Cái Chết Của TT Ngô Đình Diệm: Một món nợ lịch sử
Chu Mỹ Dung
President Eisenhower and “the Miracle Man”
Cuộc di ccu vô tiền khoáng hậu năm 1954
Học sinh trường tư thục Taberd
Tông thống Ngô Đình Diệm được dân chúng tiếp đón trên đường phố New York
Ỳổng Thống Ngô Đình Diệm được TT Eisenhower long trọng tiếp đón tại sân bay năm 1957
Vì
sao cái chết của TT Ngô Đình Diệm lại là một món nợ của lịch sử? Vì đó
là món nợ “quốc gia hưng vong” mà những kẻ giết người, những kẻ đã và
còn đang thỏa mãn với hành động phi pháp này, cũng như những kẻ đã phỉ
báng ông bằng những tội ác mà ông chưa từng bao giờ làm, phải nợ dân tộc
Việt Nam một trang sử oan nghiệt: đó là vì mất ông mà quốc gia Việt Nam
đã bị cộng sản thôn tính, dẫn đến con đường Bắc Thuộc Hán hóa như ngày
hôm nay.
Một
cách đơn giản những kẻ giết người họ phải nợ quốc gia dân tộc vì họ đã
giết nguyên thủ quốc gia trong tình trạng đất nước đang dầu sôi lửa bỏng
cần sự dìu dắt của ông.
Nói
một cách khác những kẻ giết ông và những kẻ đã hả hê về cái tội ác này
đã “chặt đầu Việt Nam”, theo như cách nói của bà Ngô Đình Nhu. Còn nói
theo Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thì “Thus, as the nine-year rule of Diem
came to a bloody end, our complicity in his overthrow heightened our
responsibilities and our commitment in an essentially leaderless
Vietnam” . (Pentagon Papers viii). . Chín năm cầm quyền của Diệm
chấm dứt trong máu, sự đồng lõa của chúng ta trong việc lật đổ ông ta
đã làm tăng thêm trách nhiệm cũng như sự trói buộc của chúng ta vào
trong một đất nước Việt Nam hoàn toàn không có lãnh đạo.
Hồi
tưởng lại giai đoạn bi thảm đó, toà án nhân dân Phật Giáo Tranh Đấu gồm
những nhà sư và các đội “Phật Tử Quyết Tử” đã đi khắp nơi và đã cuồng
nhiệt gào thét các khẩu hiệu “Phật Giáo bị bách hại” “Đàn áp quý thầy”
“Độc tài gia đình trị” “Mật vụ Nhu Diệm” “Diệm mà không Diệm” mà không
cần phải đưa ra một bằng cớ nào cả. Chỉ cần nói có tội là đủ có tội!
Cụ thể người ta đã đấu tố chính quyền VNCH như sau:
Hòa Thượng Hội Chủ Phật Giáo Thích Tịnh Khiết đã bị giết, hằng trăm
Phật tử đã bị chính quyền dìm chết dưới sông Sài gòn, nhiều ni cô đã bị
mổ bụng, và chùa Xá Lợi đã bị đốt cháy, các nhà sư đã bị ném từ trên các
tầng lầu cao xuống vào đêm Thiết quân luật 20/8/1963 khi lực lượng quân
đội của chính quyền Tổng Thống Diệm mở cuộc hành quân lục soát chùa Xá
Lợi. Thậm chí “Phái Đoàn cũng đã tìm gặp được một số nhà
sư lãnh đạo Phật Giáo và thanh niên phật tử mà theo những báo cáo trước
đây mà phái đoàn đã nhận được rằng những người nầy đã bị chính quyền của
Tổng Thống Diệm giết chết, nay hóa ra đó chỉ là những báo cáo vu khống,
không đúng sự thật.” (Báo cáo của Đại Sứ Volio phái đoàn điều tra LiênHiệp Quốc)
Tóm
lại, ông hoàn toàn vô tội, nhưng người ta đã giết ông và vu cho ông cái
tội đó. Vì vậy nếu nói rằng chỉ có ở Miền Bắc mới có đấu tố mà Miền Nam
không có, điều này xem ra không đúng.
Miền
Nam cũng có đấu tố. Nguyên thủ quốc gia và Cố Vấn bị thảm sát ngày
2/11/1963, hai nạn nhân nữa đã bị hành quyết vào cùng một ngày 9/5/1964,
các ông Phan Quang Đông và Ngô Đình Cẩn, một nạn nhân nữa cũng đang chờ
đợi đem ra pháp trường xử bắn, ông Đặng Sĩ, và hàng ngàn những mảnh đời
đã bị đào tận gốc trốc tận rễ nơi chốn lao tù vì can tội “tay sai” của
cái chính quyền “Nhu Diệm dàn áp Phật Giáo” đó.
Tuy
nhiên, không bàn tay nào có thể che nổi mặt trời. Năm mươi năm đã trôi
qua Tổng Thống Ngô Đình Diệm vẫn là Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà câu nói
của TT Tưởng Giới Thạch “Một trăm năm nữa thì Việt Nam cũng không thể tìm được một người như Tổng Thống Ngô Đình Diệm” và câu nói của Tổng Thống Eisenhower “He’s a miracle man” là một hằng số không gì thay đổi được.
Nhân 50 năm ngày thác oan của Tổng Thống, xin được nhắc lại đôi dòng về ông.
I- Thân thế, tiểu sử và nhân sinh quan của TT Ngô Đình Diệm:
Khi
nói về TT Ngô Đình Diệm, nét điển hình mà người ta thấy được ở ông đó
là một nhà nho trí thức nhưng lại theo tây học, dòng dõi quan quyền khoa
bảng và một nhân cách liêm chính quân tử, một nhân vật chính trị thông
minh kiệt xuất với tư tưởng chống cộng triệt để. Một cây trúc của quan
niệm Á Đông.
Cá
nhân TT Ngô Đình Diệm là sự thể hiện đồng thời của cả ba triết lý Nho
Giáo, Thiên Chúa Giáo và triết lý Đông Phương. Nền tảng Nho Giáo đã tạo
cho cá nhân ông cách hành xử khắc kỹ, quân tử, Thiên Chúa Giáo đã đem
đến cho ông đức bác ái, bao dung công chính, và triết lý văn minh phương
tây đã đem đến cho ông kiến thức cấp tiến và cởi mở về tự do dân chủ.
Và bao trùm lên tất cả các nền giáo dục Đông Tây mà ông đã được may mắn
lãnh hội, đó là thượng đế đã ban cho ông tư chất thông minh và tấm lòng
ái quốc yêu dân mãnh liệt.
Nói
về Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có thể tóm tắt bằng câu nói của Đức Hồng Y
Nguyễn Văn Thuận, cháu ngài, khi nói với cậu mình với đức khâm sứ Tòa
Thánh như sau như sau: Cậu Diệm của con là một người hoàn hảo.
Những
tài liệu của chính thức của VNCH ghi rằng ông sinh ngày 3 tháng 1 năm
1901 tại Phước Quả, Thừa Thiên. Nguồn tuyên truyền nói rằng ông sinh tại
Quảng Bình năm 1897 vì là con của vợ thứ cụ Ngô Đình Khả, nhưng không
cho biết vợ thứ là ai, và sinh trước ĐGM Ngô Đình Thục. Nguồn tuyên
truyền này có quá nhiều điểm vô lý. Trên thực tế Đức Giám Mục Ngô Đình
Thục trông già dặn hơn TT Ngô Đình Diệm rất nhiều. Tóm lại qua sự việc
về ngày sinh của ông, cho thấy người ta đã không từ nan bất cứ những gì
để bôi nhọ ông.
