Monday, October 19, 2015

CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM

BBT.- Từ ngày quyển CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM do nhà xuất bản Đồng Nai Saigon phổ biến 1964 đến nay có nhiều người phê bình cho rằng tác giả quyển sách không phải là ông Ngô Đình Nhu mà là của ông Lê Văn Đồng. Sự hư thực thế nào thì chúng tôi chưa rõ, nhưng hiện tại trong tay chúng tôi có 3 bản, khổ bìa và giấy khác nhau. Gần đây nhứt, tiến sĩ Lê Tinh Thông cho xuất bản tại Cali và đã được gửi bán tại Âu châu trong ngày Lễ giổ Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào hàng năm. Tiếc rằng trong ấn bản không có một hình ảnh nào của Ngô Đình Nhu. Trong khi đó, có 2 ấn bản khổ lớn lại có nhiều hình ảnh tác giả, ngay từ trang đầu. Có lẽ vì vậy, nên nhiều người ganh ghét muốn hạ thấp tư thế tác giả mà cho rằng tác giả quyển sách là ông Lê Văn Đồng. Chúng tôi mong rằng các nhà xuất bản sau nầy nên tìm cách chấn chỉnh cho đúng sự thật.
Trang đầu của một ấn bản có nhiều hình ảnh tác giả Ngô Đình Nhu
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu bài phân tích của tiến sĩ Phạm Bình Thuận về quyển Chính Đề Việt Nam.


CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
‘’HY VỌNG có hai nữ tử xinh đẹp, tên của họ là ‘SỰ NỔI GIẬN’ và ‘LÒNG CAN ĐẢM’: Nổi Giận trước cảnh huống đang diễn ra trước mắt và Can Đảm để chân nhận rằng cảnh huống này không tiếp tục được nữa’’. St. Augustine
.Những Bài học Thực Tiễn Vượt Thời Gian nhằm Định Hướng Hành Trình cho DânTộc qua Phân Tích và Suy Luận từ Thực Tế Lịch Sử của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu Chẳng phải bắt nguồn từ một cảm xúc hoài cổ lãng mạn, càng không phải là một động cử thời thượng nhằm khơi lên tính hiếu kỳ nhất thời của người đọc, nhưng từ một thúc bách đơn giản thâm sâu khiến chúng tôi viết lên những dòng này, như một cố gắng phủi bớt lớp bụi mờ thời gian, nhằm trình bày những nét óng ả trân quý bàng bạc ẩn tàng trên từng trang giấy của công trình nghiên cứu này. Đây là công trình biên khảo của ông Ngô Đình Nhu được hoàn tất vào những năm đầu của thập niên 60. Mặc dù bị vùi lấp dưới giòng thời gian gần một phân nửa thế kỷ, do nhiều điều kiện khách quan và chủ quan, nhưng Bộ Tài Liệu này vẫn giữ được những giá trị nguyên thủy của những suy luận không thể chối cãi được. Điều va động mạnh nhất vào tư duy của người đọc là những tiên liệu chính xác của tác giả về các diễn biến lịch sử trên thế giới trong nửa thế kỷ vừa qua, dựa trên phương pháp phân tích từ ‘’vị trí thực tế lịch sử’’.
.Đây cũng chính là phương pháp phân tích được sử dụng rất rộng rãi bởi các cố vấn chính trị hiện đại trên chính trường Hoa 1 CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM Xin đơn cử một vài ví dụ từ phân tích của tác giả:
.’'Như vậy, thuyết cộng sản đối với Nga chỉ là một phương tiện và ngày nào mục đích đã đạt được, phương tiện sẽ không còn giá trị nữa. Các biến cố hiện tại ở Âu Mỹ chứng tỏ rằng Nga sắp đến lúc bỏ phương tiện cộng sản và trở về với xã hội Tây phương. Những sự tiếp xúc của Tòa Thánh La Mã với các lãnh tụ Giáo Hội Nga là một trong những cố gắng để đưa Nga Sô về xã hội Tây phương. Và ngày đó sự tranh chấp quyết liệt giữa cộng sản và Tư Bản, như ngày nay, sẽ tự tiêu và nhường chỗ cho một cuộc tranh chấp khác quyết liệt hơn hiện nay đã bắt đầu thành hình giữa khối Trung Cộng và khối Âu Mỹ’’. (trang 29)
.Điều va động tư duy kế đến là kỹ năng vận dụng của tác giả từ các bài học trong lịch sử, có khi từ hàng trăm năm trước, mà áp dụng vào các chính sách và chiến thuật đương thời của quốc gia. Một ví dụ điển hình là Quốc Sách Ấp Chiến Lược:
.Từ khái niệm, lược đồ cho đến kỹ thuật và phương tiện: Đê hào đắp bằng đất, lũy nhiều tầng dựng lên bằng tre chẻ, chông bằng tre vót nhọn, là được chiết xuất từ binh kế chống Trung Hoa ngoại xâm của Lý Thường Kiệt.
