Chỉ là vấn đề thời gian.
“Các
nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng,
đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ,
nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của
chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.
Sở
dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa
thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn
tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính
trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn
tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời
gian.”
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
Tác giả: Ngô Đình Nhu (1910 - 1963)
Ông Ngô Đình Nhu
Tư liệu về Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Khi hay tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, Cố Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, đã nhận xét:
“Người
Mỹ có trách nhiệm nặng nề trong việc vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa
Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp… Tôi khâm phục ông Diệm, ông
xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100
năm nữa mới tím được một lãnh tụ cao quí như vậy”.[1].
Nhưng
khi đọc xong tác phẩm Chính Đề Việt Nam của ông Ngô Đình Nhu[2], tôi
nghĩ cần phải thêm vào lời nhận xét đó, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm hay nhiều hơn nữa mới tìm được một nhà lãnh đạo có viễn kiến chính trị sâu sắc như ông Nhu...
Thực
vậy, đối với cá nhân người viết, sau hơn 30 năm giảng dạy và nghiên cứu
về các vấn đề chính trị Việt Nam tại một số các viện đại học, các viện
nghiên cứu, các bảo tàng viện và thư viện tại Việt Nam, Úc, Hoa Kỳ và Âu
châu.. người viết được các đồng nghiệp và các chuyên gia quốc tế về
Việt Nam đã dành cho một chút cảm tình và nễ trọng về kiến thức chuyên
môn và sự khổ công đọc sách. Tuy nhiên, với tất cả sự thận trọng cần
thiết của một người nghiên cứu lịch sử, người viết phải thành thật công
nhận rằng, trong tất cả những sách nghiên cứu mà người viết đã có dịp
đọc trong hơn 30 năm qua vì sở thích hay vì nhu cầu giảng dạy và nghiên
cứu đòi buộc phải đọc bằng Việt, Pháp và Anh ngữ, chưa có một tác phẩm
nào, thể hiện một sự tổng hợp bao quát và rất giá trị về các vấn đề
chính trị thế giới trong hơn 200 năm qua, để rồi sau đó đưa ra những
viễn kiến chính trị vô cùng sâu sắc để làm Kim Chỉ Nam Phát Triển cho
Việt Nam cũng như các Quốc Gia Chậm Tiến trên thế giới, như tác phẩm này
của ông Nhu. Có lẽ phải nói đây là một đóng góp quí báu vào kho tàng tư
tưởng chính trị thế giới. Và giả dụ rằng, nếu có thể sống thêm 100 năm
nữa để đọc sách, người viết nghĩ rằng không thể nào có được một óc tổng
hợp bao quát, đứng đắn và một viễn kiến chính trị sâu sắc thần kỳ như
tác giả của quyển Chinh Đề Việt Nam.
Vì
tác phẩm nguyên bản bằng Pháp ngữ, và người viết tin rằng dịch giả đã
rất xuất sắc trong khi chuyễn ngữ, vì ấn bản Việt ngữ đã diễn tả một
cách hết sức lưu loát những khía cạnh sâu sắc và phức tạp của các vấn
đề. Tuy nhiên, những người đã quen tiếp cận với lối hành văn của ông Nhu
qua các diễn văn mà Ông đã soạn thảo cho Tổng Thống Diệm trong suốt 9
năm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa,[3] chắc chắn sẽ thấy rằng cách hành văn
trau chuốt, chính xác, nghiêm túc, sắc bén và chặt chẻ của ông Nhu mà
bản dịch không thể nào thể hiện được. Tuy nhiên, người viết muốn độc
giả trực tiếp tiếp cận, một phần nào, với cách luận giải và trình bày
độc đáo của ông Nhu về các vấn đề chính trị Việt Nam và quốc tế, nên
người viết đã quyết định trích nguyên văn những phần trong Chính Đề Việt
Nam liên quan dến chủ đề của bài viết này. Và người viết sẽ hạn chế tối
đa phần đưa ra những diễn giải và nhận xét riêng tư của mình.
Về
nội dung tác phẩm, có lẽ phần cuốn hút được sự ngưỡng mộ nhất của người
viết là, trước đây gần nữa thế kỷ, ông Nhu đã nhận xét Liên Sô sẽ tự
giải thể để làm hòa với Tây Phương và Trung Cộng sẽ thất bại trong việc
sử dụng chủ nghĩa Cộng Sản để phát triển kinh tế, cũng như Âu Châu sẽ
tập hợp lại với nhau trong một khối thống nhất như Khối Liên Hiệp Âu
Châu ngày nay. Nhưng điều hấp dẫn hơn nữa, ông Nhu đã không đưa ra những
lời tiên đoán như một người thầy bói hay một chiêm tinh gia, trái lại,
ông đã đưa ra những phán đoán của mình, sau khi đã phân tích và tổng hợp
các dữ kiện lich sử và các biến cố chính trị thế giới, một cách khoa
học, khách quan và vô tư. Chính vì vậy, người viết nghĩ rằng tập sách
này sẽ có một mãnh lực vô cùng hấp dẫn đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam
và các quốc gia chậm tiến Á Phi, nếu họ thực sự mong muốn xây dựng và
phát triển đất nước, theo một đường lối khoa hoc, thực tiển và hợp lý
nhất.
