LÃO MÓC
Các vị cầm bút nữ lưu có những cách ví von hết sức chết người. Nhiều năm trước đây, nhà văn Dương Thu Hương, kẻ đã “ngồi bệch xuống đất để tranh đấu cho nhân tôi” đã ví von cái bản mặt của tên Tướng Công An VC Dương Thông
“giống bộ phận sinh dục của một con ngựa cái”. Từ thành phố Paris hoa
lệ, bà nhà văn này đã từng tuyên bố sẽ về nước để… “ỉa vào mặt bọn cầm
quyền cộng sản”.
Một bà nhà văn khác là bà Trần Khải Thanh Thủy thì lại làm thơ “ca tụng” tài nghệ thần sầu của “Bác Hồ:
“Gió mùa Thu Bác ru em ngủ
Em ngủ rồi, Bác… ụ thâu đêm”.
Một vị nữ lưu vừa cầm bút vừa hoạt động cộng đồng tại hải ngoại là bà Tôn Nữ Hoàng Hoa (TNHH) thì lại ưa làm những chuyện rắn mắc nếu không muốn nói là quá quắt.
Năm 2013, bà này đã “nhổ râu” ông Tiến sĩ Lê Thiện Ngọ khi này tuyên bố: “Bây giờ không còn Quốc, Cộng gì nữa cả” và kêu gọi Hoa Kỳ ủng hộ Việt Cộng chống Trung Cộng.
Tháng 6 năm nay, bà TNHH lại đưa tay “bóp… họng” ông giáo sư Nguyễn Ngọc Bích (NNB).
Qua bài viết “Từ Trịnh Công Sơn, Tố Hữu đến giáo sư Nguyễn Ngọc Bích”, bà TNHH kết luận:
“…Ấy thế mà Thi nô của Hồ tặc lại được giáo sư NNB trân trọng dịch thơ Tố Hữu để truyền bá trong các thư viện Hoa Kỳ.
Ông
NNB vừa muốn làm đại diện VNCH, vừa lại là một dịch giả thơ của một tên
VC thi nô Tố Hữu đã từng là Bí thư của Ban Chấp Hành đảng CSVN? Không
biết những cái lấp lửng này có lợi cho ai? VNCH hay VC?
Đại
diện VNCH là hành động của người quân tử nhưng dịch thơ của tên Tố Hữu,
Bí thư Trung ương đảng CSVN thì lại là kẻ tiêu nhân. Ông NNB đang đứng
giữa con đường quân tử và tiểu nhân thì đây chính là con đường ngụy quân
tử”.
Theo Lão Móc (LM), thì ông giáo sư Nguyễn Ngọc Bích (NNB)chẳng là “cái bể dâu gì” trong chuyện mà bà TNHH viết là: “Ông NNB đang đứng giữa con đường quân tử và tiểu nhân thì đây chính là con đường ngụy quân tử”.
Dịch
thơ của Tố Hữu - tên cai thầu văn nghệ của một nền văn chương cũi sắt -
để truyền bá trong các thư viện Hoa Kỳ là việc làm của những kẻ “ăn cơm Cờ Hoa, thờ ma Cờ Đỏ”!
Tên cai thầu văn nghệ Tố Hữu là kẻ đã cầm đầu việc trừng trị, đày ải, hạ bệ những trí thức yêu nước như Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang… trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (xin bài viết “Trần Đức Thảo, người trí thức lầm đường” đính kèm dưới bài viết này).
Thực ra cũng không nên ngạc nhiên về chuyện giáo sư NNB dịch thơ Tố Hữu, tác giả của những câu thơ:
“Yêu biết mấy khi con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Xít-ta-lin
…
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình, thương một, thương ông, thương mười…”
những câu thơ nô dịch làm ô nhục đất nước Việt Nam là một đất nước có trên 4 ngàn năm văn hiến.