.Sau cùng, sự va động thâm trầm nhưng lan tỏa và bao trùm suốt mọi mạch văn trong toàn hệ tư tưởng của Bộ Tài Liệu là ý chí sắt thép (một mất một còn) chống Tàu cộng bành trướng.
.Tác giả đã vẽ lên một viễn ảnh đen tối nếu Miền Nam rơi vào tay Bắc Việt, thì sự kiện Tàu cộng xâm chiếm Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Điều này càng ngày càng được minh chứng rõ ràng qua những biến chuyển tại Việt Nam được phô bày trong những ngày gần đây: Văn kiện do ông Thủ Tướng Phạm văn Đồng ký nhằm công nhận Hoàng Trường Sa thuộc về Trung Cộng, và các sự kiện liên quan đến vấn đề nhường đất tại biên giới: Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc...
.Cũng từ lý do đó mà tác giả đặc biệt ngưỡng mộ hai Vị Đại Anh Hùng Dân Tộc là Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ do ý chí của Hai Vị nhằm đột phá não trạng thuộc quốc của Tàu đã bám rễ trong cấp lãnh đạo Việt Nam, trải dài hàng ngàn năm trong lịch sử Đất Nước.
.Trong khung cảnh eo hẹp của đoản văn thô thiển này, chúng tôi cố gắng cô đọng tư tưởng của tác giả và giữ gìn phấn khí nồng cốt của những mạch văn chính. Chúng tôi ước mong mỗi một đọc giả đều có cơ hội tiếp cận với toàn bộ bản văn để tạo sự giao lưu những phản hồi sau dó, nhằm bồi đắp và phong phú hóa kinh nghiệm học hỏi này.
.Nhận thấy hầu hết mọi phương pháp phân tích từ công trình nghiên cứu này vẫn có thể được tham khảo để áp dụng vào các hoàn cảnh cụ thể của Đất Nước trong tình hình hiện nay, chúng tôi trân trọng giới thiệu Bộ Tài Liệu này như là một phương thế nhằm trao đổi, học hỏi và chiết xuất các phương án cho tương lai.
.A. Bố cục của Bộ Tài Liệu: Để dễ dàng cho người đọc chúng tôi xin trình bày Mục Lục tóm lược ở đây:
MỤC-LỤC Bối Cảnh của Vấn Đề
Phần I: Nhận Định về Thế Giới
Phần II: Vị Trí của Việt Nam trong Khung Cảnh vừa Trình Bày
Phần III: Điều Kiện Nội Bộ 2 CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
Phần IV: Một Lập Trường Thích Hợp Với các Nhận Xét Trên
ĐỂ KẾT LUẬN: Trụ mà không trụ.
B. Những Phác Họa Thô Sơ: Vị Trí của Tác Giả: Đây là định điểm mấu chốt cho toàn bộ tư tưởng trong ‘’Chính Đề Việt Nam’’. Tác giả muốn khẳng định ngay từ phút ban đầu:
‘’Vị trí thứ nhứt là một vị trí lúc nào tác giả cũng sẽ đứng vào để nhìn tất cả các vấn đề trình bày: Đó là vị trí thực tế lịch sử. Bởi vì thực tế lịch sử không có thể phủ nhận được. Và trên nền tảng vững chắc đó mới có thể lấy óc khoa học mà suy luận không sợ phạm vào những lỗi lầm căn bản.
Vị trí thứ hai là vị trí không bao giờ tác giả dám đứng vào để nhìn bất cứ vấn đề nào được trình bày: Đó là vị trí triết lý, tôn giáo, và lý thuyết là những lãnh vực mà sự đối chọi giữa hai chủ trương trái ngược có thể kéo dài vô cùng tận.