Ví
tác phẩm bao quát nhiều vấn đề lớn lao liên quan đến kinh nghiệm phát
triển kinh tế của Nhật Bản, Liên sô, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ.. và cả trường
hợp của Trung Cộng nữa. Đó là những đề tài quá lớn cho bài viết này. Do
đó, người viết nghĩ rằng, vấn đề thời sự nóng bỏng nhất hiện nay là vấn
đề Trung Cộng xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải, các hải đảo Hoàng Sa &
Trường Sa cùng vùng Cao Nguyên Trung Phần. Chúng ta thử tìm xem, gần 50
năm trước đây, ông Nhu đã tiên đoán hiểm họa này ra sao, đã kiểm điểm
lại chinh sách ngoại giao sai lầm của chúng ta như thế nào và phương
sách nào phải theo đuổi để chống lại Trung Cộng, để chúng ta có thể thấy
được kiến thức uyên bác của một chính trị gia và cũng là một học giả
lỗi lạc của thời đại chúng ta.
Sự Thiển Cận Của Nhà Cầm quyền Hà Nội.
Sự
xâm lăng của Trung quốc đối với Việt Nam có tính cách trường kỳ, nhưng
những nhà lãnh đạo Hà Nội vì thiển cận và vì quyền lợi hẹp hòi của Đảng
Cộng Sản và cũng có thể vì quyền lợi cá nhân ích kỷ của những vị lãnh
đạo, đã không ý thức hiểm họa xâm lăng khiếp hải đó của Trung Quốc, họ
đã xem nhẹ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, đã liên kết với Trung Cộng
và Liên Sô, đánh mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, là khai thác những mâu
thuẫn giữa hai khối Tây Phương và Liên Sô sau Thế Chiến Thứ Hai, để
khôi phục độc lập và nhận viện trợ của cả hai khối để phát triển dân
tộc…như Ấn Độ. Trái lại, việc cam tâm làm chư hầu cho Trung Cộng và Liên
Sô đã đưa Việt Nam vào cuộc chiến tranh với Tây Phương một cách vô
nghĩa và phi lý, và đã đem lai một hậu quả vô cùng khủng khiếp cho cả
dân tộc, đó là sự hủy diệt toàn bộ sinh lực của quốc gia, cả về phương
diện tinh thần lẫn vật chất và sinh mang của người Việt, trong suốt hơn
30 năm… Nhưng còn tệ hại hơn nữa, là sự nhận viện trợ đó từ Trung Cộng
đã là tiền đề để rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam ngày nay.
Từ những năm đầu của thập niên 1960, ông Nhu đã nhìn thấu suốt được hiểm họa xâm lăng truyền kiếp đó như sau:
Trong
lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều
do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập
của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh
thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu hồi
phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng
nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả các sự
kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm
trên.
Ngay
năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam,
Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, vì Đinh Tiên Hoàng vừa
mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân,
do đường thuỷ và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa. Ý cố
định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa
thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà
quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa,
thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận
với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung
Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa,
suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà
Trung Hoa coi như bị tạm mất.
Trong
900 năm, từ năm 939 đến năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xã hội
Đông Á làm cho những mâu thuẫn, nội bộ của xã hội này, tạm ngưng hoạt
động, Trung Hoa đã bảy lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà
Tống chủ trương, ba lần nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà
Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các
triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị
trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh
tế ấn định: lưu vực sông Hồng Hà là đướng thoát ra biển thiên nhiên của
các tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập
cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đã như vậy thì, ngay
bây giờ, ý định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết
nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ vì lý do này mà, năm
1883, Lý Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đã, thay
vì gởi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa để chống ngoại xâm, và
thay vì cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lý ra có nhiệm vụ bảo
vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia cắt Việt Nam với Pháp, Trung Hoa
dành cho mình các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để
lấy đường ra biển. Và ngay Chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành
phần giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 16 trở lên phía Bắc[4],
cũng vì lý do trên.
Xem
thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe
dọa thường xuyên. (tr. 166). Do đó, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng
như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa
truyền kiếp.
Sùng Bái Chủ Nghĩa Cộng Sản là một Sai Lầm Nghiêm Trọng
Trong
khi Liên Sô và Trung Cộng xem chủ nghĩa Cộng Sản như là phương tiện
tranh đấu để qui tụ các nước nhược tiểu Á Phi vào đồng minh với họ,
chống lại sự bao vây của Tây Phương nhằm giúp họ phát triển kinh tế của
đất nước họ, thì Cộng Sản Việt Nam sùng bái chủ nghĩa Cộng Sản như là
một chân lý để cải tạo xã hội và xây dựng đất nước. Chính vì sự thiếu
sáng suốt của nhà cầm quyến Hà Nội đã khiến Việt Nam phải bị chia cắt
làm 2 miền vào năm 1954, mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, để xây dựng
đất nước và củng cố độc lập để chống ngoại xâm.
