Có
khả năng cao Việt Nam đã bị “Phần Lan hóa” qua mật ước Thành Đô. Và
Việt Nam, như một dân tộc, chỉ có thể tự thoát khỏi quỹ đạo Trung Cộng
tức tránh khỏi nạn bị “Phần Lan hóa” bằng (1) dân chủ trước Trung Cộng,
(2) đoàn kết dân tộc để vượt thoát và thăng tiến, (3) chủ động chiến
lược hóa vị trí quốc gia trong tranh chấp Thái Bình Dương, (4) sát cánh
với láng giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin cậy như đã
trình bày trong chính luận Để thắng được Trung Cộng...
*
Trong bài viết Việt Nam đối diện với việc “Phần Lan hóa” từ Trung Quốc (Vietnam Faces ‘Finlandization’ from China) cuối tháng Năm vừa qua trên báo Asiasentinel, David Brown, một cựu nhân viên ngoại giao Mỹ, viết: “Như
vậy, trong khi Washington dường như đã sẵn sàng vẽ một lằn ranh quanh
Nhật Bản, Hàn Quốc và cũng có thể Singapore và eo biển Malacca, Hải quân
Hoa Kỳ đang từ bỏ việc đương đầu tại một khoảng xa cách từ bờ biển Việt
Nam.” Tác giả viết tiếp “Điều đó có thể được hiểu rằng, Mỹ đang dự định chấp nhận nhìn Việt Nam bị “Phần Lan hóa”.
Tháng 9 năm 2010, trong một bài viết trên tờ Wall Street, Andrew Krepinevich,
Chủ tịch Trung tâm Định ước Ngân sách và Chiến lược (the Center for
Strategic and Budgetary Assessments) cũng cảnh báo Trung Cộng đang tiến
hành “Phần Lan hóa” Thái Bình Dương: “Liên Xô chưa bao
giờ thành công “Phần Lan hóa” Châu Âu. Nhưng sự đe dọa vừa trở lại từ
phía Trung Cộng, quốc gia này đang cố gắng “Phần Lan hóa” Tây Thái Bình
Dương. Cách phát triển quân sự của một quốc gia mở ra cánh cửa cho thấy ý
định của nó, và Trung Cộng rõ ràng đang tìm kiếm để gây hiệu quả tuần
tự nhưng quyết định vào cán cân quân sự Mỹ-Trung. Mục đích của Trung
Cộng là ngăn chận Mỹ trong việc bảo vệ các quyền lợi lâu dài trong khu
vực – và để lôi kéo các đồng minh dân chủ của Mỹ vào quỹ đạo của nó.”
Trong chính luận Tranh chấp Mỹ-Trung, một cảnh giác cho lòng yêu nước
trên talawas hơn bốn năm trước, người viết cũng có bàn tổng quát về
trường hợp các quốc gia như Thổ Nhĩ Kỳ và Phần Lan. Để có thể tồn
tại trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh các nước này đã phải áp dụng nhiều
chiến lược đối ngoại và đối nội khác nhau. Trong lúc Thổ Nhĩ Kỳ chủ
trương cứng rắn chống Liên Xô, đứng hẳn về phía Tây phương, Phần Lan chủ
trương các chính sách đối ngoại và đối nội nhượng bộ Liên Xô. Người
viết cũng đã phân tích chọn lựa của Thổ Nhĩ Kỳ trong chính luận Hiểm họa Trung Cộng và bài học Thổ Nhĩ Kỳ cách đây hai năm và lần này bàn đến trường hợp Phần Lan.
Với chủ trương bành trướng Nga Hoàng của Vladimir Putin và ngọn lửa
chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán của Tập Cận Bình đang cháy rộng, khái
niệm “Phần Lan hóa” lại lần nữa được nhắc nhở khá nhiều: “Phần Lan hóa” Ukraine, “Phần Lan hóa” Đài Loan và cả khả năng “Phần Lan hóa” Việt Nam.
Trước khi bàn đến việc liệu Việt Nam có thể sẽ bị “Phần Lan hóa” với sự thỏa thuận ngầm của Mỹ như David Brown phân tích hay thực tế đã bị “Phần Lan hóa”
sau mật ước Thành Đô, cần tìm hiểu các điều kiện địa lý chính trị, lịch
sử và quốc phòng của Phần Lan trong quan hệ với Liên Xô trước và sau
Thế chiến thứ hai cũng như sự ra đời của khái niệm này.
“Phần Lan hóa” là gì?