Là
con trai thứ 4 trong một gia đình có truyền thống chính trị, nổi tiếng
về lòng yêu nước và chống cộng triệt để: ông anh cả Ngô Đình Khôi tổng
đốc Quảng Nam và con là Ngô Đình Huân cả hai đã bị cộng sản giết, Ngô
Đình Luyện đại sứ VNCH tại Anh, Ngô Đình Cẩn linh hồn thực sự của lực
lượng tình báo Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung. Trong gia đình, Tổng thống Ngô
Đình Diệm là người con tài ba đức độ nhất của Đại Thần Ngô Đình Khả.
Ngoài thân phụ ra, ông còn chịu ảnh hưởng bởi dưỡng phụ Nguyễn Hữu Bài
cũng là một nhà Nho ái quốc, đức độ uyên bác Đông Tây như cụ Ngô Đình
Khả.
TT
Ngô Đình Diệm tư chất rất thông minh: 16 tuổi đổ nhì Thành Chung, 17
tuổi được mời dạy Quốc Tử Giám và 18 tuổi vào học trường Hậu Bổ ( tương
đương với Quốc Gia Hanh Chánh) năm 21 đổ thủ khoa. Ông đặc biệt xuất sắc
trong các môn học về hành chánh, luật pháp và chính trị . Ngay sau khi
tốt nghiệp, ông được bổ nhiệm làm tri huyện Quảng Điền Huế, Hải Lăng
Quảng Trị.
Bảy
năm sau, 29 tuổi, ông được bổ làm Tuần Phủ Ninh Thuận và Bình Thuận,
tức là tỉnh trưởng. Dưới sự lãnh đạo của ông, Ninh Thuận và Bình Thuận
có đời sống kinh tế khả quan, có chiến lược cụ thể đối phó với sự tuyên
truyền của cộng sản và phá vỡ nhiều mạng lưới nằm vùng. Uy tín này lan
đến triều đình cho nên năm 31 tuổi ông được mời làm thượng thư Bộ Lại,
tương đương với chức Thủ Tướng Chính Phủ. Năm 33 tuổi ông được mời kiêm
nhiệm chức vụ Tổng Thư Ký hội đồng Hỗn Hợp Việt Pháp.
-Với
chức vụ quan trọng bậc nhất quốc gia này, ông đòi hỏi nhiều quyền lợi
cho đất nước. Ông yêu cầu người Pháp thực thi việc thống nhất đất nước
bằng việc sát nhập Trung Kỳ và Bắc Kỳ , thực hiện dân chủ bằng cách cho
phép Viện Dân Biểu được lo những vấn đề quốc sự giống như Quốc Hội.
Nhưng đề nghị của ông không được Toàn Quyền Pasquier chấp thuận.
Thấy
việc tham chính của mình không thể đem lại lợi ích cho đất nước, ông
xin từ chức Thượng Thư, chọn con đường làm thường dân để phục vụ đất
nước theo cách riêng của ông, năm đó ông chỉ 33 tuổi.
Hành
động từ quan này làm chấn động Triều Đình Huế và Chính Phủ Pháp. Điều
này chứng minh rằng ngay khi còn rất trẻ, ông đã là người không hề màng
danh lợi. Nó cũng bẽ gãy luận điệu của những kẻ bất tài không được ông
sử dụng đem lòng oán hận luôn rêu rao rằng ông độc tài tham quyền cố vị.
Với tiết tháo xem thường danh lợi như vậy, những ai đến bây giờ còn cho
rằng Tổng Thống là một người độc tài gia đình trị thì rõ ràng họ chỉ là
những kẻ vu khống và muốn sửa đổi lịch sử, nhưng tiếc rằng họ chẳng bao
giờ có khả năng làm điều đó.
Thâm
tâm ông, con đường phục vụ quốc gia qua chức vụ Thượng Thư Bộ Lại không
thể thực hiện được nên ông đã quyết định chọn con đường khác, đó là từ
chức để có thì giờ học hỏi về chính trị luật pháp xã hội và cũng để kín
đáo hoạt động chống Pháp. Trong 17 năm ở ẩn, ông đọc rất nhiều sách vở
về chính trị phương tây, về cộng sản chủ nghĩa về các phong trào đòi độc
lập. Song song với việc nghiên cứu chính trị, ông liên kết với các nhà
cách mạng có uy tín khác như Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu
trong phong trào Cường Để, ông cũng là đại diện chính thức của Kỳ Ngoại
Hầu tại Việt Nam.
Ông đã từng nói
“người Pháp chỉ là giai đoạn và sớm muộn gì Pháp cũng phải trao trả độc
lập cho Việt Nam, mà cộng sản mới là nguy cơ trầm trọng và dài hạn. Tuy
nhiên nếu giữ được Nam Kỳ là giữ được nước”. Theo ông, nếu
Miền Nam lọt vào tay cộng sản thì cuối cùng sẽ lọt vào tay Trung Cộng.
Chúng ta cũng hiểu một cách đơn giản : Nếu mất Nam Kỳ vào tay cộng sản
là mất nước. Khi rời Dinh Độc Lập vì bị bọn phản tướng làm lọan, ông đã
nói câu cuối cùng ”Như ri là mất nước rồi!” . Điều này đã diễn ra đúng như lời nhận xét của ông 11 năm sau đó!
Có
quá nhiều điều ông phát biểu từ mấy chục năm trước đã trở thành hiện
thực. Người ta ca ngợi ông là người có viễn kiến chính trị, điều này
theo chúng tôi chưa chính xác lắm. Ông không phải là một nhà tiên tri
chính trị mà thực sự ông là một nhà toán học chính trị, tính toán chính
xác đường bay quỹ đạo chính trị thuộc về chiến lược. Ông có sở học sâu
sắc và một năng khiếu đặc biệt về chính trị cộng với tư chất thông minh
đã làm ông trở thành người thấy xa trông rộng, một yếu tố không thể
thiếu của lãnh đạo quốc gia.
Pháp
đánh giá được tiềm năng và tâm huyết của ông, vì vậy cuộc sống ẩn dật
ngụy trang cho các hoạt động bí mật của ông không làm sao qua được tầm
theo dõi của Pháp. Toàn Quyền Đông Dương Jean Decoux ra lệnh bắt ông đi
đày ở Lào, ông được mật báo và trốn vào Sài Gòn. Một thời gian sau, ông
bị Hồ Chí Minh bắt sau đó ông lại may mắn thoát khỏi bàn tay của y. Ông
sang Nhật gặp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, tại đây, Kỳ Ngoại Hầu khuyên ông
sang Mỹ để tìm sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, mà không thể trông cậy vào Nhật
hay chờ đợi gì từ Pháp.
Sang
Mỹ, qua sự giới thiệu của Hồng Y Spellnam, ông được sự tiếp xúc và đánh
giá cao của một số chính trị gia Hoa Kỳ, thẩm phán Tối Cao Pháp Viện
William Douglas dân biểu Kennedy, Mike Mansfield vv.. Ông tham gia diễn
thuyết về các vấn đề Việt Nam, Châu Á và hiểm họa cộng sản tại một số
các trường Đại Học. Một số nhân vật trong quốc hội và chính quyền Hoa Kỳ
đã chú ý đến ông, nhưng chưa bao giờ chính quyền Hoa Kỳ quyết định chọn
ông làm một con bài chính trị. Giả thuyết cho rằng nhờ sự vận động của
Hồng Y Spellman cho nên ông được chính giới Hoa Kỳ đưa về làm Thủ Tướng
là một giả thuyết không đứng vững. Theo luật pháp Hoa Kỳ Hồng Y Spellman
không có quyền và trên thực tế ông cũng không có khả năng can thiệp vào
chính quyền Hoa Kỳ. Và nếu như được chính quyền Hoa Kỳ ủng hộ, thì
những năm sau đó Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không phải nản lòng rời Hoa
Kỳ bôn ba sang Châu Âu tìm kiếm sự hổ trợ khác.