Theo quyển bút ký “Cái Nghiệp Văn Báo” của Sơn Tùng thì:
“…
Ngày 22-3-2001, các thành viên Ban Chấp Hành Văn Bút Quốc Tế ở London
nhận được bức thư dài 5 trang mang chữ ký của 11 người: Đặng Văn Nhâm
(Đan Mạch), Hà Lan Phương (Paris), Trương Anh Thụy (Wash. DC), Hồ Trường
An (troyes), Huỳnh Tâm (Paris), Tùng Vân (Genève), Từ Ngọc Phong
(Hamburg), Nguyên Nghĩa (Toronto), Phú Hữu (San José), Nguyễn Ngọc Bích
(Wash. DC), Nguyễn Tường Tứ (Toronto).
Cũng
như nội dung bài viết bằng tiếng Việt ngày 14-3-2001của ông NNB, thư
này đã trình bày sai sự thật hay bóp méo những diễn tiến của cuộc khủng
hoảng nội bộ VNVNHN hơn 5 năm (1995-2001), và mạnh mẽ buộc tội ông Terry
Carlbom “đã thiên vị một bên trong cuộc tranh chấp, giẫm đạp lên quyền
tự trị của VBVNHN bằng đôi giày ống của ông ta giống như Quốc Xã”.
Ngày
30-3-2001, ông Terry Carlbom đã gửi một bức thư ngắn cho ông Đặng văn
Nhâm và những người cùng đứng tên trong thư ngày 22-3-2001, cho biết Đại
Hội Tái Lập VNVBHN ngày 24-3-2001 tại Vùng Hoa Thịnh Đốn đã diễn ra
theo thủ tục công bằng và trong sang, và VBQT đã đề nghị Đại Hội Đồng
VBQT sắp tới tái phục hoạt VBVNHN. Sau đó, ông Terry Carlbom nói rằng so
sánh việc làm của ông ta với Quốc Xã là những ngôn từ trái ngược với
Hiến Chương VBQT, và hoàn toàn không thể chấp nhận được trong một cuộc
đối thoại giữa hội viên Văn Bút. Ông ta kết luận rằng những người đứng
tên dưới bức thư ngày 22-3 không còn được xem là hội viên Văn Bút nữa, v
àbị cấm chỉ sử dụng danh nghĩa Văn Bút hay dung các ấn chỉ có thể hiểu
lầm là có lien hệ tới VBQT.
Nói cách khác, đây là một hình thức khai trừ 11 người ấy ra h khỏi Văn Bút.
…
Trong lịch sử 80 năm của Văn Bút Quốc Tế, có lẽ đây là lần đầu tiên có
những hội viên bị trục xuất vì lý do vi phạm Hiến Chương, sử dụng ngôn
từ kém văn hóa mà những người ấy lại là dân VN thường tự hào có bốn ngàn
năm văn hiến. Đặng văn Nhâm và 10 người tự nhận là ‘nhnữg người cầm bút
chân chính và có giá trị’ đã lập thành tích là ‘những người Việt Nam
đầu tiên bị trục xuất ra khỏi Văn Bút Quốc Tế”.
(Cái nghiệp Văn Báo - trang 96,97, 98).
Giáo
sư NNB được coi như người viết lá thư “lịch sử” để được là 1 trong 11
người VN đầu tiên sau 80 năm hoạt động “đã bị trục xuất vì lý do vi phạm
Hiến Chương và sử dụng ngôn từ kém văn hoá”!
Ông
bà ta có câu: “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Chuyện dịch giả “bể dâu”
Nguyễn Ngọc Bích dịch thơ của “tên đao phủ văn hóa” Tố Hữu thì nó cũng
giống như chuyện mấy tên phản chiến Mỹ viết tự truyện “Khi Trời Đất Đổi
Chỗ” cho mụ nữ du kích Lệ Lý Hayslip để tuyên truyền cho VC trong các trường Trung học Hoa Kỳ!
Chuyện mà bà TNHH bảo rằng “giáo sư NNB đại diện cho Việt Nam Cộng Hoà là hành động của người quân tử” là chuyện cần xét lại. Ông giáo sư NNB “có chức” Thủ Tướng Chính Phủ VNCH Lâm Thời là do ông “Lã Bất Vi tân thời” Hồ Văn Sinh phong cho.
Trước kia “ông nhạc sĩ buôn Vua” này phong chức này cho ông cựu Tướng Lý Tòng Bá.