“Phần Lan hóa” (Finlandization) có nghĩa “để trở nên Phần
Lan” là một khái niệm chính trị để chỉ ảnh hưởng của một cường quốc trên
các chính sách đối nội, đối ngoại và quốc phòng của một quốc gia láng
giềng nhỏ, bị cô lập, không phải là thành viên của một liên minh quân sự
và không nhận được sự bảo vệ của các cường quốc. Khái niệm vẫn còn
nhiều tranh cãi, mang nặng cảm tính này bắt nguồn từ chính sách của
chính phủ Phần Lan trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh từ 1947 đến 1990 để
đáp ứng với thực tế chính trị và bảo vệ được chủ quyền đất nước, hay vắn
tắt là để tồn tại.
Phần Lan trước Thế chiến thứ hai
Năm 2013 dân số Phần Lan có 5.5 triệu, tuy nhiên trong giai đoạn “Phần Lan hóa” trong
những năm 1940 quốc gia này chỉ có khoảng 4 triệu dân, đa số sống ở các
khu vực miền nam, nhiều nhất tại thủ đô Helsinki và vùng phụ cận. Vì là
một nước quá nhỏ chia sẻ biên giới với các nước lớn nên Phần Lan cũng
gặp nhiều lận đận. Suốt 600 năm, Phần Lan bị Thụy Điển đô hộ. Các viên
chức Thụy Điển được cử đến cai trị Phần Lan. Dù đương đầu với hiểm họa
bị đồng hóa, Phần Lan vẫn giữ được bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và tiếng
nói riêng. Khi phong trào cải cách tôn giáo của Martin Luther lan rộng
đến Thụy Điển và Phần Lan, Tân Ước được dịch sang tiếng Phần Lan và đóng
vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân. Sau chiến
tranh giữa Nga và Thụy Điển vào cuối thế kỷ 17, Nga chiếm Phần Lan.
Năm 1912, vua Nga, Alexander I nâng cấp Phần Lan từ hàng tự trị lên
cấp quốc gia đặt thủ đô tại Helsinki. Cũng vào thời điểm đó tinh thần
quốc gia Phần Lan do Tiến sĩ Johan Vilhelm Snellman nuôi dưỡng, bắt đầu
phát triển mạnh. Để chống lại chính sách đồng hóa của Nga Hoàng, Johan
Vilhelm Snellman kêu gọi người dân Phần Lan tuyệt đối không dùng tiếng
Nga.
Cách Mạng CS Nga 1917 bùng nổ, Phần Lan tuyên bố độc lập. Tuy nhiên
bị ảnh hưởng chính trị Nga, cánh tả trong chính phủ Phần Lan rất mạnh và
thực hiện một cuộc đảo chánh. Quân chính phủ do tướng Gustaf Mannerheim
chỉ huy phản công và đánh bại quân phiến loạn. Phần Lan chính thức trở
thành nước Cộng Hòa năm 1919 với K.J. Ståhlberg là tổng thống đầu tiên.
Biên giới giữa Nga và Phần Lan được công nhận theo hiệp ước biên giới
Tartu ký kết năm 1920. Quan hệ giữa Phần Lan và Liên Xô rất căng thẳng,
và quan hệ giữa Phần Lan và Đức cũng không tốt đẹp gì hơn.
Tháng Tám 1939, Hitler và Stalin ký thỏa hiệp không xâm phạm nhau
trong đó có điều khoản Hitler đồng ý nhường Phần Lan cho Stalin. Khi
Phần Lan từ chối việc cho phép Liên Xô xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh
thổ Phần Lan, Stalin tấn công Phần Lan vào tháng 11 năm 1939. Chiến
tranh Mùa Đông (Winter War) bùng nổ. Tuy Phần Lan thua nhưng đã gây
thiệt hại trầm trọng cho phía Liên Xô. Sau Chiến tranh Mùa Đông (1939)
là Chiến tranh Tiếp Tục (Continuation War) (1941-1944). Trong thời gian
này Phần Lan đứng về phía Đức và đem quân tấn công Liên Xô để chiếm lại
các phần đất bị mất trong Chiến tranh Mùa Đông và nhiều phần đất khác
của Liên Xô. Chính Anh Quốc cũng đã tuyên chiến với Phần Lan năm 1941.
Năm 1944, Phần Lan ký hiệp ước đình chiến với Liên Xô.
