảng buộc phải “cởi trói cho dân được tự do làm kinh
tế”, phá bỏ hàng rào ngăn sông cấm chợ để hội nhập với Thế giới cứu nguy
đất nước lúc đó đã cạn nguồn viện trợ của các nước Xã hội Chủ nghĩa.
Nhưng nay chỉ còn bốn tháng nữa đến kỳ Đại hội đảng XII đầu năm 2016 mà
mức phát triển của Việt Nam sau 30 năm vẫn còn ì ạch ở hạng thứ 6 sau
Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines và Singapore. Việt Nam chỉ
đứng trên Lào, Campuchia, Brunei và Miến Điện trong số 10 Quốc gia của
Hiệp hội các nước Đông Nam Á.
Vì vậy, ông Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đã cảnh giác: "Ở trong
nước, sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc
phòng - an ninh, đối ngoại, hội nhập quốc tế đạt được những thành tựu
quan trọng, nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển,
trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, đời sống nhân dân được cải
thiện, thế và lực, sức mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của đất nước được
tăng lên. Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn chưa tương xứng với
tiềm năng, lợi thế của đất nước. Kinh tế phát triển chưa ổn định, thiếu
bền vững, vẫn dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, các lợi thế tự nhiên,
lao động rẻ, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp. Đời
sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào ở
vùng sâu, vùng xa, đồng bào các dân tộc thiểu số." (trích bài viết Kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 trên Tạp chí Quốc phòng Toàn dân, 31/07/2015)
Ông Sang còn tiết lộ: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại,
thậm chí có mặt trầm trọng hơn; xuất hiện nguy cơ mới “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các thế
lực thù địch đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”, tăng cường các
hoạt động chống phá ta về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, về dân
chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” nội bộ ta; tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đe dọa chủ quyền biển,
đảo của đất nước ta.”
Đã khá lâu không thấy Lãnh đạo đảng và Nhà nước nhắc đến “bốn nguy cơ” được nói đến lần đầu tiên tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (20-25/1/1994), thời Tổng Bí thư Đỗ Mười.
Theo báo điện tử của Đảng thì: “Hội nghị xác định 4 nguy cơ trước mắt
là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ
nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động "diễn
biến hòa bình" của các thế lực thù địch.”
Như vậy, sau 21 năm theo lời ông Sang thì đảng CSVN phải đối phó thêm
với 2 “nguy cơ” mới là “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá”, tổng cộng là 6
nguy cơ. Điều này có nghĩa tình trạng “chệch hướng xã hội chủ nghĩa”
trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên không còn là “nguy cơ” nữa mà đã thành
hiện thực.
Tình trạng đảng viên không còn tin vào chủ nghĩa thoái trào Mác-Lênin và
Tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh đã phổ biến và lan rộng trong nội bộ đảng
viên, kể cả cấp Lãnh đạo, từ Khóa đảng VIII thời Lê Khả Phiêu chứ không
mới đây thôi.
Bây giờ tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” đã lan sang hai lực
lượng Quân đội và Công an, trong khi nhân dân thì càng ngày càng muốn
xa rời đảng vì Lãnh đạo đã thất hứa với dân nhiều quá trong qúa trình
Đổi mới.
Một trong những nguyên nhân dân không còn “liên hệ máu thịt”với đảng vì
tệ nạn tham nhũng, quan liêu và cửa quyền trong hệ thống cai trị đã vượt
qúa khả năng phòng, chống của đảng. Bây giờ lại có thêm “lợi ích nhóm”
cấu kết, chia ăn với nhau để bóc lột dân và gây lãng phí công quỹ ngày
một lên cao trong mọi lĩnh vực và cơ chế. Trong khi kế họach “kê khai
tài sản” của Lãnh đạo chỉ còn là hình thức để che mắt dân.
Lệnh cho công an
Nhưng khi dân bỏ đảng, cán bộ đảng viên không tuân lệnh đảng, và thờ ơ trong công tác “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” thì ông Nguyễn Phú Trọng lại quay ra đổ tội cho “các Thế lực thù địch”.
Trong bài báo nhân kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống của Công an nhân dân, ông viết: “Các
thế lực thù địch không từ bỏ mục tiêu xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa, triệt để khai thác những khó khăn của
Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế để tiếp tục gia tăng các hoạt động gây bất ổn về an ninh chính trị.
Trong bối cảnh đó, việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Công an nhân dân càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để lực lượng Công
an nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân,
thực sự là lực lượng vũ trang trọng yếu tuyệt đối tin cậy của Đảng.”
Tuy không chỉ được đích danh “thế lực thù địch” là ai, từ đâu đến nhưng
ai cũng biết “kẻ thù” giấu mặt này đã được cả Ban Tuyên giáo của đảng và
Tổng cục Chính trị Quân đội thường xuyên sử dụng như một cứu cánh giải
thoát cho thất bại của đảng không ngăn chặn được tình trạng “tự động tan
hàng” trong nội bộ.