Tình
hình Miền Nam trước khi TT NĐD về nước rất tuyệt vọng. Cựu hoàng Bảo
Đại trong cuốn hồi ký đã xác nhận yêu cầu ông về lập chính quyền, ông từ
chối và thưa rằng sau bao năm bôn ba, giờ đây ông muốn trải cuộc đời
còn lại trong một tu viện dòng kín. Cựu Hoàng Bảo Đại lộ vẻ tức giận và
dẫn ông vào một căn phòng vắng, đưa cho ông một cây thánh giá và nói
rằng “Đây Chúa của ông đây, ông hãy thề trước mặt Chúa là gìn giữ
đất nước Việt Nam, ông phải bảo vệ nó để chống lại cộng sản, nếu cần
phải chống cả người Pháp.” Cầu nguyện hồi lâu một mình trong phòng kín, ông trở ra nói với cựu hoàng là ông nhận lời.
Vì
không đành tâm đứng nhìn đất nước rơi vào tay cộng sản, TT Ngô Đình
Diệm đã nhận lời. Để có thể chu toàn nhiệm vụ, ông đã yêu cầu cựu hoàng
phải giao cho ông toàn quyền về quân sự lẫn dân sự để lèo lái đất nước.
Trên thực tế, lúc đó Cựu Hoàng đã hoàn toàn không hề có binh quyền hay
chính quyền gì cả để giao cho ông. Có chăng cựu hoàng đã giao cho TT Ngô
Đình Diệm một Miền Nam đầy tham nhũng bài bạc đĩ điếm và thuốc phiện ma
túy và những tay anh chị khét tiếng như Bảy Viễn, Nguyễn Văn Hinh, và
giao cho ông sứ mạng nặng nề và nguy hiểm nhất đó chống lại bóng đen của
khối cộng sản đang có sức mạnh khổng lồ về quân sự và tiền bạc để nuốt
chửng Miền Nam.
Miền
Nam lúc đó, không có tổ chức quân sự cũng như kinh tế nào khả dĩ có thể
đối đầu với đảng cộng sản đã có trên 24 năm kinh nghiệm, sẳn sàng sử
dụng những thủ đoạn chính trị vô cùng tàn bạo nhất và sau lưng là nguồn
viện trợ vũ khí tiền bạc dồi dào từ khối cộng sản Đông Âu, Liên Xô và
quan trọng nhất là Mao Trạch Đông. Trong khi đó thì chí sĩ Ngô Đình Diệm
chỉ có một mình ông và người em đang sống tại Việt Nam là ông Cố Vấn
Ngô Đình Nhu, đang cố gắng hết sức lực của mình để kiếm nguồn ủng hộ cho
anh mình trong nước. Vì lý do đó cho nên chính quyền Hoa Kỳ đã không
muốn phiêu lưu uy tín của họ để ủng hộ Thượng Thư Ngô Đình Diệm, mặc dù
chính phủ Pháp lúc đó đang hết sức kiệt quệ, một điều kiện tốt cho Hoa
Kỳ đang muốn thay thế Pháp có mặt tại Đông Dương .
Tóm
lại, về thân thế sự nghiệp, tổng thống Ngô Đình Diệm trước khi về nước
đã từng là một vị thượng thư trẻ tuổi không màng danh lợi, quyết tâm
chống Pháp và chống cộng tới cùng. Và ông đã nhận lời cựu hoàng Bảo Đại
để gìn giữ một quốc gia đang đứng trên bờ vực thẳm chờ cộng sản thâu
tóm. Binh quyền không có mà chính quyền cũng không có, ông một thân một
mình về nước đảm nhận sứ mệnh mà chỉ có một người ái quốc mãnh liệt mới
dám an bài số phận bấp bênh đó cho mình. Do đó, lập luận cho rằng TT Ngô
Đình Diệm về nước chấp chánh là do sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ qua bàn tay
của Hồng Y Spellman chỉ là sự dèm pha để phủ nhận tài năng của ông.
Người
đã cậy nhờ chí sĩ Ngô Đình Diệm nắm lấy chức vụ thủ tướng không ai khác
ngoài cựu hoàng Bảo Đại, như ông đã tự xác nhận trong cuốn sách “Con
rồng Việt Nam”. Và chỉ có vậy!
Đó là sự thật lịch sử mà không ai có thể chứng minh khác được!
II- Hoàn cảnh đất nước khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm về chấp chính:
Muốn
đánh giá công hay tội của một vị lãnh đạo quốc gia, lịch sử phải xem
xét gia tài mà vị lãnh đạo đó tiếp nhận trước khi điều hành đất nước, và
so sánh với những đất nước có được sau khi họ rời chức vụ. Thế nhưng,
đối với tổng thống Ngô Đình Diệm, những kẻ chê bai hay kết tội ông đều
không bao giờ dám đề cập đến hoàn cảnh của Miền Nam vào thời điểm 1954.
Tại
sao họ không dám đề cập? Bởi vì khi về nước, binh quyền mà ông có được
là 12 người cảnh sát thay phiên nhau canh giữ dinh Gia Long. Miền Nam
lúc đó hoàn toàn không có quan hệ lãnh đạo, mà chỉ có nạn thập nhị sứ
quân. Đó là một con rắn không đầu, mỗi người thống trị một lãnh vực và
khu vực. Tất cả những khuôn mặt nổi bật bấy giờ như Bảy Viễn, Ba Cụt,
Lại Văn Sang, Nguyễn văn Hinh và các giáo phái v.v mỗi người hùng cứ một
phương và thủ đắc các phương tiện kiếm chác tài chánh riêng cho mình,
không ai chấp nhận từ bỏ quyền lực để phục vụ cho quốc gia dưới sự điều
động của một chính phủ trung ương. Quân sự, kinh tế, ngoại giao, tài
chánh, hối đoái, quan thuế đều thuộc quyền của Pháp và các tay sai Pháp,
trong lúc đó thì Việt Cộng nằm vùng được cài đặt tràn đìa. Tổng Thống
chỉ có quyền với 12 người cảnh sát gác dinh Gia Long và một ngân khố
quốc gia trống rỗng, bên cạnh đó là một Miền Nam mà hạ tầng cơ sở bị phá
hủy vì chiến tranh tàn phá nặng nề toàn bộ ruộng đồng bỏ hoang, thất
học và thất nghiệp tràn lan, tham nhũng cờ bạc đĩ điếm, thuốc phiện và
nguy hiểm nhất là mạng lưới cộng sản rất mạnh, đang được sự viện trợ của
Tàu và Liên Xô từ lâu, đã và đang phát triễn dày đặc khắp đất nước. Bên
cạnh đó là gánh nặng ngàn cân về an ninh chính trị và xã hội của một
triệu người mới di cư từ Bắc vào Nam tháng 8 năm 1954.
Sự
giúp đỡ của Hoa Kỳ cho ông lúc bấy giờ là một nhân viên CIA Mỹ cố giúp
ông để chiêu dụ những người đang nằm trong các phe phái khác, Đại Tá
Edward Lansdale.
Một
cách ngắn gọn, Ông không có bất cứ một quốc gia đồng minh nào có thể
nương nhờ khi ông về nước, trong khi đó cộng sản Hà Nội có cả một nguồn
viện trợ khổng lồ từ Liên Xô, Đông Âu và đặc biệt là Trung Cộng và đã
hoạt động từ năm 1930. Ông ngay cả lực lượng hậu thuẩn chính trị cũng
không có được một đảng phái hay một tổ chức quốc gia quan trọng nào làm
hậu thuẫn, và tài chánh thì quá eo hẹp, trong khi đó thì ông lại có quá
nhiều kẻ thù: Pháp và tay sai, các Giáo Phái và Bình Xuyên, mà nguy hiểm
nhất là cộng sản. Một số các chính trị gia khác đồng ý hổ trợ cho ông
vì lúc đó thật sự mà nói chẳng ai dám dấn thân lãnh nhận một tài sản
quốc gia thảm thương như thế. Nhưng ông đã chấp thuận, vì chỉ một lẽ duy
nhất: ông yêu nước!