Phần Lan sau Thế chiến thứ hai
Tại hội nghị Paris 1946, Đồng Minh ân xá cho Phần Lan và các nước đã
đứng về phía phe Trục như Romania, Bulgaria, Hungary và cho phép các
nước này trở thành hội viên Liên Hiệp Quốc. Phần Lan và Liên Xô ký các
hiệp ước hòa bình lần nữa vào những năm 1947 và 1948. Trong giai đoạn
này Phần Lan quá yếu về khả năng quân sự so với Liên Xô nên đã buộc phải
nhường vùng đất phía nam cho Liên Xô. Đứng trước sự phân cực đang hình
thành trong sinh hoạt chính trị thế giới, Phần Lan đối diện với một thực
tế chính trị thế giới hoàn toàn bất lợi. Đức Quốc Xã, đối trọng với
Liên Xô sụp đổ, không có đồng minh quân sự, bị cô lập về địa lý chính
trị, các quốc gia trong vùng Đông Âu lần lượt trở thành chư hầu CS của
Liên Xô, các quốc gia vùng Baltic như Estonia, Latvia, Lithuania đều bị
sáp nhập hẳn vào Liên Xô. Ưu tiên hàng đầu của chính phủ Phần Lan, vì
thế, bằng mọi giá để khỏi bị trở thành một “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa”
trong Liên Bang Xô Viết.
Quá sợ Liên Xô nuốt sống như trường hợp các nước vùng Balkan, Phần
Lan lấy lòng Liên Xô bằng cách từ chối viện trợ Mỹ trong kế hoạch viện
trợ kinh tế Marshall. Tuy vậy, Phần Lan ngấm ngầm thiết lập quan hệ kinh
tế với Anh, Mỹ và các chính phủ Anh, Mỹ cũng tìm cách yểm trợ Phần Lan
để hy vọng nuôi dưỡng chế độ dân chủ non trẻ tại quốc gia nhỏ ở Bắc Âu
này. Chính sách “Phần Lan hóa” ra đời.
Nội dung của “Phần Lan hóa”:
- Về đối ngoại. Phần Lan theo đuổi một chính sách đối ngoại rất
mềm dẻo, nhân nhượng, không làm mất lòng Liên Xô, trung lập. Liên Xô
trong thực tế không xem Phần Lan như là một nước Trung Lập đúng nghĩa mà
luôn xem quốc gia này phụ thuộc vào các chính sách đối ngoại phát xuất
từ điện Kremlin. Chẳng hạn, khi đại sứ Phần Lan Max Jakobson được đề cử
vào chức vụ Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, Liên Xô chẳng những không ủng hộ
mà còn dùng quyền phủ quyết để bác bỏ vì không muốn thấy một chính
khách Phần Lan đóng vai trò quan trọng trong tổ chức chính trị thế giới.
- Về đối nội. Loại trừ các thành phần lãnh đạo quốc gia có
khuynh hướng chống Liên Xô và ủng hộ các thành phần thân Liên Xô. Theo
tài liệu của CIA, Liên Xô duy trì mối quan hệ mật thiết với các chính
khách thân Liên Xô đứng đầu là Tổng thống Juho Kusti Paasikivi
(1870-1956) và sau đó là Tổng thống Urho Kekkonen (1900-1986). Liên Xô
có quyền phủ quyết các chính sách của Phần Lan và can dự vào nội bộ Phần
Lan qua trung gian đảng CS Phần Lan, Liên Đoàn Dân Chủ Nhân Dân, Quốc
Hội Phần Lan với đa số thuộc cánh tả.
- Về văn hóa giáo dục. Để vừa lòng Liên Xô, Phần Lan áp dụng
chính sách tự kiểm duyệt, tự kiểm soát và thân Liên Xô. Chính phủ Phần
Lan ngăn chận các phương tiện truyền thông có cái nhìn tiêu cực về Liên
Xô. Trên 1700 cuốn sách có nội dung chống Liên Xô trước đó bị xếp vào
thể loại “sách bị cấm”. Các phim ảnh không có lợi cho Liên Xô như The Manchurian Candidate, Day in the Life of Ivan Denisovich v.v... đều không được phép chiếu.
- Về quốc phòng. Hiệp ước Hữu Nghị Hợp Tác Phần Lan-Liên Xô 1948 (Finno-Soviet
Pact of Friendship, Cooperation and Mutual Assistance) quy định Phần
Lan phải có trách nhiệm chống lại các lực lượng thù địch của Liên Xô khi
các lực lượng này tấn công Liên Xô ngang qua ngã Phần Lan và nếu cần sẽ
kêu gọi sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô. Phần Lan không được liên minh
quân sự với một quốc gia thứ ba. Điều này do Liên Xô đặt ra để giới hạn
Phần Lan gia nhập NATO giống như trường hợp Đan Mạch và Na Uy. Trước đó,
trong hiệp ước ký kết giữa hai nước, Phần Lan đã nhường 10 phần trăm
lãnh thổ cho Liên Xô.