Ông Nhu đã luận giải nan đề đó như sau:
Nhưng
chúng ta cũng còn nhớ rằng Nga Sô sở dĩ liên kết với các thuộc địa của
Tây phương là bởi vì Nga Sô cần có đồng minh trong công cuộc chiến đấu
trường kỳ và vĩ đại với Tây phương, mà mục đích trước hết và trên hết,
là phát triển dân tộc Nga. Tính cách thiêng liêng giữa các đồng chí của
lý tưởng cách mạng xã hội thế giới chỉ là một tín hiệu tập hợp qui tụ kẻ
thù của Tây phương vào một mặt trận phục vụ một chiến lược tranh đấu
của dân tộc Nga. Ngày nay, mục đích phát triển của Nga đã đạt. Sự thay
thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của Nga Sô bằng những
giá trị tiêu chuẩn, di sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đã thấy
trong một đoạn trên, là một bằng cớ hùng biện nhất, soi sáng lập trường
của Nga. Trung Cộng tố cáo Nga phản bội chủ nghĩa Các-Mác Lê-Nin vì
những sự kiện trên. Trung Cộng lại muốn thay thế Nga, nhân danh chủ
nghĩa Các-Mác Lê Nin hô hào qui tụ các nước kém mở mang, để phục vụ công
cuộc phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Ngày nào mục đích phát triển đã
đạt, thì cuộc đồng minh mới này do Trung Cộng đề xướng cũng không còn
hiệu lực đối với Trung Cộng, cũng như cuộc đồng minh trước đây do Nga đề
xướng, ngày nay, không còn hiệu lực đối với Nga. Và mục đích cuối cùng
của cuộc tranh đấu vẫn là mục đích dân tộc.
Nhiều
nhà lãnh đạo Á Đông mà quốc gia cũng đã bị Đế quốc thống trị, đã đủ
sáng suốt để nhìn thấu thâm ý chiến lược của Nga Sô. Gandhi và Nehru, từ
chối sự đồng minh với Cộng Sản vì lý do trên.(tr. 201) Chúng ta chưa
có một tài liệu hay một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo
miền Bắc hiện nay đã nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thư
lại chính trị của miền Bắc còn đang ca tụng như là những chân lý những
giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ. Như thế thì
có lẽ dân tộc chúng ta còn phải bất hạnh mục kích các nhà lãnh đạo miền
Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lý, một lý thuyết mà Nga Sô và
Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu sa
thải khi mục đích phát triển đã đạt. Như thế thì, giả sử mà người Pháp
có thật sự thi hành một chính sách trả thuộc địa, như người Anh, đối với
Việt Nam, thì các nhà lãnh đạo miền Bắc cũng chưa chắc đã đưa chúng ta
ra được ngoài vòng chi phối trực tiếp của hai khối để khai thác mâu
thuẫn mà phát triển dân tộc.
Trong
hoàn cảnh mà cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối nặng nề
hành động chính trị của các quốc gia nhỏ, lập trường Cộng Sản, lệ thuộc
Trung Cộng, của các nhà lãnh đạo miền Bắc, đương nhiên gây phản ứng của
Tây phương và sự phân chia lãnh thổ cũng không tránh được. Như vậy, tư
cách Cộng Sản của các nhà lãnh đạo miền Bắc là một điều kiện thuận lợi
giúp cho người Pháp thi hành những toan tính chính trị của họ ở Việt
Nam. Và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng là một nguyên
nhân của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam, trong khung cảnh chính trị của
thế giới, sau Đại chiến thứ hai, do sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây
phương chi phối.
Tóm
lại nguyên nhân sâu xa của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam ngày nay là
chính sách thuộc địa của Pháp và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và
Trung Cộng của các nhà lãnh đạo miền Bắc.
Trong
thực tế, sự phân chia đã nảy mầm khi hai quốc gia Tây phương Anh và Mỹ,
để dọn đường cho một giải pháp chấm dứt sự bế tắc của Pháp ở Việt Nam,
nhìn nhận và bắt dầu viện trợ cho quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, viện trợ
quân sự và kinh tế đều qua tay chính phủ Pháp. Và một phần lớn, đã được
sử dụng trực tiếp hay gián tiếp trong công cuộc tái thiết nước Pháp đã
bị chiến tranh tàn phá. Thời gian qua, xét kỹ thì thời kỳ này lại là
thời kỳ mà những thủ đoạn chính trị của Pháp ở xứ này mang đến nhiều kết
quả nhất.