.Bất cứ trong lãnh vực nào của đời sống của cộng đồng: Chính trị, văn hóa, và kinh tế, sự nhận xét phân tách và suy luận của tác giả đều căn cứ trên những sự kiện lịch sử và để một bên tất cả các lý thuyết’’. (trang 22) Chính vì thế mà tác giả đã can đảm xác định rằng: ‘’Bởi vì mấy trăm trang dưới đây là một tài liệu nghiên cứu sự kiện thực tế của lịch sử. Mà thấy được thực trạng của vấn đề, biết mình và biết chung quanh mình là một yếu tố quyết định cho sự thắng lợi. Chính vì lập trường nghiên cứu sự kiện thực tế của lịch sử, cho nên tự ti mặc cảm tuyệt nhiên không có, khi nhận xét rằng Việt Nam là một quốc gia nhỏ và yếu. Nhỏ và yếu vì dân số, vì kinh tế kém mở mang, và vì sự góp phần vào văn minh nhân loại. Và chính là khi chúng ta dám nhìn thẳng vào thực trạng của dân tộc, chúng ta mới đủ điều kiện đưa dân tộc vượt lên’’. (trang 23)
.Và sau đây là một xác quyết táo bạo của tác giả: ‘’Và cũng vì lý do trên mà tài liệu này không đề cập đến bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc, lại chỉ nói đến một ngàn năm lịch sử. Cũng như trên làm nư vậy không phải vì tự ti mặc cảm. Những gì trong lịch sử của chúng ta chỉ có một ngàn năm sau này mới có đủ tài liệu đích xác để làm nền tảng cho suy luận’’. (trang 24)
.Dẫn Nhập: Bối Cảnh của Vấn Đề: ‘’Nước Việt Nam là một nước nhỏ, nhỏ về dân số, nhỏ về lãnh thổ, nhỏ về kinh tế kém phát triển, và nhỏ về sự góp phần của chúng ta vào văn minh nhân loại. Trong suốt phần lịch sử nhân loại mà chúng ta được biết tới ngày nay, số phận của các quốc gia nhỏ, từ xa vẫn không thay đổi. Lúc nào các quốc gia nhỏ cũng phải bị chi phối bởi những trận phong ba bão táp vô trách nhiệm do các nước lớn gây ra. Và lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa liên tục của một cuộc ngoại xâm. Từ ngày lập quốc, hơn một ngàn năm lịch sử đã chứng minh rằng Việt Nam chúng ta không thoát ra ngoài vận mạng thông thường đó. Hết phải chống Bắc, rồi phải chống Tây, rồi lại phải chống Bắc. Liên tục và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa dân tộc Việt Nam’’. (trang 9) Nhận định này vẫn hoàn toàn chính xác cho tình hình Đất Nước hiện nay. Hiểm họa ngoại xâm của Tàu cộng bành trướng là vấn đề nhức nhối nhất hiện nay cho mỗi một công dân có ý thức, trong nước cũng như ở hải ngoại. Thể lực bành trướng của Tàu cộng đang hoành hành trên Đất Nước chúng ta. Thế lực này ngày càng nguy hiểm và cực kỳ tinh vi và đã đạt đến địa vị thống trị trong bộ máy cai trị toàn dân. Từ chiêu bài cộng sản quốc tế và ẩn núp dưới mọi lớp áo của chủ nghĩa giải 3 CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM Qua thời gian, Tàu cộng bành trướng đã thành công trong việc tập trung quyền hành tuyệt đối vào một bộ máy cai trị, đó là bộ chính trị của đảng cộng sản Việt Nam. Ngày nay, bộ máy cai trị này bao gồm mười bốn quan thái thú tuyệt phẩm mang danh hiệu ủy viên bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Họ nắm mọi quyền sinh sát trong tay và tận hưởng mọi đặc quyền đặc lợi của quốc gia. Nhưng họ phải tuyệt đối thỏa mãn các yêu sách bành trướng của Tàu cộng. Từ bộ chính trị trung ương này, như hình hài của một con bạch tuộc, các cánh tay vòi hút vươn ra khắp mọi miền Đất Nước, qua hệ thống với danh xưng đảng ủy: Từ thành phố đến thôn quê, từ trung ương đến mỗi địa phương. Đây là hệ thống quyền lực tối cao nhất bao trùm mọi miền Đất Nước, mọi cơ chế Nhà Nước khác chỉ là bộ áo ngoại vi nhằm làm trơn tru nhịp nhàng các động cử của đảng xuất phát từ trung ương. Ngoài tác dụng bùng nhùng hành chính cố ý để che đậy và luồn lách cho đảng, các cơ chế Nhà Nước còn có vai trò hứng đỡ sức ép từ quần chúng nhân dân trong những trường hợp cấp thiết. Khái quát như thế để chúng ta thấy rằng trong thâm sâu, đảng cộng sản Việt Nam qua đầu máy bộ chính trị trung ương ngày càng