Nhắc đến “Phần Lan hóa” không thể bỏ qua vai trò của Tổng
thống Phần Lan Urho Kekkonen, người lèo lái chính sách này trong suốt 26
năm làm tổng thống. Những người phê bình Urho Kekkonen cho rằng ông ta
là con cờ của Liên Xô trong khi những người ủng hộ xem ông như là một
trong những anh hùng của Phần Lan vì đã bảo vệ được chủ quyền Phần Lan
trong một hoàn cảnh chính trị thế giới vô cùng khó khăn.
Công tâm mà nói, trong suốt dòng lịch sử, lãnh thổ Phần Lan là bãi
chiến trường cho các tham vọng bành trướng của Thụy Điển và sau đó là
Nga Hoàng. Sau Thế chiến thứ hai, hầu hết các quốc gia vùng Baltic và
Balkan đề nằm trong quỹ đạo Liên Bang Sô Viết. Lịch sử, văn hóa, ngôn
ngữ của quốc gia này đều bị xóa bỏ. Ý thức được điều đó, mục tiêu hàng
đầu của Kekkonen là bảo vệ chủ quyền Phần Lan, bảo vệ nền Cộng Hòa Phần
Lan bằng mọi giá, không thể để Phần Lan trở thành một xứ tự trị như thời
Nga Hoàng hay một “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” của Stalin. Mặc dù nhân
nhượng Liên Xô rất nhiều trong các lãnh vực chính trị, quốc phòng Phần
Lan cũng có lợi về kinh tế vì Liên Xô là quốc gia nhập cảng lớn nhất sản
phẩm của Phần Lan. Sự sụp đổ của Liên Xô đã gây ra những suy thoái kinh
tế trầm trọng tại Phần Lan. Sau giai đoạn phục hồi, Phần Lan đã phát
triển một cách vượt bực. Ngày nay Phần Lan hội nhập cao vào sự nền kinh
tế thế giới và là một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất thế
giới.
Trở lại với quan hệ Trung Cộng và CS Việt Nam trong cái nhìn so sánh giữa Liên Xô và Phần Lan.
Trung Cộng sau Thiên An Môn
Chính sách đối ngoại của Trung Cộng trong thời gian 1990 nhằm mục
đích thoát khỏi sự cô lập quốc tế và ổn định chính trị nội bộ sau biến
cố Thiên An Môn. Những thành tựu kinh tế của chính sách bốn hiện đại hóa
từ đầu thập niên 1980 đã đạt một số thành tích đáng kể nhưng tất cả đều
rất mong manh, yếu kém. Các cường quốc dân chủ vẫn còn trừng phạt kinh
tế sau khi Đặng Tiểu Bình ra lệnh tàn sát nhiều ngàn sinh viên Trung
Quốc yêu dân chủ tại Thiên An Môn đầu tháng 6, 1989.
Như hầu hết các quốc gia CS, kế hoạch chung của cả nước luôn chế ngự
và đồng thời duy trì tính cân đối của các chính sách đối ngoại cũng như
đối nội trong mỗi thời kỳ. Để thoát khỏi sự cô lập và phục hồi vị trí
của Trung Cộng trong bang giao quốc tế, Đặng Tiểu Bình theo đuổi chính
sách đối ngoại mềm dẻo trong đàm phán biên giới với hàng loạt các nước
lân bang trong đó có Việt Nam. Chính sách của ho Đặng được gọi là chính
sách 20 nét chữ “bình tĩnh quan sát, giữ vững trận địa, bình tĩnh ứng
phó, giấu mình chờ thời” (lengjing guancha, chenzhuo yingfu, wenzhu zhenjiao, taoguang yanghui, yousuo zuowei).