Mai kia, mốt nọ nếu “ông Thủ Tướng Bể Dâu” NNB làm chuyện gì phật lòng
“ông buôn Vua” HVS, ông này lấy lại chức này “ban” cho người khác rồi
“ông Thủ Tướng Bể Dâu” NNB ăn nói làm sao với đồng bào hải ngoại?
Mới đây thấy có bài viết “Bản tin nóng hổi về phản biện của Việt Nam Cộng Hoà” ký tên Tâm Việt
ca tụng cái gọi là “Ủy Ban Chính Phủ Lâm Thời” của “ông Thủ Tướng Bể
Dâu” NNB đã phản biện Trung Cộng về chuyện giàn khoan HD 981 quá cỡ mộc.
Trên diễn đàn thấy có người tố cáo ông giáo sư NNB đã làm chuyện “mẹ
hát con khen” vì Tâm Việt là bút hiệu của ông giáo sư NNB!
Rốt cuộc, xem ra chuyện ông giáo sư NNB “đang đứng giữa con đường quân tử và tiểu nhân” tức là “con đường ngụy quân tử”
– theo cách nói của bà TNHH cũng vẫn chưa diễn đạt được những việc làm
có hại cho những người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại của
ông giáo sư NNB và bọn trí thức thiên tả!
Theo LM thì đây là loại người:
“Ngỡ rằng quân tử nhất ngôn
Ngờ đâu quân tử sờ l. hai tay!”
Bọn quân tử… hai tay này đang nhan nhãn ở hải ngoại.
-PHỤ BẢN: TRẦN ĐỨC THẢO, NGƯỜI TRÍ THỨC LẦM ĐƯỜNG!
Cách đây 21 năm, ngày 28-4-1993, trước linh cửu của giáo sư Trần Đức Thảo, Trịnh Ngọc Thái, Đại sứ của Hà Nội tại Paris đã đọc một thông báo vừa được Hà Nội gửi qua, nguyên văn như sau:
“Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học
Tổng hợp cùng di quyến thương tiếc loan tin: Giáo sư Thạc sĩ Trần Đức
Thảo sinh năm 1917 tại xã Phong Tháp, Từ Sơn, Hà Bắc, nguyên Đại diện
Việt kiều tại Pháp, Ủy viên ban Liên viện Paris, thành viên ban Phụ
trách Nghiên cứu Sử Địa, giáo sư trường Đại học Văn khoa và Đại học Sư
phạm Hà Nội, chuyên viên của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chuyên viên cấp cao
của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Huân chương Độc lập hạng nhì, đã
nghỉ hưu, sau một thời gian lâm bệnh đã được Đại sứ nước ta tại Pháp tận
tình chăm sóc, nhưng do tuổi cao bệnh nặng, đã từ trần vào lúc 8 giờ 10
phút, giờ Paris tại bệnh viện Broussais Paris, hưởng thọ 76 tuổi. Lễ
hỏa táng tại Paris ngày 28-4-93, lễ truy điệu giáo sư Thạc sĩ Trần Đức
Thảo được cử hành lúc 10 giờ ngày 28-4-93 tại giảng đường trường đại học
Tổng hợp Hà Nội”.
Giáo sư Trần Đức Thảo là một nhà Triết học nổi tiếng. Theo cuốn “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc”, học giả Hoàng Văn Chí kể rằng: Trần Đức Thảo là con cụ Trần Đức Tiến,
một tiểu công chức tòng sự tại sở Bưu Điện Hà Nội. Lúc còn trẻ học ở
Lycée Albert Sarraut ông tỏ ra hết sức thông minh. Các thầy dạy ông,
nhất là giáo sư Ner đã phải kêu lên là không chấm nỗi bài của ông. Ông
đỗ Tú tài Pháp, ban Triết học năm 1935. Năm sau ông đỗ đầu trong kỳ thi
vào Normal Supérieure ở bên Pháp. Sau đó ông đỗ Thạc sĩ Triết học và dạy
ở Đại học Sorbonne.
Những tài liệu này có một vài chi tiết hơi khác với các nguồn tài liệu kác.
Lúc đầu ông theo chủ nghĩa Existentialisme của Jean Paul Sartre,
nhưng từ năm 1946, ông thiên về chủ nghĩa Marx và gia nhập đảng Cộng
sản Pháp. Trong một cuộc phỏng vấn, ông cho biết: “Tôi là người nghiên
cứu về chủ nghĩa Marx, tôi không phải là người Cộng sản, tôi không hề
xin vào đảng Cộng sản Việt Nam”.