Bên khối Cộng Sản, Nga và Trung Cộng cũng nhìn nhận Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam và cũng bắt đầu viện trợ.
Từ
đây, chiến cuộc Việt Nam, biến thành một chiến trường quân sự và địa
phương của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương. Những mâu thuẫn
giữa Nga Sô và Tây phương mà, đúng lý ra, phải được dùng để phát triển
dân tộc, lại trở thành những khí giới gieo rắc sự chết cho toàn dân.
Những yếu tố của một cơ hội phát triển đã biến thành những khí cụ của
một tai họa.
Đồng
thời, điều này vô cùng quan trọng cho chúng ta, sự chi phối của Trung
Hoa, và sau lưng sự chi phối, sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa, mà chúng
ta đã biết là vô cùng nặng nề, một cách liên tục, cho chúng ta trong
hơn tám trăm năm, tạm thời đình chỉ trong gần một thế kỷ Pháp thuộc, đã
bắt đầu hoạt động trở lại dưới các hình thức viện trợ và cố vấn quân sự
cho quân đội của Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam.
Chúng
ta thừa hiểu rằng sự phát triển của Tàu, là mục đích trước và trên hết
trong mọi cuộc Đồng Minh hiện nay của các nhà lãnh đạo Trung Cộng, cũng
như sự phát triển của Nga là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc
Đồng Minh trước đây của các nhà lãnh đạo Nga. (tr. 202 -204)
.
Nhưng Hà Nội còn phạm những lỗi lầm nghiệm trong hơn nữa, khi quyết
định dụng võ lưc để thôn tính miền Nam, đã dẫn tới việc trực tiếp đụng
độ quân sự với Hoa Kỳ, khiến miền Bắc đã khánh tận và kệt quệ trong cuộc
chiến tranh chống Pháp càng lún sâu trong cảnh tượng hoàn toàn đỗ nát
và hoang tàn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, mà ngày nay, qua hành động
gần như van nài của Hà Nội để xin lập lại bang giao với Hoa Kỳ vào năm
1996, ai còn chút lương tri bình thường cũng thấy rằng cuộc chiến đó là
hoàn toàn vô lý và xuẫn động, mà nguy hiểm hơn nữa là trực tiếp tạo điều
kiện thuận lợi cho Trung Cộng tự do xâm lăng Việt Nam, vì Mỹ đã không
còn hiện diện ở miền Nam, để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng.
Trong tác phẩm Chinh Đề Việt Nam, hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng ngày nay cũng đã được báo động cách đây gần 50 năm:
Sự
lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi
phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng
mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Ký ức của những thời kỳ thống trị tàn
khốc của Tàu đối với chúng ta còn ghi trong mỗi trang lịch sử của dân
tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta.
Các
nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng,
đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ,
nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của
chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.
Sở
dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa
thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn
tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính
trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn
tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.
Trong
hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân
tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối
thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ
đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý định
xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến
tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình
của Nga Sô.
Vì
vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự
kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ
lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và
độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc
và cứu dân tộc khỏi ách trống trị một lần nữa. (tr.212)
Chính Sách Ngoại Giao
Có
lẽ, trong quá khứ, chúng ta quá sùng bái văn hóa Khổng Mạnh và quá lệ
thuộc về chính trị đối với các Hoàng Đế Trung Quốc, nên chúng ta đã
không xây dựng được một đường lối ngoại giao khoáng đạt như Nhật Bản để
có thể cứu nguy cho đất nước, khi dân tộc bị nạn ngoại xâm. Ông Nhu đã
kiểm điểm sự thất bại nặng nể của chính sách ngoại giao của các vua chúa
ngày xưa qua những dòng dưới đây:
Họa
xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch
sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo
của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng
bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc.
Hai
lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó.
Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai
nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế.
Tâm
lý thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và
Trung Hoa, lại còn lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các
nước láng giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, thì
đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lý
đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào
cũng gay go. Đã đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công
trình mà dân tộc đã thực hiện được. Nhưng chúng ta còn thiếu tài liệu để
cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng
ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn thì, có lẽ
sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu
hỏi mà chúng ta không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ
biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển? Nếu
chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào
một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đã
sớm phát ra nhiều ngõ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào
mỗi một công cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh
Trung Hoa và Ấn Độ. Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự
liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí
của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi dào
và hữu hiệu hơn.
Nhưng
thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của
dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta đều bị
ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường,
một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam.
Sở
dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lãnh đạo Triều Nguyễn của
chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao
rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là vì
các nhà lãnh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nỗi không
khí tâm lý thuộc quốc đã đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của
chúng ta. Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang
cầu cứu với Trung Hoa. Chúng ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế
nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như
chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đã lại thừa cơ hội mà đặt lại nền
thống trị ở Việt Nam.
Các
sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đình, thần
phục với Pháp như chúng ta quen điều đình, thần phục với Trung Hoa, chớ
không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại
giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho mình.