Vì vậy không lạ khi thấy ông Trọng ra lệnh cho Công an phải: "Thống
nhất nhận thức, bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện nào cũng phải luôn
kiên định nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt đối với Công an nhân dân."
Ông nói: “Đây là yêu cầu khách quan, tất yếu của sự nghiệp bảo vệ an
ninh, trật tự. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Công an nhân dân là toàn
diện, bao quát trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng và tổ chức; trên
mọi nhiệm vụ công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội, xây dựng lực lượng. Ở đâu có tổ chức và hoạt động của Công an
thì ở đó có sự lãnh đạo của Đảng. Đảng đề ra đường lối bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, và nội dung có tầm quan trọng
đặc biệt là xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ
quốc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế
hoá đường lối, quan điểm của Đảng trong Hiến pháp và các văn bản pháp
luật để cán bộ, chiến sĩ Công an và toàn dân quán triệt, thực hiện...”
Ông nói thêm: “Đảng ủy Công an Trung ương và các cấp uỷ đảng trong
Công an phải luôn quán triệt và thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ
trương của Đảng về an ninh, trật tự, bảo vệ Tổ quốc... tuân thủ, thực
hiện đầy đủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên tất cả các mặt công tác.
Lực lượng Công an nhân dân phải chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của
Đảng, thực hiện đúng các quy định của pháp luật và sự quản lý, điều hành
của Nhà nước...”
Nhưng tại sao vào thời gian chuẩn bị Đại hội đảng XII mà ông Trọng phải
ra lệnh cho Cộng an gay gắt như thế? Chẳng lẽ cũng đã có chỗ này chỗ kia
Công an đã không còn tha thiết với nhiệm vụ “còn Đảng còn mình”?
Vì vậy ông Trọng đã lưu ý Công an: “Lực lượng Công an phải luôn luôn
nêu cao cảnh giác, chủ động, nhạy bén, sẵn sàng có các phương án đối phó
với các tình huống. Tiếp tục đổi mới tư duy, phong cách lãnh đạo,
phương pháp công tác, bố trí lực lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới. Đặc biệt, cần có tư duy mới về xác định đối tượng, đối
tác; chủ động, nhạy bén trong nắm bắt, phân tích, dự báo tình hình; làm
tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách bảo
đảm an ninh quốc gia, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, tăng cường chính sách
đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuyệt đối
không được chủ quan, mơ hồ, mất cảnh giác; không được để bị động bất ngờ
trước mọi tình huống-- Không ngừng củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết
giữa Công an nhân dân với Quân đội nhân dân cùng thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh...”
Cuối bài, ông Tổng Bí thư đảng CSVN còn ra lệnh cho Công an phải: “Đẩy
mạnh đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn biến hoà
bình", "phi chính trị hoá" lực lượng Công an nhân dân. Công an cần phối
hợp với các cơ quan chuyên môn tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
lý luận và sử dụng các kết quả nghiên cứu để đấu tranh phản bác các
luận điệu phản động, sai trái. Đồng thời nâng cao bản lĩnh chính trị, ý
thức cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ Công an trước âm mưu, thủ đoạn chống
phá của các thế lực thù địch. Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội
bộ; phát hiện kịp thời, đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện dao
động, giảm sút niềm tin, mơ hồ, mất cảnh giác, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống...”
4 Nguy cơ chính là gì?
Như vậy khi ông Sang báo động “bốn nguy cơ” không chỉ vẫn còn tồn tại mà có mặt nghiêm trọng hơn thì chúng là gì?
Một tài liệu học tập của Đảng giải thích:
1. Nguy cơ tụt hậu:
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Nguy cơ này được tạo nên bởi những nguyên nhân khách quan và
chủ quan:
- Việt Nam đi vào xây dựng và phát triển từ một điểm xuất phát rất thấp kém, lạc hậu.
- Chúng ta phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ
quốc lâu dài. Đến nay, trên đất nước ta hậu quả của cuộc chiến tranh vẫn
còn khá nặng nề.
- Do những thiếu sót, khuyết điểm, có cả những sai lầm của chúng ta
trong quá trình phát triển kinh tế. Điều này thể hiện khá rõ trong những
năm đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế xã hội.