III- Những thành tựu TT Ngô Đình Diệm đã đem lại cho đất nước.
Sau
11 tháng cầm quyền trong sóng gió Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ổn định
tình hình chính trị tuyệt vọng của Miền Nam nhờ vào uy tín và lòng can
trường của ông. Sau 11 tháng theo dõi khả năng và những thành tựu của
ông, chính phủ Eisenhower không còn thấy mình phiêu lưu khi hổ trợ cho
Ngô Đình Diệm nữa, mới chính thức quyết định hổ trợ cho ông.
Một
số bài viết và dư luận cho rằng Mỹ đã hổ trợ và viện trợ rất nhiều cho
TT Ngô Đình Diệm ngay khi ông về nước, nhờ vậy ông mới làm nên cơm cháo.
Điều này hoàn toàn không đúng. Căn cứ vào các sự kiện lịch sử xảy ra
lúc bấy giờ và căn cứ vào các tài liệu được giải mã cách đây hơn 15 năm
thì quả thật số viện trợ cho TT Ngô Đình Diệm khi ông về nước trong 11
tháng đầu tiên hầu như chỉ là con số không. Nổi bật chỉ có sự tiếp xúc
và vận động kín đáo của Đại Tá Edward Lansdale với các phe nhóm chính
trị như Cao Đài Hòa Hảo để thuyết phục họ ủng hộ TT Ngô Đình Diệm v.v.
Xin
dẫn chứng sự yểm trợ yếu ớt và đầy nghi ngờ của Hoa Kỳ cho chính phủ TT
Ngô Đình Diệm trong giai đoạn 1954-1955 như sau: cứ hai lần mỗi tháng,
Joe Lawton Collin, bạn thân tổng thống Eisenhower, và là đặc sứ của ông
tại Sài Gòn, đề nghị tổng thống Eisenhower phải loại bỏ Diệm và thay thế
bằng Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ. Còn người Pháp thì khỏi nói, họ xem
TT Ngô Đình Diệm là kẻ thù của họ. Hãy nghe tướng Pháp Paul Ely đại
diện tối cao của Pháp phá đám với người Mỹ như sau: ”Ông ta chỉ là
tên bù nhìn tệ hại nhất không được nhân dân ủng hộ. Cho nên vì lợi ích
của Việt Nam và lợi ích của thế giới, không nên cứu Diệm” . Chính
phủ Hoa Kỳ có lúc đã tin rằng chính phủ Ngô Đình Diêm sẽ không tồn tại
quá sáu tháng và vì vậy họ chỉ viện trợ rất cầm chừng với thái độ chờ
xem, và thậm chí đã có những chỉ dấu loại bỏ ông, như Collin đã ngày đêm
thuyết phục tổng thống Eisenhower và tổng thống Eisenhower đã sắp sửa
nghe lời Collin. Bất thần, trong tình huống tuyệt vọng đó, đầu tháng 5
năm 1955, tổng thống Ngô Đình Diệm với lòng can đảm và sự sáng suốt, ông
đã lật ngược thế cờ, triệt hạ những tên trùm Bảy Viễn, Lại Văn Sang,
Nguyễn Văn Hinh, thu phục được sự ủng hộ của Cao Đài Hòa Hảo và các
tướng như Trịnh Minh Thế. Với sự thành công tuyệt vời này, Hoa Kỳ từ đó
mới dám thở phào viện trợ cho chính phủ TT Ngô Đình Diệm, triệu hồi
Lawton Collin về nước.
Có
thể tóm tắt công lao của tổng thống Ngô Đình Diệm trong việc tái thiết
và ổn định Miền Nam qua lời nhận xét của một vĩ nhân thế giới, Tổng
Thống Eisenhower như sau: He is a miracle man.
Không thần kỳ sao được khi từ một quốc gia bị sáu vấn nạn:
- một là là chiến tranh tàn phá từ 1945 đến 1954,
- hai là vấn nạn chia rẽ ly tán thập nhị xứ quân,
- ba là vấn đề giáo dục cộng đồng quá thấp,
- bốn là tệ nạn xã hội đen tràn lan đến độ lấn lướt cả chính quyền,
- năm là thực dân Pháp và tay sai người Việt vẫn nắm quyền lực chính về kinh tế và quân sự,
- sáu là, và nguy hiểm nhất là, phải đối đầu với khối cộng sản thế giới, ông đã làm cho Miền Nam trở thành Hòn ngọc Viễn Đông!
- một là là chiến tranh tàn phá từ 1945 đến 1954,
- hai là vấn nạn chia rẽ ly tán thập nhị xứ quân,
- ba là vấn đề giáo dục cộng đồng quá thấp,
- bốn là tệ nạn xã hội đen tràn lan đến độ lấn lướt cả chính quyền,
- năm là thực dân Pháp và tay sai người Việt vẫn nắm quyền lực chính về kinh tế và quân sự,
- sáu là, và nguy hiểm nhất là, phải đối đầu với khối cộng sản thế giới, ông đã làm cho Miền Nam trở thành Hòn ngọc Viễn Đông!
President Eisenhower and “the Miracle Man”
Ai
có thể phản bác lại lời của Tổng Thống Eisenhower rằng Tổng Thống Ngô
Đình Diệm không phải là một miracle man, một con người của huyền thoại?
Vài nét chính về những thành tựu trong việc tái thiết xứ sở dưới sự cầm quyền của TT Ngô Đình Diệm:
1/ Cuộc di cư vĩ đại trong lịch sử của dân tộc Việt Nam năm 1954.
Đây
là một thành tích vĩ đại của Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà không ai có
thể phủ nhận. Lịch sử Việt Nam sẽ ghi nhớ công ơn của TT Ngô Đình Diệm.
Đáp
máy bay về nước ngày 26 tháng 6 năm 1954, ngày 30 tháng 6 ông bay ra Hà
Nội để xem xét dân tình, ngày 20 tháng 7 năm 1954 Pháp và Bắc Việt ký
hiệp ước chia đất nước Việt Nam, tổng thống Ngô Đình Diệm tuyệt vọng bay
ra Hà Nội ngày 3 tháng 8, đọc một bài diễn văn kêu gọi dân chúng theo
ông di cư vào Nam xây dựng đất nước tự do, và khoảng một triệu người đã
nghe ông theo ông vào Nam với sự trợ giúp bằng không vận và đường hàng
hải của Hoa Kỳ, Pháp, Thụy Sĩ v.v
Ngày
4 tháng 8 cuộc di cư chính thức bắt đầu. Trong lúc chính quyền đang còn
rất mong manh, bị sự chống đối và hoành hành của Bình Xuyên Bảy Viễn,
Nguyễn Văn Hinh, Tổng Thống đã lập Phủ Tổng Ủy Di Cư đảm nhận việc tiếp
thu gần một triệu đồng bào Miền Bắc vào Nam. Lo ổn định đời sống cho
khoảng một triệu người ồ ạt di cư vào Nam trong một thời gian chỉ hơn
một tháng và gìn giữ cho đời sống vật chất an ninh xã hội tại Miền Nam
không bị rối loạn phải nói là một công việc quá phi thường vượt quá sức
của một chính phủ còn quá non trẻ, không tiền, trên nền tảng của một
quốc gia bị chiến tranh tàn phá, chia rẽ, tệ nạn xã hội và cộng sản
hoành hành.