tỏ lộ rõ ràng là một công cụ tinh vi xuất sắc phục vụ đắc lực cho thế lực Tàu cộng bành trướng. Trong tình hình hiện nay của Đất Nước, khi chúng ta nói tới ‘’thế lực ngoại xâm’’ hay ‘’thế lực Tàu cộng bành trướng’’ thì đảng cộng sản Việt Nam với bộ mặt và danh ư- ng bộ chính trị trung ương cùng với hệ thống đảng ủy là một bộ phận của thế lực này. Trong chiêu sách dùng người bản quốc cai trị người bản quốc để phục vụ kế hoạch bành trướng, Tàu cộng đã thành công lớn tại Việt Nam nhờ vào sự phối hợp của đảng cộng sản Việt Nam. Điều này không khó để nhận ra. Lịch sử đã cung cấp các văn kiện quan yếu đó, như quyết định của ông Thủ Tướng Phạm văn Đồng công nhận lãnh hải 12 hải lý của Tàu cộng để nhường biển và các Quần Đảo Hoàng-Trường Sa và việc cắm lại các cột mốc biên giới vừa qua nhằm nhường đất cho Tầu cộng. Nên lưu ý, đây chỉ mới là giai đoạn đầu của một kế hoạch lớn sẽ được dần hồi triển khai qua từng thời kỳ. Hiểu như thế thì việc phân tích và giới thiệu công trình nghiên cứu ‘’Chính Đề Việt Nam’’ lại có ý nghĩa thực dụng sâu sắc rộng lớn. Tác giả của Bộ Tài Liệu tiếp tục: ‘’Để duy trì ách thống trị của mình, các cường quốc xâm lăng thường áp dụng, đối với các dân tộc bị trị, nhiều biện pháp, tuy có khác nhau về hình thức, nhưng chung qui vẫn thuộc hai loại chính.
.* Ngăn ngừa không để cho các quyền lợi kinh tế thuộc vào tay người bản xứ.
.* Kiềm hảm không để cho dân trí phát triển. Các loại biện pháp thứ nhứt nhằm mục đích tiêu diệt tất cả các phương tiện vật chất của người bị trị.
.Các loại biện pháp thứ hai nhằm mục đích tiêu diệt những người có khả năng sử dụng các phương tiện vật chất trên, nghĩa là các nhà lãnh đạo xứng danh. Đối với các dân tộc bị trị hai loại biện pháp trên đều có những hậu quả vô cùng thảm khốc. Tuy nhiên, nếu không có phương tiện của mình thì còn có thể tìm phương tiện khác, chớ nêu không có người lãnh đạo, thì dù có phương tiện cũng không xử dụng 4 CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
.Vì vậy cho nên, đối với một quốc gia mà nền độc lập bị đe dọa hay đã mất, thì phương pháp hữu hiệu nhứt và điều kiện thiết yếu nhứt để chống lại ngoại xâm là nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo.
.Trong thực tế, nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo có nghĩa là tạo hoàn cảnh thuận lợi để cho cái tinh túy của tập thể hun đúc nên thiểu số lãnh đạo xứng danh’’ (trang 10)
.Như thế, theo tác giả, vấn đề tuyệt đối quan yếu (không thể không có) là nuôi dưỡng và phát triền sự lãnh đạo. Và như thế nào là thiểu số lãnh đạo xưng danh ? Vai trò tối cần của thiểu số lãnh đạo và sự thấu triệt vấn đề của cộng đồng.
.Tác giả giới thiệu khái niệm thăng bằng động tiến giữa ‘’thiểu số lãnh đạo, và ‘’đa số chịu lãnh đạo’’ như sau:
.‘’Trong toàn bộ của cộng đồng, gồm có thiểu số lãnh đạo cộng đồng và đại đa số chịu sự lãnh đạo. Cộng đồng lành mạnh khi nào, giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu sự lãnh đạo, sự thông cảm chạy đều, dẫn dắt đến một sự phối hợp hữu hiệu trong mọi công cuộc của cộng đồng (trang 10) Thiểu số lãnh đạo xứng danh phải bao gồm những ngời có đạo đức (Nhân), có đủ khả năng vật chất, lý trí và tinh thần (Dũng và Lược) để ứng phó với các tình thế, và phải thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của tập thể (trí). Trí nghĩa là thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng, và vì sự thấu triệt vấn đề chỉ có thể thực hiện bằng cách suy tầm, khảo cứu, phân tích, lĩnh hội, quan sát và tổng kết những tài liệu bên ngoài liên quan đến vấn đề. Không có tài liệu bên ngoài thì một bộ óc dù thông minh xuất chúng, cũng không làm sao hiểu đợc vấn đề’’. (trang 10)
.Như thế, chúng ta có thể rút ra được ba luận điểm:
.1.- Việt Nam của chúng ta là một nước nhỏ và yếu lúc nào cũng bị nạn ngoại xâm đe dọa.