Nhưng có một điều chúng ta có
thể khẳng định mà không sợ nhầm lẫn là: Trần Đức Thảo là một người yêu
nước. Năm 1945, khi thực dân Pháp chuẩn bị trở lại Đông Dương, trong một
cuộc họp báo, một ký giả Pháp đã hỏi ông:
“Nếu mai đây quân đội Pháp trở lại Đông Dương thì họ sẽ được dân chúng Đông Dương đón tiếp ra sao?”
Ông đã trả lời không do dự: “Bằng những phát súng”.
Câu
trả lời trên đã nói lên tâm tư của ông đối với đất nước, và đã trở
thành hiện thực. Quân đội Pháp đã phải đối đầu với cuộc kháng chiến của
toàn dân Việt Nam, mở đầu với những phát súng ngày 23-9-1945 tại Sàigòn.
Nhưng cũng vì câu trả lời này mà ông và một số thân hữu đã bị chính quyền của De Gaule bắt giam vào khám lớn La Santé trong ba tháng. Khi còn trong tù ông đã viết một bài báo nhan đề “Về vấn đề Đông Dương” gửi đăng trên tờ Les Temps Modernes, là một tờ báo chuyên về văn chương và triết học của phe tả (số ra tháng 2 năm 1946).
Đầu
thập niên 50, dư luận đặc biệt chú ý tới 5 buổi tranh luận giữa Jean
Paul Sartre và Trần Đức Thảo. Cuộc tranh luận giữa hai triết gia nổi
tiếng này, đã được thỏa thuận trước là sẽ ghi lại và xuất bản, theo
nguyên văn cuộc tranh luận giữa hai người. Nhưng cuộc tranh luận đã đi
đến chỗ gay gắt vì những bất đồng ý kiến quá cách biệt giữa đôi bên.
Việc xuất bản do đó bị ngưng lại và đưa đến việc thưa kiện giữa hai
người.
Vụ thưa kiện đang được Toà án thụ lý thì Trần Đức Thảo quyết định về nước trực tiếp chống Pháp. Vì theo ông: “… Chiến tranh đã bùng nổ ngày càng căng thẳng… thế nên sau nhiều đêm suy nghĩ đắn đo, tôi quyết định bỏ hết để đi về”.
Và ông đã về thật, bỏ hết quyền lợi vật chất và danh vọng. Những bạn bè
thân thiết cho đây là một quyết định sai lầm, vì liệu một nhà nghiên
cứu triết học sẽ làm được gì trong bưng biền kháng chiến vất vả và
eo hẹp. Ông cũng đã nghĩ đến điều đó và ông tâm sự: “Nếu chuyến trở về
này mà không làm được gì thì cuộc đời tôi kể như chết từ hôm nay”. Rồi ông rời Paris đi Prague, thủ đô Tiệp Khắc, qua Moscow, Bắc Kinh về Việt Bắc. Đó là thời điểm cuối năm 1951.
Và đây, Tô Hoài kể về những ngày đầu của nhà nghiên cứu Triết học Marxist Trần Đức Thảo ở Việt Bắc:
“…
Trần Đức Thảo ở Pháp về Việt Bắc… Trần Đức Thảo còn viết cả bài quy
định giai cấp tiểu thương, tiểu chủ cho các nhân vật Thúc Sinh, Mã Giám
Sinh trong truyện Kiều. Trần Đức Thảo hồn nhiên, hăng hái bằng các sinh
hoạt của anh lúc ấy. Thảo đem cho hết đồ Tây, Thảo mặc áo nâu, đi chân
đất. Chúng tôi ngủ không màn, mặc dầu chúng tôi ở rừng đầu sông Lô, đêm
đến muỗi nhiều như trấu. “Về muộn mà, tớ phải luyện tập gian khổ cho kịp
với các cậu”. Trần Đức Thảo nói đứng đắn thế. Chẳng bao lâu, Thảo lăn
đùng ra sốt rét xanh tái…” (Tô Hoài, Cát Bụi Chân Ai).