Vì
thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là
một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đã trình bày,
thì cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại
giao đó đã mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, thì có lẽ
những sự thất bại nặng hơn nhiều.
Sự
bành trướng của chúng ta đã thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ
hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho chúng ta.
Nền
ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để
bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị
họa xâm lăng đe dọa, thì ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và
hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lãnh thổ.
Trong
chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đã bị ngoại xâm tám lần, bảy
lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu
lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi
năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh thổ và thống trị
chúng ta trong hơn tám mươi năm.
Vì
vậy cho nên, chốngngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị
của Việt Nam. Chính trị cổ truyền, của các triều đại Việt Nam không được
quan niệm rộng rãi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của
Trung Hoa thì lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại
giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay vì mở cho chúng
ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu
hao chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại
giao chật hẹp đã đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các
nhà lãnh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại
nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ.
Chính sách chống ngoại xâm.
Cái
họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. Vì sao
những biện pháp cổ truyền, của các nhà lãnh đạo của chúng ta trước đây,
thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng
thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây Phương?
Trước
hết, các biện pháp cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là
một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So sánh
hai khối Trung Hoa và Việt Nam, và như thế, đương đầu phải là mục đích
đương nhiên, thì chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều
cống chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa
bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên
và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên,
những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không hề
được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta.
Lý
do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh
vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết
và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các
triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh,
chúng ta phải nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới
hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn
cũng rất là giới hạn.
Như
vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện
pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến
những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa
các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta.
Tuy
nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ
động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân
dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một
chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề
lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Nếu
ý thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm não của toàn dân, và độc
lập và tự do được mọi người mến chuộng, thì các cường quốc xâm lăng,
dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng
ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí
quật cường của cả một dân tộc.
Nhưng
ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không
làm gì được đối với kẻ xâm lăng. Vì vậy cho nên, đồng thời với những
biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo
dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lãnh đạo, và, điều
này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lãnh đạo
quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế,
những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt
người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm
lăng.
Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lý luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng.
Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.
Để
chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao.
Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu
hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân,
phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh
đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Sự
thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài
không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi
vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc
rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi
người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển dễ đặt
để, và dễ sử dụng như một khí cụ.
Bản
chất của môt chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo
quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các
vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc
bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.
Hơn
nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn
tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi người, thì, tự nó, một
chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm.
Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét
người lãnh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như
là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch
sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có
những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm.
Riêng
về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự
xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà
Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đã nuôi dưỡng
được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc
gia và dân tộc trong nhân dân.
Ngược
lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông
Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn Thanh, đều
nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của
toàn dân.
Và
vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia là vấn đề
chính thể của nước Việt Nam. Vì những lý do trình bày trên đây, chính
thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa
chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân
triết lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và
lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của dân tộc.
Nếu
bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như thế nào,
thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không
thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất
rõ rệt.
Tóm lại theo ông Nhu, muốn thoát khỏi hiểm họa xăm lăng của Trung Hoa, chúng ta phải theo đuổi 3 biện pháp sau đây:
Biện pháp ngoại giao.
Việt
Nam cần phải có một sách lược ngoại khôn khéo, biết khai thác những mâu
thuẩn giữa các cường quốc, các thế lực của các liên minh khu vực như
khối ASEAN, khối Liện Hiêp Âu Châu…vì ngày nay theo khuynh hướng toàn
cầu hóa của thế giới, thì ảnh hưởng kinh tế của các quốc gia trên thế
giới cỏn có một tác động quyết định tới sự sồng còn đối với Trung Cộng,
hơn là 30 hay 40 chục năm trước đây.
Ngày
nay, sự mâu thuẩn và tranh chấp giữa các cường quốc không còn gay cấn
như thời chiến tranh lạnh, nhưng một quốc gia như Trung Cộng với một dân
số hơn 1.3 tỉ người, chiếm tỉ lệ 19.64% dân số thế giới, đang vươn vai
đứng dậy với tham vọng làm một cường quốc bá chủ Á Châu. Đó không những
là một đe dọa riêng rẽ cho khu vực Á Châu Thái Bình Dương mà còn là một
hiểm họa chung cho cả thế giới nữa. Trước đây gần 50 năm, ông Nhu cũng
đã đề cập đến vấn đề này,
Không
phải tình cờ mà ông Paul Reynaud, cựu Thủ Tướng Pháp trong cuộc viếng
thăm nước Nga đã long trọng tuyên bố với Thủ Tướng Krutchev. “ Nếu các
ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân
Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu Châu”. (Tr. 157)
Trong
tháng 9. 2009 vừa qua, nhà cầm quyền Hà Nội, đã cử Tướng Phùng Quang
Thanh, sang Tân Gia Ba để ký Hiệp Ước Hợp Tác Quốc Phòng, Tổng Bí Thư
Nông Đức Mạnh đến Úc Châu, và Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm đến Hoa Kỳ,
bí mật thảo luận về vấn đề an ninh lãnh thổ, phải chăng là thái độ nước
đến chân mới nhảy, như hai phái đoàn của các vua chúa Triều Nguyễn ngày
xưa, chúng ta thử nghe ông Nhu biện giải:
Sau
khi Trung Hoa bị tấn công, thì lúc bấy giờ phản ứng của chúng ta là vội
vã gửi hai phái bộ sang Pháp và Anh, mà không có một sự chuẩn bị ngoại
giao nào cả. Lối gởi phái bộ như vậy là lối gởi phái bộ sang Tàu xưa
nay. Và sự gởi hai phái bộ sang Pháp và Anh, theo lối gởi phái bộ sang
Tàu xưa nay, lại càng làm cho chúng ta nhận thức, một cách rõ rệt hơn
nữa, quan niệm ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ mang nặng ‘tâm lý
thuộc quốc’ [đối với Tàu], đến mức độ nào.(tr. 181).