Điều cần nói thêm là xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá các lĩnh vực của
đời sống hiện nay không chỉ tạo nên thuận lợi, thời cơ để các quốc gia
cùng hòa nhập và phát triển mà thực tế còn làm tăng thêm khoảng cách
giữa giàu và nghèo, giữa Bắc và Nam. Chính trong lĩnh vực này thời cơ và
nguy cơ, thuận lợi và khó khăn đan xen, đi liền với nhau. Để tranh thủ
thời cơ, thuận lợi, vượt qua thử thách khó khăn, rút ngắn khoảng cách
kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới đòi hỏi Đảng Cộng
sản và nhân dân Việt Nam phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, đổi
mới, sáng tạo như Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
2.- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa
Về vấn đề này Văn kiện Đại hội VIII chỉ rõ: “Xét trên tổng thể, việc
hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là
đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa… Tuy vậy trong quá trình thực
hiện, chúng ta đã phạm một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài dẫn
đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức
độ khác. Nếu không khắc phục có hiệu quả thì những khuyết điểm lệch lạc
đó sẽ làm suy yếu Đảng, làm mọt ruỗng bộ máy nhà nước, biến chất chế độ,
đưa đất nước đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa”.
Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, trong lãnh đạo và quản lý,
Đảng, Nhà nước cần có những chủ trượng, chính sách và giải pháp hạn chế
mặt trái của kinh tế thị trường. Cần đặc biệt coi trọng việc ngăn ngừa
những phần tử thoái hóa biến chất, cơ hội và các lực lượng thù địch lợi
dụng kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường để làm chệch hướng xã
hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp, diễn ra thường
xuyên”.
3.-Nguy cơ nạn tham nhũng và tệ quan liêu
Chỉ hơn nửa tháng sau khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhìn
thấy những biểu hiện của nạn tham nhũng và tệ quan liêu xuất hiện trong
bộ máy nhà nước. Người thường gọi những tệ nạn ấy bằng các từ “giặc nội
xâm”, “giặc ở trong lòng”. Thắng loại “giặc” tồn tại ngay trong bộ máy
Đảng, Nhà nước, trong nội bộ cán bộ, đảng viên là hết sức phức tạp, khó
khăn. Thực tế cho thấy, kể từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII,
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương biện pháp để khắc phục, nhưng
đến nay nguy cơ này dường như vẫn trong tình trạng gia tăng. Cuộc vận
động xây dựng và chỉnh đốn Đảng được chính thức phát động từ 19-5-1999,
có mục tiêu hàng đầu là khắc phục nguy cơ nạn tham nhũng và tệ quan
liêu. Cuộc vận động này đã tạo được chuyển biến ban đầu, tăng thêm niềm
tin của nhân dân đối với Đảng, đối với đất nước. Tuy vậy, trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần tăng cường hơn nữa cuộc đấu
tranh chống tham nhũng, tệ quan liêu và những biểu hiện tiêu cực khác.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng viết: “Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp
tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và
toàn bộ hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Cần chống tham nhũng
với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các hành vi lợi
dụng chức quyền để làm giàu bất chính”.
4.- Nguy cơ “diễn biến hoà bình”
Trong công cuộc đổi mới chúng ta chủ trương đa phương hoá, đa dạng
hoá, mở rộng quan hệ quốc tế, làm bạn với tất cả các nước. Chủ trương
trên đây bị các thế lực đế quốc và phản động lợi dụng, âm mưu thực hiện
diễn biến hoà bình. Hiện nay, khi cách mạng và chủ nghĩa xã hội thế giới
đang ở giai đoạn thoái trào thì các thế lực thù địch, đứng đầu là đế
quốc Mỹ càng quyết tâm thực hiện diễn biến hoà bình. Đối với Việt Nam,
nguy cơ diễn biến hoà bình là rất lớn và rất nghiêm trọng. Vì vậy, chống
diễn biến hoà bình là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc, đấu tranh
giữa hai con đường.
Cần nói thêm rằng bốn nguy cơ nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, đều nguy hiểm như nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Nếu khắc
phục được nguy cơ này sẽ hạn chế được các nguy cơ khác và ngược lại.
Nguy cơ diễn biến hoà bình đã và đang tác động sâu sắc tới các nguy cơ
bên trong. Khắc phục được các nguy cơ bên trong thì nhất định sẽ làm
thất bại âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà bình”. Văn kiện Đại hội IX của
Đảng viết: “Bốn nguy cơ mà Đảng đã từng cảnh báo vẫn tồn tại và diễn
biến phức tạp. Các nguy cơ này đan xen và tác động lẫn nhau. Không thể
xem nhẹ nguy cơ nào”. Đảng và nhân dân Việt Nam quyết tâm và có đủ khả
năng khắc phục cả bốn nguy cơ nêu trên.”
Bây giờ 21 năm sau, 4 “nguy cơ” đã thành “6 nguy cơ”, ấy là chưa kể đến
nguy cơ “lợi ích nhóm” không những chỉ “phức tạp, đan xen, tác động lẫn
nhau” mà còn đe dọa sự sống còn của đảng.
Vậy liệu Đại hội đảng XII có khả năng ngăn chặn được “tự diễn biến” và
“tự chuyển hoá” trong đảng hay chúng sẽ kết liễu cuộc đời đảng sau 40
năm kết thúc chiến tranh do đảng CSVN gây ra cho đất nước? -/-
20.08.2015
0 comments:
Post a Comment