Cuộc di ccu vô tiền khoáng hậu năm 1954
Hãy
so sánh tất cả các cuộc di cư, nhập cư và tị nạn của tất cả các quốc
gia trên thế giới đê thấy rằng chưa có một vị nguyên thủ quốc gia nào có
khả nặng làm việc như Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Ông gìn giữ xã hội Miền
Nam không bị rối loạn vì số lượng di dân quá bất thần và quá lớn, cung
cấp những dịch vụ cần thiết như nhà ở, thực phẩm y tế thuốc men, giáo
dục cho một triệu người và nhanh chóng ổn định đời sống họ trong vòng
vài tháng. Ai có thể phủ nhận được nỗ lực kinh khủng và khả năng tổ chức
hiếm có, sử dụng, và theo dõi đồng tiền viện trợ một cách hữu hiệu, và
đặc biệt là sự cần kiệm của chính phủ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trong vấn
đề định cư một số quá lớn người như thế? Điều gì đã làm cho ông can đảm
đứng ra lãnh nhận gánh nặng to lớn này và đã hoàn thành tốt đẹp công tác
định cư cho cả triệu đồng bào trong tình thế bấp bênh của chính quyền
và đất nước như thế? Không gì khác hơn, đó chính là lòng yêu nước thương
dân vô hạn và sự can đảm thông minh phi thường của ông!
2/Giáo dục và y tế:
Trong
khi ở Miền Bắc, giáo dục rất thiếu sót chương trình trung học chỉ có 10
năm, và đội ngũ khoa học kỹ thuật của họ rất tồi tệ, thì ở Miền Nam
Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có những điểm sáng chói như sau: Chương
trình trung học ở Miền Nam đúng theo tiêu chuẩn quốc tế là 12 năm.
Chương trình đại học cũng có chất lượng của các nước phương tây. Xin
được dẫn chứng vài vì dụ.
Chương
trình mở mang giáo dục dưới thời TT Ngô Đình Diệm đem lại số học sinh
và số trường trung học tiểu học tăng vọt hàng năm với tốc độ khoảng 60%
70%. Từ năm 1957 đến 1961, số học sinh và trường học tăng lên gấp 4.
Học sinh trường tư thục Taberd
Ông
cũng cho thành lập rất nhiều các trường dạy nghề. Về giáo dục đại học,
tổng số sinh viên tăng trong vòng 3 năm là 60% vào năm 1957. Đại Học
công lập Huế và đại học tư thục Đà Lạt được mở ra dưới thời của TT Diệm
theo sau là Viện Đại học Sài Gòn, là một viện đại học công lập, được
thành lập vào năm 1957 dưới chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Đây là viện đại học được xem là có uy tín nhất ở Miền Nam Việt Nam, cung
cấp các giáo sư đi thỉnh giảng ở các viện đại học khác. Viện đại học
này cấp bằng cử nhân, thạc sĩ, và tiến sĩ. Năm 1961 ông cho thành lập
Đại Học Y Khoa Huế. Số sinh viên chỉ trong vòng 3 năm sau khi ông về
nước chấp chánh đã tăng lên gấp 4 lần đồng thời chính phủ cũng có chương
trình cấp học bổng cho sinh viên du học ở các nước tiên tiến phục vụ
mục tiêu Việt Nam hóa đội ngũ giáo sư đại học với tiêu chuẩn quốc tế.
Trường
Đại Học Y Khoa là một dẫn chứng cụ thể rằng Tổng Thống coi trọng quốc
thể, vào năm 1961 trường này đã hoàn toàn không còn giảng viên người
Pháp. Xin được lập lại, chỉ sau 5 năm cầm quyền, ông đã xây dựng được
một hệ thống Đại Học mà các nước trong vùng phải kính nể. Ông đã chứng
minh cho thế giới thấy người Việt Nam hoàn toàn không thua bất cứ một
dân tộc nào trên thế giới. Nhiều bệnh viện nổi tiếng chẳng hạn bệnh viện
Bình Dân cũng được thành lập để phục vụ nhu cầu chữa bệnh cho dân chúng
và giảng dạy y khoa.
3/Kinh Tế:
Nhờ
kiến thức sâu rộng về chính trị, bản chất thông minh, trọng của công,
cần kiệm và rất cẩn trọng trong việc sử dụng tiền viện trợ, ông đã lèo
lái đất nước đưa đến bến bờ của sự thanh bình thịnh vượng và nhân quyền.
Qua chương trình CIP ( Comercial Import Program), mỗi năm ông nhận viện
trợ kinh tế của Hoa Kỳ là 322 triệu năm 1955, và nhờ việc sử dụng hiệu
quả và chính xác, viện trợ Mỹ đã tăng lên 450 triệu Mỹ Kim sau đó. Với
sự trợ giúp này, ông lại nhanh chóng biến Miền Nam thành một hòn ngọc
viễn đông trong một thời gian kỷ lục là ba năm, đến nỗi tổng thống
Eishenhower đã đón ông với 21 phát súng đại bác. Xin được cụ thể hóa vài
thành tựu nổi bật về kinh tế của ông như sau:
1.Toàn
bộ hệ thống giao thông thủy bộ và đường xe lửa xuyên Việt được tái
thiết lại, phục vụ nhu cầu thương mại và sản xuất và nông nghiệp. Chương
trình cải cách ruộng đất và khuyến nông đã biến những thửa ruộng và đồn
điền bỏ hoang thành những cánh đồng phì nhiêu và đồn điền trù phú, làm
đem lại số gạo và cao su xuất cảng tăng vọt. Đơn cử là chỉ mới năm 1957
mà số gạo sản xuất là 3 triệu tấn, chăn nuôi heo gà vịt phát triễn mạnh
và đã xuất cảng được một số lượng đáng kể hàng năm.
2.Điều
quan trọng đáng nói là dù Miền Nam căn bản là một quốc gia nông nghiệp,
ông vẫn quyết tâm biến Miền Nam trở thành một quốc gia kỹ nghệ. Giai
đoạn này chúng ta thấy Miền Nam đã có những nhà máy ván ép, nhà máy
giấy, nhà máy dệt, nhà máy xà bông, viện bào chế dược phẩm v.v. TT thống
Ngô Đình Diệm là con người thấy xa trông rộng và rất chu đáo trong tất
cả mọi kế hoạch phát triễn quốc gia. Chương trình mở mang và nâng cao
chất lượng giáo dục song song với phát triễn kinh tế là một dự án đồng
bộ và hoàn chỉnh nhằm chuẩn bị tài nguyên con người để thực hiện việc kỹ
nghệ hóa Miền Nam. Các trường đại học và các trường dạy nghề đào tạo
công nhân và chuyên viên kỹ thuật ở mọi mọi lãnh vực từ hành chánh đến
khoa học đến kỹ thuật để có thể đáp ứng nhu cầu kỹ nghệ hóa đất nước.
Trung tâm nguyên tử Đà Lạt và đập Đa Nhim cộng với 2 kế hoạch ngũ niên
1957 đến 1961, 1962-1967 và chương trình đẩy mạnh mở mang giáo dục là
một bằng chứng về một kế hoạch phát triễn rất hợp lý và đồng bộ của tổng
thống để có đủ tài nguyên vật chất và tài nguyên con người cho một quốc
gia kỹ nghệ. Nếu tổng thống còn sống, thì chắn chắn Miền Nam còn tiến
xa hơn Nam Hàn gấp bội, một Nhật Bản thứ hai cũng không phải là điều nói
quá, vì ông và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu là người đã sống
ở Nhật hiểu biết về Nhật. Tuy không tin tưởng và cũng không hợp tác với
chính phủ Nhật, nhưng ông rất ngưỡng mộ thể chế chính trị, sự phát
triễn kinh tế khoa học của Nhật. Khuôn mẫu chính trị và sự tiến bộ của
Nhật Bản là điều TT Ngô Đình Diệm muốn Việt Nam đạt được.