Nhưng
cũng trong lúc đó, ông cũng choáng váng trước “hiện thực Marxist” mà
ông lần đầu tiên tiếp xúc. Trước hết, ông nhận ra rằng những người lãnh
đạo ở Việt Bắc lúc ấy không coi ông là người trong tổ chức của họ. Ông
được giao cho những công tác lặt vặt và trái chuyên môn. Qua năm 1953,
ông được bố trí cho ngồi dịch các bài nói, bài viết của Trường Chinh,
người lúc ấy đang được coi là lý thuyết gia số một của Đảng. Và cũng từ
mùa hè 1953 ông trực tiếp tham gia cuộc “chỉnh huấn” dưới sự cố vấn của
các cán bộ Trung Quốc. Quan điểm thịnh hành lúc bấy giờ của cuộc “chỉnh
huấn” và “cải cách ruộng đất” ở vùng do Việt Minh kiểm soát là quan
điểm hoàn toàn Maoist, rập khuôn Trung Quốc.
Trước
những hành động cuồng tín của một số cán bộ cấp trung và cấp thấp, khi
gặp những lãnh tụ tương đối có trình độ, ông mạnh dạn đặt vấn đề thì
được họ phũ phàng trả lời: “Đó là ý kiến của lãnh đạo, phải tuyệt đối chấp hành, còn thắc mắc tức là có tư tưởng lệch lạc”.
Về
Hà Nội, Trần Đức Thảo được cử giữ chức Chủ nhiệm khoa Sử trường Đại học
Hà Nội. Cuối năm 1956, một người trong nhóm “Nhân văn” là Nguyễn Hữu Đang
(người đã dựng lễ đài Độc Lập tại Hà Nội năm 1945) đến gặp Trần Đức
Thảo và nhờ viết bài. Ông nhận lời, và trên Nhân văn số 3, ngày
15-10-1956, có bài viết của ông nhan đề “Nỗ lực phát triển Tự do, Dân
chủ”. Tiếp theo đó là bài “Nội dung Xã hội và hình thức Tự do” trên
“Giai phẩm mùa Đông”. Hai bài viết có tác dụng như hai quả bom nổ giữa
lòng Hà Nội. Ngay lập tức ông bị cách chức, bị lôi ra kiểm điểm cùng với
tất cả những ai có liên quan đến “Nhân văn” và “Giai phẩm mùa Đông” như
Trần Dần, Phùng Quán, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Trương Tửu, Lê Đạt… Cá
nhân Trần Đức Thảo nói riêng và nhóm “Nhân văn - Giai phẩm” nói chung
bị bọn văn nô, bồi bút theo lệnh Đảng tấn công liên tục suốt hai năm
trời.
Phạm Huy Thông,
tiến sĩ, một trong những trí thức hàng đầu của miền Bắc lúc bấy giờ đã
viết bài: “Một triết gia phản bội chân lý: Trần Đức Thảo” đăng trên báo
Nhân Dân số ra ngày 4-5-1958, lúc cuộc đấu tố bước vào thời kỳ cao điểm.
Bài viết buộc tội Trần Đức Thảo hết sức gay gắt, nhiều chi tiết bịa
đặt, dựng đứng để bôi xấu cá nhân ông:
“…
Thật ra thành tích học thuật cũng như thành tích chính trị của Thảo ở
Pháp trước đây, nhìn lại toàn là những thành tích bất hảo. Mất gốc rễ
dân tộc, Thảo chỉ say mê với văn học Hy Lạp, với triết học duy tâm từ
Pờ-la-tông đến Hê-ghen với những phương pháp suy luận trừu tượng, hình
thức. Trở nên môn đệ của Giăng-Pôn-Xác, Thảo đã tham gia những hoạt động
văn hóa và chính trị phản động của nhóm Thời Nay, do Xác chỉ huy, nêu
cao thuyết “sinh tồn” - một thuyết phản động về triết học và chính trị,
chủ yếu nhằm chống lại phong trào cộng sản ở các nước phương Tây. Dưới
chiêu bài sinh tồn, người ta thấy tập họp đủ mọi hạng phá hoại,
Tờ-rốt-kít vô chính phủ cùng mọi cở sa đọa về chính trị…” (Phạm Huy Thông, bài báo đã dẫn).