Sự sụp đổ của hệ thống Liên Xô làm Trung Cộng không còn lo ngại vòng
vây Liên Xô từ hướng Việt Nam nhưng lại có mối lo mới nguy hiểm và hùng
mạnh hơn nhiều, đó là Mỹ. Như người viết đã trình bày trong các bài
trước, thời điểm 1990 đối tượng cạnh tranh của Trung Cộng là Mỹ và Nhật
chứ không phải Liên Xô hay chư hầu của nó là CSVN và mục tiêu bành
trướng của họ Đặng không chỉ giới hạn ở các cù lao trên biển, vài ngọn
núi đất ở Hà Giang mà cả Thái Bình Dương. Và để giới hạn sự đe dọa của
Mỹ, Trung Cộng đã làm hòa với CSVN. Hai bên đã mở các cuộc đàm phán vào
năm 1991 và đạt đến thỏa hiệp vào năm 1993 sau mật ước Thành Đô.
Việt Nam sau Liên Xô
Sau khi hệ thống CS tại châu Âu sụp đổ, nền kinh tế của các nước CS
còn lại của khối COMECON trong đó có Lào, Cu Ba và CSVN trở thành đàn gà
mất mẹ. Trong bài bình luận nhân dịp kỷ niệm 20 năm bức tường Bá Linh
đổ, tạp chí The Economist nhận xét chung rằng khi chế độ thực
dân ra đi, các nước cựu thuộc địa ít ra còn hưởng được các phương pháp
quản trị, hệ thống tư pháp và nhiều trường hợp cả ngôn ngữ nhưng chế độ
CS ra đi không để lại gì ngoài nghèo đói, ngục tù và lạc hậu.
Số phận của đảng CSVN như chỉ mành treo chuông. Trong giờ phút sinh
tử đó, lãnh đạo CSVN xem dấu hiệu hòa hoãn của Đặng Tiểu Bình như chiếc
phao giữa biển. Họ vui mừng bám lấy. Dĩ nhiên, với bản chất thâm độc,
đầu óc tính toán của lãnh đạo Trung Cộng, món lễ vật của đàn em CSVN
dâng lên trong ngày quy phục thiên triều lần nữa phải là một lễ vật đắt
giá. Món nợ máu xương từ năm 1979 trở về trước hẳn được Đặng Tiểu Bình
đòi cả vốn lẫn lời.
Hội nghị bí mật tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ
Xuyên diễn ra trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 giữa phía Việt Nam
gồm Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh và phía Trung Quốc gồm Giang
Trạch Dân và Lý Bằng thực chất là lễ cam kết một loại “công hàm” khác,
trầm trọng hơn nhiều so với “công hàm Phạm Văn Đồng”. Chiều ngày 7 tháng
11 năm 1991 tại Nhà khách Chính phủ Điếu Ngư Đài Bắc Kinh, Giang Trạch
Dân tuyên bố “Nhưng chúng tôi hy vọng giữa Trung Quốc và Việt Nam có
thể khôi phục mối quan hệ mật thiết giữa hai Đảng và hai nước do những
người lãnh đạo thuộc thế hệ lão thành xây dựng nên." Họ Giang muốn nhắc nhở lãnh đạo CSVN về thời kỳ mà đảng CSVN thở bằng bình oxyen Trung Cộng trong các thập niên 1950, 1960.
Trung Cộng muốn Việt Nam những gì Liên Xô muốn Phần Lan và nhiều hơn nữa:
- Giống như Liên Xô áp dụng với Phần Lan, Việt Nam phải “trung
lập” trên danh nghĩa. Phần Lan luôn tuyên bố “trung lập” và Liên Xô ủng
hộ vị trí trung lập của Phần Lan nhưng thực chất có quyền phủ quyết hầu
hết các chính sách đối ngoại của Phần Lan. CSVN cũng thế. Họ luôn tuyên
bố “quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi” với mọi quốc gia trên thế
giới nhưng thực chất chỉ “hợp tác” với sự đồng ý của Trung Cộng. Bất cứ
khi nào có dấu hiệu làm trái ý, Trung Cộng sẽ dùng mọi biện pháp hèn hạ
nhất để trừng phạt như trường hợp giàn khoan HD981 vừa qua, bất chấp dư
luận thế giới khinh khi.
- Giống như Liên Xô áp dụng với Phần Lan, các chính sách an
ninh quốc phòng của Việt Nam không được đi ngược với chính sách quốc
phòng của Trung Cộng, không được độc lập trong toàn bộ chiến lược an
ninh châu Á của Trung Cộng. Để thỏa mãn Trung Cộng, Việt Nam theo đuổi
một chính sách quốc phòng “ba không” tự sát: (1) không tham gia các liên
minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3)
không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào
nước này để chống nước kia. Các điều khoản này tương tự các điều khoản
của hiệp ước mà Phần Lan phải ký với Liên Xô năm 1948.