4/Quân
sự và nội chính: Ông hết sức quan tâm đến vấn đề nội chính và quốc
phòng. Để đối đầu với cộng sản, ông phân chia Miền Nam thành 4 vùng
chiến thuật, không ngừng canh tân quân đội và Việt Nam hóa quân đội và
đào tạo các chuyên viên hành chánh cao cấp của quốc gia. Ông hết sức chú
tâm đào tạo một thế hệ sĩ quan trẻ có tiêu chuẩn ngang với quốc tế để
thay thế hàng ngũ sĩ quan được Pháp đào tạo. Sự cải tổ sâu rộng và đầu
tư hai trường quân sự lớn hàng đầu Đông Nam Á và Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh là những ví dụ cụ thể.
- Học Viện Quốc Gia Hành Chánh:
Xuất thân là khôi nguyên trường Hậu Bổ, tức trường dạy về chính trị luật pháp và hành chánh, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi chấp chánh, ông đã hết sức coi trọng công việc nội chính quốc gia. Ông bắt tay cải tổ trường QGHC mà trước đây đặt ở Đà Lạt và trực thuộc bộ Giáo Dục. 1954, ông cho dời trường về Sài Gòn và đặt học viện này dưới sự đào tạo và giám sát của Phủ Thủ Tướng sau đó thuộc phủ Tổng Thống, tức trực thuộc sư chăm sóc của ông.
Xuất thân là khôi nguyên trường Hậu Bổ, tức trường dạy về chính trị luật pháp và hành chánh, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi chấp chánh, ông đã hết sức coi trọng công việc nội chính quốc gia. Ông bắt tay cải tổ trường QGHC mà trước đây đặt ở Đà Lạt và trực thuộc bộ Giáo Dục. 1954, ông cho dời trường về Sài Gòn và đặt học viện này dưới sự đào tạo và giám sát của Phủ Thủ Tướng sau đó thuộc phủ Tổng Thống, tức trực thuộc sư chăm sóc của ông.
Chương
trình học của học viện này do Michigan State University (MSU) trợ giúp
trong việc soạn giáo trình. Kho sách của trường được coi là một trong
những thư viện lớn nhất của Việt Nam Cộng hòa. Sinh Viên cũng được huấn
luyện quân sự ở các trường quân sự chuyên nghiệp như trung tâm huấn
luyện Quang Trung, học chiến thuật ở rừng cao su Phú Thọ hay trung tâm
Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám v.v
Môn
học chính của QGHC gồm những kiến thức như soạn thảo công văn, kế toán
thương mại, định chế chính trị, luật hành chánh và cả quân sự. Tùy theo
bằng cấp tốt nghiệp là tham sư, đốc sự hay giám sự, các chuyên viên hành
chánh cao cấp này sẽ về làm việc tại các bộ như Bộ Nội vụ hoặc cơ quan
hành chánh địa phương. Giám sự được bổ nhiệm ở các phủ bộ chuyên môn
khác như Bộ Tài chánh, Tổng Nha Kế Hoạch. Sau khi ra trường thì chuyên
viên được bổ dụng từ Phủ Thủ tướng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo hay
Tổng Nha Ngân Sách và các Bộ cấp quốc gia cho đến các ty, các sở ở địa
phương như phó tỉnh trưởng hoặc phó quận trưởng.
-Trường Võ Bị QGVN:
Tuy trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt được thành lập năm 1950 nhưng đên năm 1959 dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới thực sự có những cải tổ sâu rộng và huấn luyện theo tiêu chuẩn quốc tế. Năm 1961, TT Ngô Đình Diệm cho xây dựng lại cơ sở đào tạo mới tại đồi 1515, ông đưa ra chương trình đào tạo 4 năm thay vì 3 năm như trước đây, nhưng vì những rối ren chính trị và ông bị thảm sát, mãi đến năm 1966 chính phủ tiếp theo mới thực hiện được chương trình này. Trường VBQGVN đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp cho Không Quân, Hải Quân và Lục Quân.
Tuy trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt được thành lập năm 1950 nhưng đên năm 1959 dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới thực sự có những cải tổ sâu rộng và huấn luyện theo tiêu chuẩn quốc tế. Năm 1961, TT Ngô Đình Diệm cho xây dựng lại cơ sở đào tạo mới tại đồi 1515, ông đưa ra chương trình đào tạo 4 năm thay vì 3 năm như trước đây, nhưng vì những rối ren chính trị và ông bị thảm sát, mãi đến năm 1966 chính phủ tiếp theo mới thực hiện được chương trình này. Trường VBQGVN đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp cho Không Quân, Hải Quân và Lục Quân.
-Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức:
năm 1955 đến 1961 đã cung cấp 2/3 số sĩ quan cho QLVNCH và khoảng trên 90% các binh chủng như Thiết Giáp, Công Binh Pháo Binh Quân Nhu Quân Cụ truyền tin. Giữa tháng 10 năm 1961 ông lại tiếp tục cải tổ tách các trường đào tạo chuyên môn thành các trường riêng chỉ còn giữ lại Bộ Binh và Thiết Giáp là chính.
năm 1955 đến 1961 đã cung cấp 2/3 số sĩ quan cho QLVNCH và khoảng trên 90% các binh chủng như Thiết Giáp, Công Binh Pháo Binh Quân Nhu Quân Cụ truyền tin. Giữa tháng 10 năm 1961 ông lại tiếp tục cải tổ tách các trường đào tạo chuyên môn thành các trường riêng chỉ còn giữ lại Bộ Binh và Thiết Giáp là chính.
-Phân chia các vùng chiến thuật:
42 tỉnh Miền Nam được chia làm 4 vùng chiến thuật với trách nhiệm bảo vệ các vùng chiến thuật này trao phó cho Quân Đoàn. Quân Đoàn 1 bản doanh tại Đà Nẵng, QĐ II tại Pleiku Quân Đoàn III tại Biên Hòa, QĐ IV tại Cẩn Thơ.
42 tỉnh Miền Nam được chia làm 4 vùng chiến thuật với trách nhiệm bảo vệ các vùng chiến thuật này trao phó cho Quân Đoàn. Quân Đoàn 1 bản doanh tại Đà Nẵng, QĐ II tại Pleiku Quân Đoàn III tại Biên Hòa, QĐ IV tại Cẩn Thơ.
Để
thấy được thành công trong lãnh vực quân sự, chống trả lại các cuộc tấn
công quân sự của khối cộng sản trong giai đoạn của tổng thống Ngô Đình
Diệm, cần đánh giá sức mạnh quân sự của đối phương. Giai đoạn này đặc
biệt là bắt đầu vào khoảng năm 1961, 1962 cộng sản gia tăng chiến tranh
quân sự và gia tăng các hoạt động khủng bố, để cố chiếm lấy nửa nước còn
lại nhằm phục vụ cho ý thức hệ cộng sản và gấp rút thỏa mãn ý đồ Hán
Hóa Việt Nam của Trung Cộng.
Dẫn
chứng: trong giai đoạn chiến tranh từ năm 1954 đến 1975, luôn luôn có
mặt của cán bộ Trung Cộng và ngay cả của tất cả các nước công sản khác
như Tiệp Khắc, Cuba v.v tại Hà Nội. Có lúc con số lính Trung Cộng lên
đến 300 ngàn. Hồ Chí Minh và những đảng viên trung ương đã đến tiếp kiến
Chu Ân Lại ở Nam Ninh tháng 7 năm 1957 để cùng hợp tác soạn thảo kế
hoạch cài cán bộ cộng sản nhằm phục vụ mưu đồ thôn tính Miền Nam. Kế
hoạch này gồm 2 chiến lược chính đó là làm suy yếu chính quyền VNCH bằng
các âm mưu gây bất ổn chính trị xã hội, hai là tấn công quân sự và tấn
công khủng bố. Tất cả các kế hoạch này lấy tinh thần ái quốc chống ngoại
xâm và bịa đặt vấn đề đàn áp Phật Giáo để lừa phỉnh lòng yêu nước và
đánh lận tín ngưỡng của người dân VN. Sự hiện diện trong chiến tranh của
bọn cộng sản Bắc Việt chỉ là bề ngoài, bên trong chính là Trung Cộng vẽ
kế hoạch từng giai đoạn và cung cấp vũ khí tiền bạc. Như vậy chính phủ
Ngô Đình Diệm đang đối đầu với cả một khối cộng sản lúc đó đang vô cùng
mạnh, và nguy hiểm hơn nữa là khi chính quyền Kennedy đồng ý trung lập
Lào, tạo đường giao thông cho Hà Nội liên tiếp đưa quân vào Miền Nam và
làm gia tăng các trận tấn công quân sự của Hà Nội vào Miền Nam.