Nhưng nhà trí thức Phạm Huy Thông, một người từng du học ở Pháp, đã không dừng lại ở đó:
“…
Ngay từ năm 1945, Thảo công kích những người đem tư tưởng Marxist
truyền bá cho kiều bào, công nhân, cho rằng công nhân không có văn hóa,
không tiếp thu được hay tiếp thu một cách máy móc thì nguy hiểm… Thảo
phỉ báng chính sách ngoại giao của ta mà Thảo cho là đầu hàng, phản bội.
Nói về hiệp ước sơ bộ 6-3-1945, Thảo đã phụ họa với bè lũ Tơ-rốt-kít
chống lại chính phủ của ta và đã thốt ra những lời thóa mạ thô bỉ, rất
hỗn xược đối với các lãnh tụ của ta… Bọn Tơ-rốt-kít đã có lần gây một vụ
đổ máu thê thảm ở trại Ma-đát gần Mác-Xây, để đe dọa những kiều bào ủng
hộ kháng chiến, khiến hàng chục kiều bào thiệt mạng, hàng trăm kiều bào
bị tàn phế, thương tật. Nhiều người đã lên tiếng nói rằng không phải
Thảo không có trách nhiệm gì trong vụ khiêu khích bẩn thỉu này…” (PHT, bbđd).
Sau
khi nói xấu Trần Đức Thảo đủ điều (mà chúng tôi không thể nêu hết ra
đây), Phạm Huy Thông xoay ra “chụp mũ, quy kết chính trị” nhà triết học
này:
“…
Mùa Thu 1956, tưởng thời cơ đã đến. Từ số 3 trở đi, báo Nhân văn chuyển
hướng sang chính trị một cách rõ rệt. Bài “Nỗ lực phát triển tự do, dân
chủ” của Trần Đức Thảo được đăng trong số báo ấy, mở đầu cho sự chuyển
hướng và được nhóm Nhân văn coi như cương lĩnh của mình… Trần Đức Thảo ở
trong đại học và ở ngoài đại học lúc nào cũng lớn tiếng đòi trả chuyên
môn cho chuyên môn, đòi trục xuất chính trị ra khỏi chuyên môn… Qua thư
của Hoàng Cầm và nhiều tài liệu khác nữa, cho thấy đường lối chính trị
của nhóm Nhân văn là do Trần Đức Thảo trực tiếp và chủ yếu vạch ra…” (PHT, bbđd).
Ta
thấy rõ ông trí thức Phạm Huy Thông đã tự đánh mất những liêm sỉ tối
thiểu của một nhà trí thức khi dựng đúng những chi tiết mà chỉ cần đọc
lướt qua, ai cũng thấy ngay là bịa đặt.
Tố Hữu,
người chỉ đạo công tác tư tưởng và văn hóa, văn nghệ thời bấy giờ, phụ
trách việc đấu tố triệt hạ nhóm “Nhân văn - Giai phẩm”. Trong bài đấu tố
nhóm này, ông cai thầu văn hóa, văn nghệ đã nhiều lần nhắc đến tên Trần
Đức Thảo:
“…
Chúng vu khống Đảng ta là ‘chủ nghĩa cộng sản phong kiến’ bóp nghẹt tự
do, chúng vu khống những người cộng sản là ‘khổng lồ không tim’ chà đạp
con người… xuyên tạc những quan hệ giai cấp trong xã hội, Trần Đức Thảo
cũng đã cố tạo thế đối lập giữa lãnh đạo ‘kìm hãm tự do’ và quần chúng
lao động ‘đòi tự do’… Tất cả những luận điệu của chúng rõ ràng không
nhằm mục đích nào khác là chống lại lợi ích của Tổ quốc và chủ nghĩa xã
hội, kích thích chủ nghĩa cá nhân thối nát, tạo nên miếng đất tốt cho
những hoạt động khiêu khích, phá hoại của chúng, hòng làm thất bại cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc…” (Tố
Hữu, Báo cáo tổng kết cuộc tranh đấu chống nhóm phá hoại “Nhân văn -
Giai phẩm” trong hội nghị Ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn học - Nghệ
thuật Việt Nam họp lần thứ III tại Hà Nội ngày 4-6-1958).