- Giống như Liên Xô đã cướp đất của Phần Lan, CSVN đã chấp nhận
vị trí đặc quyền, đặc lợi của Trung Cộng trong Biển Đông. Như đã viết,
khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm
1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp
giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở
Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa).
Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty
năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí
trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ
lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị
hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.
- Giống như Liên Xô đã áp lực với lãnh đạo Phần Lan, Việt Nam
cũng thực hiện các chính sách tự kiểm duyệt các tin tức gây mất lòng
Trung Cộng, giới hạn các phim ảnh, sách báo có nội dung tiêu cực về chế
độ CS tại Trung Quốc, ngăn chận mọi ý kiến, phản ứng dù rất ôn hòa của
người dân trước các hành động gây hấn, xâm lược lộ liễu của Trung Cộng.
Tháng Sáu vừa qua, các báo VnExpress, Thanh Niên, Người Lao Động, Tiền Phong, Giáo Dục đã phải đồng loạt lấy xuống các hình ảnh và tin tức liên quan đến ngày kỷ niệm Tàn Sát Thiên An Môn. TS Nguyễn Quang A, một trong những thành viên chủ trương Diễn đàn Xã hội Dân sự phát biểu với RFA: “Điều
đó chứng tỏ rằng những thế lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam còn gắn rất
chặt với Trung Quốc. Tôi tin chắc chắn là họ nghe theo lệnh của Bắc
Kinh để họ làm như vậy.”
- Bên cạnh các điểm giống nhau nêu trên, một điểm khác biệt có
tính quyết định đối với tương lai của dân tộc Việt Nam: Trung Cộng quyết
tâm bảo vệ đảng CSVN. Làm gì thì làm, nói gì thì nói, lãnh đạo CSTQ
cũng biết hiện nay chỉ còn năm đảng cầm quyền mang nhãn hiệu búa liềm.
Nắm giữ Việt Nam về mặt lý luận tư tưởng không chỉ để bảo vệ cơ chế mà
còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường hợp cách mạng dân chủ tại
Việt Nam diễn ra trước. Và do đó, bị “Phần Lan hóa” trong quỹ
đạo Trung Cộng cũng có nghĩa ngày nào Trung Cộng còn do đảng CS cai trị
ngày đó nhân dân Việt Nam lại cũng sẽ tiếp tục chịu đựng dưới ách chủ
nghĩa độc tài toàn trị Lê Nin không có Mác. Tổng thống Phần Lan Urho
Kekkonen phải khuất phục Liên Xô chỉ vì để bảo vệ chế độ cộng hòa và chủ
quyền đất nước, lãnh đạo CSVN bám vào chiếc phao Trung Cộng chỉ vì
quyền lực và quyền lợi riêng của đảng CS.
Những phân tích trên cho thấy có khả năng cao Việt Nam đã bị “Phần
Lan hóa” qua mật ước Thành Đô. Và Việt Nam, như một dân tộc, chỉ có thể
tự thoát khỏi quỹ đạo Trung Cộng tức tránh khỏi nạn bị “Phần Lan hóa” bằng (1) dân chủ trước Trung Cộng, (2) đoàn kết dân tộc để vượt thoát và thăng tiến, (3) chủ
động chiến lược hóa vị trí quốc gia trong tranh chấp Thái Bình Dương,
(4) sát cánh với láng giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin
cậy như đã trình bày trong chính luận Để thắng được Trung Cộng.
_____________________________________
Tham khảo:
- “Finlandization” in Action: Helsinki’s Experience with Moscow”, Directorate of Intelligence Report. CIA
- China's 'Finlandization' Strategy in the Pacific, Adrew F. Krepinevich, The Wall Street Journal Sept 11,2010
- Vietnam Faces ‘Finlandization’ from China, David Brown, AsiaSentinel, May 22 2014
- Finland, a country study, Library of Congress, Eric Solsten and Sandra W. Meditz, December 1988
- China's Foreign Relations After Tiananmen: Challenges for the U.S. Robert S. Ross, Allen S. Whiting and Harry Harding, The NBR Analysis, 1990.
- Regime Insecurity and InternationalCooperation, M. Taylor Fravel, International Security, Vol. 30, No. 2 (Fall 2005), pp. 46–83 © by the President and Fellows of Harvard College
- Wikipedia.org The Molotov–Ribbentrop Pact
- Wikipedia.org on Finland
- Mark P. Barry, World Policy
0 comments:
Post a Comment