Tuy
phải đương đầu với muôn vàn khó khăn như trên, nhưng Tổng Thống Ngô
Đình Diệm đã giữ cho hậu phương Miền Nam luôn thanh bình ấm no, người
dân đi lại an toàn, không có nạn đắp mô xe đò đánh du kích v.v
5/Ngoại giao:
với sự thành cộng vượt bực về chính trị kinh tế và khống chế được cộng sản, ổn định Miền Nam một cách nhanh chóng, ông đã được rất nhiều các nguyên thủ quốc gia cũng như các nhân vật chính trị nỗi tiếng trên thế giới ca ngợi, chẳng hạn tổng thống Lyndon Johson vào năm 1955 và 1961 đã ca ngợi tổng thống Ngô Đình Diệm là Churchill của Châu Á, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch nói rằng 100 năm nữa Việt Nam cũng chưa tìm được người tài đức như TT Ngô Đình Diệm. Tổng Thống Eisenhower gọi ông là Miracle man, ông được giải thưởng Magsaysay và đã tặng số tiền này cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Trước uy tín cá nhân và những thành tựu vượt bực về kinh tế quân sự, Miền Nam đã được trên 80 quốc gia công nhận, rất nhiều nước mời tổng thống Ngô Đình Diệm công du, và vinh dự nhất là chuyến viếng thăm Hoa Kỳ và New York của ông đã được đích thân TT Eisenhower ra tận máy bay đón và chào mừng bằng 21 phát súng đại bác.
với sự thành cộng vượt bực về chính trị kinh tế và khống chế được cộng sản, ổn định Miền Nam một cách nhanh chóng, ông đã được rất nhiều các nguyên thủ quốc gia cũng như các nhân vật chính trị nỗi tiếng trên thế giới ca ngợi, chẳng hạn tổng thống Lyndon Johson vào năm 1955 và 1961 đã ca ngợi tổng thống Ngô Đình Diệm là Churchill của Châu Á, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch nói rằng 100 năm nữa Việt Nam cũng chưa tìm được người tài đức như TT Ngô Đình Diệm. Tổng Thống Eisenhower gọi ông là Miracle man, ông được giải thưởng Magsaysay và đã tặng số tiền này cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Trước uy tín cá nhân và những thành tựu vượt bực về kinh tế quân sự, Miền Nam đã được trên 80 quốc gia công nhận, rất nhiều nước mời tổng thống Ngô Đình Diệm công du, và vinh dự nhất là chuyến viếng thăm Hoa Kỳ và New York của ông đã được đích thân TT Eisenhower ra tận máy bay đón và chào mừng bằng 21 phát súng đại bác.
Cho
đến bây giờ, thật hiếm hoi có một vị nguyên thủ quốc gia được Hoa Kỳ
đón tiếp với thủ tục cao quý nhất như vậy. Đó là niềm vinh dự cho cá
nhân TT Ngô Đình Diệm và cũng là niềm vinh dự cho chính thể VNCH và cho
chính chúng ta hôm nay.
Tông thống Ngô Đình Diệm được dân chúng tiếp đón trên đường phố New York
6/Thành công về mặt an ninh tình báo:
Theo cuốn hồi ký của Đại Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng, số cán bộ cộng sản gài tại Miền Nam là 60 ngàn tên, sau 3 năm dưới sự cầm quyền của chính phủ TT Ngô Đình Diệm con số này chỉ còn lại 5 ngàn. Tức là trong ba năm chính phủ đã tận diệt trên 90% số cán bộ nằm trong màng lưới gián điệp. Đây là sự tự thú mà chính cộng sản sau 1975 đã đưa ra, như vậy thành công vô cùng to lớn này là do ai? công lao này là do ai? Nếu không phải là của TT Ngô Đình Diệm và các ông như Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn, Dương Văn Hiếu và toàn bộ hệ thống tình báo công an mật vụ của Đệ Nhất Cộng Hòa. Hệ thống tình báo này đã bắt và loại trừ được 55 ngàn tên cán bộ cộng sản qua chiến dịch tình báo xâm nhập chiêu hồi và tố cộng, bẽ gãy âm mưu thâm nhập vào hệ thống quân sự dân sự và chính quyền VNCH. Hệ thống tình báo thời kỳ tổng thống Ngô Đình Diệm là một hệ thống vô cùng hữu hiệu và có công lớn với đất nước, đã phá vỡ một hệ thống tình báo cộng sản tinh vi và dày đặc, thế nhưng người ta vẫn lập đi lập lại như một thành ngữ: hệ thống mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo trong lúc kết luận điều tra của Liên Hiệp Quốc là hoàn toàn không tìm thấy bằng chứng đàn áp Phật Giáo của chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Theo cuốn hồi ký của Đại Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng, số cán bộ cộng sản gài tại Miền Nam là 60 ngàn tên, sau 3 năm dưới sự cầm quyền của chính phủ TT Ngô Đình Diệm con số này chỉ còn lại 5 ngàn. Tức là trong ba năm chính phủ đã tận diệt trên 90% số cán bộ nằm trong màng lưới gián điệp. Đây là sự tự thú mà chính cộng sản sau 1975 đã đưa ra, như vậy thành công vô cùng to lớn này là do ai? công lao này là do ai? Nếu không phải là của TT Ngô Đình Diệm và các ông như Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn, Dương Văn Hiếu và toàn bộ hệ thống tình báo công an mật vụ của Đệ Nhất Cộng Hòa. Hệ thống tình báo này đã bắt và loại trừ được 55 ngàn tên cán bộ cộng sản qua chiến dịch tình báo xâm nhập chiêu hồi và tố cộng, bẽ gãy âm mưu thâm nhập vào hệ thống quân sự dân sự và chính quyền VNCH. Hệ thống tình báo thời kỳ tổng thống Ngô Đình Diệm là một hệ thống vô cùng hữu hiệu và có công lớn với đất nước, đã phá vỡ một hệ thống tình báo cộng sản tinh vi và dày đặc, thế nhưng người ta vẫn lập đi lập lại như một thành ngữ: hệ thống mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo trong lúc kết luận điều tra của Liên Hiệp Quốc là hoàn toàn không tìm thấy bằng chứng đàn áp Phật Giáo của chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Liệu chúng ta có thể chấp nhận sự thật bị đánh tráo này không, hoặc để cho những kẻ cuồng tín tiếp tục vu khống?
Để
đánh giá thành công này, chúng ta phải xem xét đến cách cài người vô
cùng tinh vi của khối cộng sản có tên gọi là Lucy. Xin được điểm qua kế
hoạch Lucy của Xô Viết để chúng ta thấy rằng loại trừ được hệ thống cộng
sản nằm vùng không phải là một công việc dễ dàng mà là một công việc
muôn vàn khó khăn mà hệ thống công an mật vụ của chính phủ Ngô Đình Diêm
và ông Ngô Đình Cẩn đã đạt được.