Lẽ
ra, các nhà lãnh đạo Hà Nội phải tích cực hơn, phải khôn khéo hơn, nếu
không dám công khai, thì ít ra cũng phải bí mật, vận động giới truyền
thông thế giới, cảnh báo và vận động dư luận thế giới, trước hết là các
quốc gia ở vùng Đông Nam Á Châu, rồi đến Nga Sô, Liên Hiệp Âu Châu và
các quốc gia Á Phi biết về hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng. Điều rõ
ràng nhất hiện nay, là các quốc gia trong vùng như Úc, Tân Gia Ba, Thái
Lan, Nam Duong9 và Mã Lai Á [5], đều gia tăng ngân sách cho tài niên
2009 về Không lực và Hải quận gấp bội, nhằm đối đầu với âm mưu bành
trướng của Trung Cộng. Nghĩa là các quốc gia này đều bắt đầu lo sợ về sự
lớn mạnh của Trung Cộng, nhưng chưa có một vận động quốc tế nào nhằm
qui tụ những nỗ lực này thành cụ thể và tích cực để ngăn chặn sự bành
trướng đó. Việt Nam là nạn nhân trước hết và trực tiếp của nguy cơ này,
phải biết dồn hết nỗ lực về mặt trận ngoại giao, phải vận động, công
khai hoặc bí mật, tất cả các quốc gia trên thế giới nhận thức sâu sắc
được mối hiểm họa nghiêm trọng này và khi tạo được sự đồng thuận của đa
số… Việt Nam vận động đưa vấn đề này ra Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, dù
biết rằng hiện nay Trung Cộng là 1 trong 5 hội viên thường trực của Hội
Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, mọi nghị quyết của Đại Hội Đồng. Nhưng
vấn đề chủ yếu của Việt Nam là chính thức công khai đưa ra trước Liên
Hiệp quốc một hiểm họa thực sự nghiêm trọng của toàn thế giới, để kiếm
tim một hổ trợ quốc tế tích cực nhằm ngăn chặn âm mưu xâm lăng từ Trung
Cộng. Hơn nữa, Việt Nam cũng phải biết vận động và nỗ lực đưa vấn đề này
ra trước Tòa Án Quốc Tế ở The Hague (International Court of Justice at
The Hague). Mục đích không phải là tìm kiếm một phán quyết của tòa án
này cho vần đề tranh chấp, nhưng trọng điểm của nỗ lực này là tạo nên sự
chú tâm theo dỏi của dư luân quốc tế về một hiểm họa chung của thế giới
Chúng
ta còn nhớ, khi muốn lật đỗ chinh quyền Ngô Đình Diệm, Nhóm chống Tổng
Thống Diệm trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã vận dộng các quốc gia Á Phi đưa
vấn đề được báo chí Hoa Kỳ thời đó gọi là Đàn Áp Phật Giáo và Vi Phạm
Nhân Quyền tại Việt Nam, ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, chuẩn bị
dư luận trước ở các quốc gia Á Phi cho việc thay đổi chính phủ tại miền
Nam, trước khi âm mưu tổ chức đảo chánh ở Sài Gòn, để khỏi gây nên những
ảnh hưởng tiêu cực tại các quốc gia đó đối với chính sách ngoại giao
của Mỹ. Nhưng ông Nhu và Gs. Bửu Hội[6] đã phá vỡ âm mưu này bằng cách
chính thức mời Liên Hiệp Quốc cử một phái đoàn đến Việt Nam điều tra tại
chổ, trước khi đưa vấn đề này ra thảo luận tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp
Quốc. Rồi khi phái đoàn này đến Việt Nam điều tra và hoàn thành một bản
phúc trinh dày gần 300 trang, với kết luận là không có đàn áp Phật Giáo
tại Việt Nam, thì Bộ Ngoai Giao Hoa trở nên lúng túng, sợ rằng nếu đưa
vấn đề này ra thảo luận tại Liên Hiệp Quốc sẽ làm giảm uy tín của Hoa kỳ
và tạo cơ hội cho Trung Cộng tấn công Hoa kỳ đã xen vào nội bộ của Việt
Nam và đã tổ chức đảo chánh ở Saigon, nên cử Cabot Lodge vào đầu tháng
12. 1963, liên lạc với Sir Senerat Gunaewardene của Tích Lan, là trưởng
phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc lúc đó, đừng đưa bản phúc trình
này ra thảo luận tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc nữa, và Sir Senerat đã đồng
ý làm điều đó như một ân huệ cá nhân của ông dành cho Lodge
(Gunawardene agreed to do so as a personal favor to Lodge), vì trước đây
khi làm Đại Sứ Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Lodge là bạn của ông.[7]
Như
vậy, chúng ta thấy đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, họ cỏn biết vận
dụng Diễn Đàn Liên Hiệp Quốc hỗ trợ cho những mục tiêu chính trị của họ.