Đó không phải là lần nhắc đến tên Trần Đức Thảo duy nhất trong bài nói của Tố Hữu. Ở một đoạn khác, Tố Hữu nói:
“…
Trần Đức Thảo cố bịa ra cái “hạt nhân duy lý”, là một hỏa mù cốt để xóa
nhòa ranh giới giữa cái đúng và cái sai, giữa cách mạng và phản cách
mạng…” (Bđd).
Và cuối cùng, như một công thức bất di bất dịch để đúc kết các bài viết, bài nói, Tố Hữu kết luận:
“…
Lấy đường lối văn nghệ của đảng Lao động Việt Nam làm vũ khí chiến đấu,
giới văn nghệ chúng ta hãy tiến lên tiêu diệt tận gốc đường lối văn
nghệ phản động của nhóm Nhân văn - Giai phẩm”. (Tố Hữu, bài nói đã dẫn).
Số
phận của nhóm “Nhân văn - Giai phẩm” đã được định đoạt: mất quyền công
dân, bị tuớc đoạt tất cả, bị cưỡng bức lao động ở một vùng quê. Nhiều
năm sau mới được trở lại Hà Nội, sống nghèo nàn với tài sản đắt giá nhất
là một chiếc xe đạp cũ kỹ. Vợ ông, Tiến sĩ Tâm lý giáo dục Nguyễn Thị Nhì, bị áp lực của Đảng và Nhà nước đã ly dị ông để kết hôn với Nguyễn Khắc Viện, một người bạn thân của ông ở Pháp. Bác sĩ Viện lúc ấy đang là con cưng của Đảng.
Nhà nghiên cứu Triết học Marxist, Giáo sư Thạc sĩ Trần Đức Thảo đã sống trong tăm tối nghèo khổ cùng cực trong 30 năm. Sau khi Nguyễn Văn Linh
lên cầm quyền và tung ra chiêu bài cởi mở năm 1987, ông Thảo mới được
viết trở lại. Lúc này ông đã già. Năm 1991, ông được cho qua Pháp ngắn
hạn. Hết hạn, ông vẫn ở lại, sống vô cùng túng quẫn. Bị cúp tiền, ông
lén nấu ăn lấy thì bị cúp gas, cúp điện. Thấy vậy, Hội Những Nhà khoa
học Pháp (Société des Hommes de Sciences) để tỏ lòng ngưỡng mộ đã quyết
định trợ cấp cho ông vô hạn định mỗi tháng 10,000 Francs (2,000 USD).
Nhưng ông vừa nhận được tấm ngân phiếu đầu tiên vào ngày hôm trước, thì
hôm sau ông qua đời.
Lời
nói từ giã bạn bè ở Pháp trước khi về nước của giáo sư Trần Đức Thảo đã
trở thành một lời tiên tri bi thảm. Tài năng của ông không có chỗ để
phát huy dưới chế độ Cộng sản. Chế độ đó đã làm thui chột một tài năng
triết học có “tầm cở quốc tế” như nhà triết học nổi tiếng Louis Althusser (bạn và là học trò của Trần Đức Thảo) nhận định.
Nhưng
đã để lại cho chúng ta một tấm gương của một nhà trí thức không cúi đầu
trước sai lầm của những người đang nắm giữ quyền lực. Và qua cái chết
của ông, trong hoàn cảnh vô cùng túng quẩn đã cho mọi người thấy sự giả
trá, bịp bợm cùng cực của Cộng sản Hà Nội qua bản thông báo của họ. “Được đại sứ quán của nước ta tại Pháp tận tình chăm sóc…” Câu nói láo trắng trợn này được Đại sứ Hà Nội Trịnh Ngọc Thái đọc lên một cách hết sức trơn tru khiến người ta phải nóng mặt.
Không
có điếu tang. Bởi bài điếu tang giáo sư Trần Đức Thảo nếu được viết một
cách đứng đắn sẽ là những cái tát ngược vào mặt chế dộ.
“Khi sống, con chẳng cho ăn
Khi chết, con lại làm văn tế ruồi!
LÃO MÓC
tieng-dan-we ekly.blogspot.com
0 comments:
Post a Comment