2.- Trong công cuộc chống ngoại xâm, một khí giới hữu hiệu nhứt là phát triển lãnh đạo.
3.- Trong công cuộc phát triển lãnh đạo, điều kiện thiết yếu cần đợc thỏa mãn là: Thiểu số lãnh đạo phải thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Đa số chịu lãnh đạo và vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng.
.Điều kiện thiết yếu để thực hiện sự tự giác đóng góp như vậy là đa số chịu sự lãnh đạo phải ý thức cộng đồng và hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Có như vậy thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo mới phối hợp điều hòa và tạo cho cộng đồng sinh lực cần thiết để vượt qua các thử thách quyết hệt đang đợi chờ.
.Những lý lẽ để chứng minh sự kiện này lại nằm trong một ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt chống lại Trung Hoa. ‘’Kinh nghiệm lịch sử của chúng ta chứng tỏ rằng, rốt cuộc lại, không phải ngoại giao, cũng không phải quân lực đã giúp cho chúng ta mấy lần đánh bại các cuộc xâm lăng của Trung Hoa và mấy lần quật khởi sự thống trị ác nghiệt của họ. Chúng ta đã đánh bại quân xâm lăng và quật đổ ách thống trị vì chúng ta có người lãnh đạo và ý thức quốc gia được hun đúc và nuôi dưỡng cũng như vấn đề của quốc gia được giải thích sâu rộng trong đa số chịu lãnh đạo’’.
.Theo tác giả, chỉ có sự tôn trọng tinh thần dân chủ mới và phát huy sự hiểu biết của đa số chịu lãnh đạo đối với vấn đề cần phải giải quyết của quốc gia là vũ khí bén nhạy nhất để chống ngoại xâm. 5 CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
Sức mạnh của sóng và gió Tác giả nhận đinh rằng mãnh lực của lý thuyết tranh đấu là sóng, rất dễ thấy, nhưng người ta không nhìn thấy công trình nghiên cứu thực tế lịch sử làm hậu thuẫn cho mãnh lực đó, cũng như nhìn thấy mãnh lực của lượn sóng mà không nhìn thấy sức mạnh của gió tạo ra lượn sóng. Đây là điều phải trở nên tâm đắc và trọng tâm học hỏi cho mỗi cá nhân và tập thể của cộng đồng trong mỗi một phương hớng dấn thân.
.Tín ngưỡng Tác giả nhận định rằng tín ngưỡng là một tín hiệu tập hợp hữu hiệu. Các chế độ cộng sản đàn áp tôn giáo chính vì khả năng qui tụ nói trên, lúc nào cũng đe dọa sự độc quyền lãnh đạo cộng đồng mà theo họ nhứt thiết phải dành cho đảng cộng sản. Tín ngưỡng sẽ trở thành lợi khí chống lại cộng sản trong hai trường hợp:
- Khi bị cộng sản đàn áp.
- Khi khả năng qui tụ của tín ngưỡng được sử dụng trong công cuộc giải quyết các vấn đề do thực trạng xã hội tạo ra. Như thế thì, nếu muốn cho chủ trương cộng sản thất bại, thì phải làm hai việc:
- Tìm hiểu rõ thực trạng của vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng.
- Có một giải pháp khác để thay thế cho giải pháp cộng sản.
.Lý thuyết tranh đấu Tác giả nhận định rằng các lý thuyết đưa ra làm lý thuyết tranh đấu để chống lại chủ nghĩa cộng sản đã có nhiều. Và hiện nay vẫn còn có người đang đi tìm một lý thuyết khác nữa với tác dụng trên. Mỗi lý thuyết có một số người tin tưởng, nhứt quyết trung thành với lý thuyết của nhóm mình và thành thật hay miễn cưỡng bảo .vệ lý thuyết đó.
.Thành ra khối người theo chủ trương Quốc Gia chia năm xẻ bảy làm cho sinh lực chống lại kẻ địch còn yếu hơn là lúc không có lý thuyết ! Thật là không có gì làm cho người cộng sản vui sướng bằng tình trạng đó. Và họ chỉ ước mong khối quốc gia tạo ra thêm nhiều lý thuyết tương tư.
TS. Phạm Bình Thuận

0 comments:

Powered By Blogger