Tại sao Việt Nam đứng trước một hiểm họa đe dọa sinh tử đến vận mạng
của cả dân tộc, chúng ta lại không vận động để tìm hậu thuẩn của thế
giới để bảo vệ nền độc lập của chúng ta ?
Nhưng
thực tế, chúng ta rất đau lòng, khi thấy, các nhà lãnh đạo Hà Nội, về
phương diện ngoại giao, đã đánh mất rất nhiều cơ hội lịch sử quí báu, để
khôi phục độc lập cho dân tộc và phát triển quốc gia. Đó là cơ hội của
những năm 1945, 1954, 1973 và 1975. Thực vậy, nếu ngày xưa các vua chúa
Triều Nguyễn, vì quá tin tưởng vào văn hóa Trung Hoa đã trở nên tự tôn
và thiển cận, thì ngày nay các nhà lãnh đạo Hà Nội cũng quá sùng bái chế
độ Cộng Sản và quá tin tưởng vào lý luận giai cấp đấu tranh, đã trở nên
mù quáng, xem mọi người đều là kẻ thù, nên chưa bao giờ họ có thể đề ra
một chính sách ngoại giao khoáng đạt và lương hảo, còn về phương diện
quốc nội họ cũng không có đủ cởi mở, để thực tâm mời những thành phần
khác biệt chính kiến, thành lập một chính phủ đoàn kết để phất triển
quốc gia. Trái lại, họ chỉ có những thủ đoạn chính trị gian trá và xão
quyệt để lừa dối đối phương, để rồi cuối cùng là tiêu diệt đối phương.
Điều này chứng tỏ hết sức rõ rệt khi nhìn về lịch sử Việt Nam Cận và
Hiên Đại. Năm 1946, Cộng Sản dùng chiêu bài chính phủ Liên Hiệp, để tiêu
diệt phe Quốc Gia, rồi năm 1954, ký hiệp định Genevea, chưa ráo mực, họ
đã vi pham hiệp định này, bằng cách gài lại hơn 70,000 cán bộ tại miền
Nam với âm mưu khuynh đảo chính quyền Quốc Gia Việt Nam. Đến năm 1973,
một lần nữa, họ đã lừa phỉnh để tiêu diệt phe quốc gia dưới chiêu bài
mới là Hòa Hợp và Hòa Giải Dân tộc. Còn đối với quốc tế, khi ký hiệp
định Paris, họ long trọng cam kết để nhân dân Miền Nam hoàn toàn tự do
quyết định vận mạng của mình. Ngay sau đó, khi người Mỹ, theo đúng cam
kết của hiệp định này, rút khỏi miền Nam, thì họ đem quân xóa sỗ chinh
phủ Sài Gòn…Với một những phương cách gọi là liên hiệp, hợp tác và một
lịch sử bang giao đầy phản trắc và gian trá như vậy, ai còn có thể tin
tưởng vào Hà Nội để hợp tác hữu nghị. Do dó, từ ngày cướp chính quyến
tại Hà Nội vào tháng 8 năm 1945 đến nay, các nhà lãnh đạo miền Bắc bị
đuôi mù bởi lý thuyết Mác-Lênin và Mao Trach Đông, theo đuổi một chế độ
độc tài phi nhân, tàn sát và thủ tiêu các thành phần bất đồng chính
kiến, đầy đọa toàn dân trong cảnh nghèo đói, thất học, thù hận và bắn
giết lẫn nhau. Còn về phương diên quốc tế, vì thiếu hiểu biết và chỉ
biết quyền lợi của phe nhóm, nên họ đã liên kết với Trung Cộng và Liên
Sô, để đưa toàn thể dân tộc vào một cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm.
Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt nhất trong lich sử nhân
loại. Thực vậy, lâu dài nhất vì cuộc Thế Chiến I, chỉ có 4 năm, từ
1914-1918, Thế Chiền 2, chỉ có 6 năm, từ 1939-1945, và khốc liệt nhất,
vì số bom đạn được sử dụng trong chiến trường Việt Nam gấp 2.5 số bom
đạn dùng trong Thế Chiến 2. Nhưng điều tệ hại hơn nữa, khi nhận viện trợ
từ Trung Cộng để đánh Mỹ cũng là lúc họ đã thực sự rước họa xâm lăng từ
phương Bắc vào Việt Nam.
Đối
với những nhà lãnh đạo có một não trạng bệnh hoạn như vậy làm sao có
được một viễn kiến chính tri sâu sắc, một chinh sách ngoại giao khoáng
đạt và biết khai thác những mâu thuẩn quốc tế để kiếm tìm nhũng đồng
minh hữu hiệu, để rồi cùng với sự hỗ trợ tích cực của toàn dân trong
nước, nhằm tạo thành một sức mạnh dũng mãnh để chống lại hiểm họa xâm
lăng của Trung Công.
Biện Pháp Quân Sự
Hiện
nay, Việt Nam có một đội quân khoảng 450,000 người. Đây là một lực
lượng quân sự lớn nhất so với các quốc gia tại Đông Nam Á hiện nay.
Nhưng vấn đề đặt ra liệu quân nhân dưới cờ còn có tinh thần để hy sinh
và chấp nhận gian khổ để chiến đấu nữa hay không? Khi chính họ chứng
kiến những thực trạng xã hội quá phũ phàng trước mắt, trong khi các lãnh
tụ của họ tìm mọi cách để vơ vét tài sản quốc gia cho cá nhân, gia đình
và phe nhóm, còn tuyệt đại đa số dân chúng, trong đó có cả các gia đinh
bộ đội Cộng Sản, bị bóc lột, sống trong cảnh khốn cùng nhất, chưa từng
thấy trong lịch sử cận đại Việt Nam, từ trước tới nay, nghĩa là còn cơ
cực hơn thời Thực Dân Pháp đô hộ đất nước chúng ta. Nhưng sau hết và mấu
chốt hơn hết, vẫn là vấn đề các nhà lãnh đạo Hà Nội có còn ý chí để
chiến đấu nhằm bảo vệ tổ quốc chống lại họa ngoại xâm nữa hay không?
Chúng ta hơi bi quan, khi nghe lời bình luận của Carl. Thayer, một
chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, tại Học Viện Quốc Phòng Hoàng Gia
Dantroon của Úc. có lẽ bây giờ các nhà lãnh đạo Hà Nội đã trở nên quá
giàu có, họ muốn được yên thân để bảo vệ tài sản và gia đình của họ
hơn.. cho nên việc mất thêm một vài hải đảo xa xôi như Hoàng Sa và
Trường Sa, mất thêm một ít lãnh thổ và lãnh hải ở phía Bắc không còn là
vấn đề quan trọng với họ nữa!
Biện Pháp Chính Trị
Đó là nuôi dưỡng tinh thần độc lập, tự cường, tự chủ cùng ý thức quốc gia và dân tộc. Ông Nhu đã biện giải vấn đề này như sau:
Tuy
nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ
động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân
dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một
chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề
lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Và
sau cùng ông Nhu đã đi đến kết luận, muốn thắng hiểm họa xâm lăng của
Trung Cộng một chính thể chuyên chế hay độc tài như Hà Nội hiện nay,
không thể nào thành công được.
Trong
khi đó, chúng ta đều biết rằng hiện nay thế giới đang chứng kiến những
thay đổi khốc liệt nhất, đặc biệt là trong lãnh vực tin học và khoa học
kỹ thuật, còn trong lĩnh vực chính trị ngoại giao, như Tổng Thống Obama,
cũng kêu gọi, một sự hợp tác và hòa giải giữa các quốc gia, để đẩy lùi
bóng tối của chiến tranh và nghèo đói, nhằm kiến tạo một kỷ nguyên hữu
nghị, hợp tác, hòa bình và thịnh vượng cho toàn thế giới, thì các nhà
lãnh đạo của Hà Nội vẫn giữ nguyên bản chất của Cộng Sản là độc quyền
lãnh đạo, độc tài toàn trị và để cũng cố chính quyền chuyên chế, họ
thẳng tay đàn áp đối lập, các giáo hội tôn giáo chân chính, áp dụng
chính sách đầy đọa người dân trong cảnh nghéo đói, chậm tiến và thất
học… để trong nước không còn ai có thể chống đối lại họ được.
Với
những kiểm điểm sơ lược trên đây, chúng ta đều thấy trước rằng, nếu dân
tộc chúng ta không còn cơ may để thay đổi thành phần lãnh đạo tại Bắc
Bộ Phủ, thi vấn đề Việt Nam nội thuộc nước Tàu chỉ còn là vấn đề thời
gian.
Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu
0 comments:
Post a Comment