Kế
hoạch Lucy là gì? Đó là kế hoạch mà sau cách mạng Nga 1917, Nga đã chỉ
thị cho các cán bộ cộng sản trẻ của mình ở lại trong hệ thống quân đội
và chính quyền Đức dù lúc đó chính quyền Đức bị bại trận và số lính tình
nguyện giải ngũ rất nhiều, chỉ còn lại khoảng 100 ngàn. Các cán bộ trẻ
này vẫn sống một đời bình thường hoàn toàn không hoạt động tình báo gì
cả. Nhóm này hiện diện trong các lãnh vực quân sự, dân sự và trong các
ngành quan trọng của chính quyền. Hai mươi năm sau, khi thế chiến II
bùng nổ 1939, các cán bộ cộng sản này trở thành những sĩ quan cao cấp
trong hàng ngũ quân đội Đức, tức là trở thành những tên cán bộ điệp viên
cộng sản cho Nga ngay trong chính quyền nổi tiếng sắt máu tàn bạo và
tinh vi của Hitler. Những tên sĩ quan cao cấp này của Đức đã cung cấp
toàn bộ tin tức tình báo kế hoạch hành quân cho Nga và đã góp phần tạo
nên chiến thắng cho Liên Xô trong trận đệ nhị thế chiến. Chính phủ Nhật
Hoàng cũng bị bại trận trước Nga cũng trong môt tình huống tương tự khi
một điệp viên cộng sản Đức trở thành một chuyên viên tín cẩn của chính
quyền quốc xã Hitler làm việc cho tòa Đại sứ Đức tại Tokyo.
Điểm
qua kế hoạch cài người Lucy để chúng ta thấy rằng việc loại trừ khoảng
55 ngàn điệp viên cộng sản tại Miền Nam mà Văn Tiến Dũng đã thừa nhận là
một kỳ công của hệ thống “Mật vụ Nhu Diệm” của ông Phan Quang Đông, Ngô
Đình Cẩn và Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung.
Trở lại vấn đề cán bộ tình báo nằm vùng tại Miền Nam Việt Nam:
Trong lúc chính quyền của TT Ngô Đình Diệm là một chính quyền mới khai sinh sau ngày chia đôi đất nước, chỉ thật sự có quyền lực và được Hoa Kỳ viện trợ đáng kể sau khi dẹp xong loạn Bình Xuyên Bảy Viễn và Nguyễn Văn Hinh, tức là 11 tháng sau khi về nước chấp chính, thì chính quyền CSVN lúc đó đã hoạt động được 24 năm, có ngân sách điều hành dồi dào và rất ổn định từ khối cộng sản quốc tế đặc biệt là Trung Cộng, nên đã tạo được một màng lưới gián điệp nguy hiểm nằm sâu và nằm sẳn trong tất cả các cơ quan dân sự, chính quyền, quân đội và tôn giáo của Miền Nam. Ngoài ra còn có thêm số cán bộ cộng sản từ Bắc được gởi vào Miền Nam qua làn sóng di cư 1954. Điều này giải thích lý do tại sao điệp viên cộng sản đã trở thành các đảng viên cao cấp trong các đảng phái quốc gia, trở thành các sĩ quan cao cấp, trở thành tướng lãnh, trở thành các nhà tu, nhà báo, các chính trị gia đối lập và thậm chí len lõi vào cả Dinh Độc Lập. Đó cũng giải thích lý do tại sao có quá nhiều tên cán bộ cộng sản giả dạng quốc gia mà chỉ sau 1975 dân chúng mới biết, chẳng hạn như Phạm Xuân Ẩn, Huỳnh văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ ni sư Huỳnh Liên, Thích Trí Quang v.v.
Trong lúc chính quyền của TT Ngô Đình Diệm là một chính quyền mới khai sinh sau ngày chia đôi đất nước, chỉ thật sự có quyền lực và được Hoa Kỳ viện trợ đáng kể sau khi dẹp xong loạn Bình Xuyên Bảy Viễn và Nguyễn Văn Hinh, tức là 11 tháng sau khi về nước chấp chính, thì chính quyền CSVN lúc đó đã hoạt động được 24 năm, có ngân sách điều hành dồi dào và rất ổn định từ khối cộng sản quốc tế đặc biệt là Trung Cộng, nên đã tạo được một màng lưới gián điệp nguy hiểm nằm sâu và nằm sẳn trong tất cả các cơ quan dân sự, chính quyền, quân đội và tôn giáo của Miền Nam. Ngoài ra còn có thêm số cán bộ cộng sản từ Bắc được gởi vào Miền Nam qua làn sóng di cư 1954. Điều này giải thích lý do tại sao điệp viên cộng sản đã trở thành các đảng viên cao cấp trong các đảng phái quốc gia, trở thành các sĩ quan cao cấp, trở thành tướng lãnh, trở thành các nhà tu, nhà báo, các chính trị gia đối lập và thậm chí len lõi vào cả Dinh Độc Lập. Đó cũng giải thích lý do tại sao có quá nhiều tên cán bộ cộng sản giả dạng quốc gia mà chỉ sau 1975 dân chúng mới biết, chẳng hạn như Phạm Xuân Ẩn, Huỳnh văn Trọng, Vũ Ngọc Nhạ ni sư Huỳnh Liên, Thích Trí Quang v.v.
Cuối
1956, khi thấy nền kinh tế và chính trị Miền Nam càng ngày càng vững
mạnh, cộng sản Hà Nội và Bắc Kinh cùng với Liên Xô đổi chiến lược tấn
công, đó là bên cạnh các cuộc tấn công quân sự, tổ chức chiến tranh
khủng bố ám sát bắt cóc trên toàn Miền Nam gây hoang mang lo sợ trong
dân chúng, đồng thời năm 1960, chúng đẻ ra tổ chức gọi là Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam được lãnh đạo bởi những tên cộng sản gộc pha trộn các trí
thức thiên tả của Miền Nam, chẳng hạn Nguyễn Hữu Thọ, Võ Chí Công,
Nguyễn Thị Định, Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, rêu
rao rằng đây là tổ chức do dân chúng Miền Nam nổi dậy chống chính quyền.
Thủ đoạn chính trị này đã lừa bịp một số trí thức Miền Nam như Trương
Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa, Đoàn văn Toại v.v hăng say hoạt động cho
chúng, đồng thời đã lừa bịp được dư luận thế giới rằng MTGPMN không phải
là tổ chức cộng sản mà chỉ là do dân Miền Nam nổi dậy.
Nói
chung, chính phủ VNCH không phải chỉ đối đầu với cộng sản Miền Bắc, mà
chính là đối đầu với Bắc Kinh và Nga, đòi hỏi chính phủ phải thấy xa
trông rộng và bắt buộc phải giới hạn một số quyền tự do bình thường để
khống chế số Việt Cộng nằm vùng ngụy trang trong các tổ chức báo chí,
tôn giáo, học sinh sinh viên, tôn giáo v.v. Trong đó đòi hỏi chính quyền
phải chọn người tài giỏi tâm đầu ý hợp trong quan điểm và đường lối
chống cộng.
Số
kết luận rằng chính phủ TT Ngô Đình Diệm độc tài, thì họ là những người
đã nhắm mắt bịt tai để không thấy rằng, dưới thời chính phủ của Tổng
Thống Ngô Đình Diệm người dân có được các quyền căn bản về tự do dân
chủ, đặc biệt là quyền tự do biểu tình tự thiêu chống đối thóa mạ chính
phủ, tuy vậy chính phủ vẫn thừa khả năng vô hiệu hóa mạng lưới tình báo
cộng sản. Đó là một điểm son khi điểm lại lịch sử.
Hãy nghe cộng sản ghi nhận về hệ thống an ninh tình báo mật vụ Nhu Diệm như sau:
“Từ 1957 đến 1958, tình thế dần dần đổi thay. Kẻ thù liên tục phá hoại
sự thi hành hiệp định Geneva, củng cố và tăng cường một cách tích cực
ngành an ninh quân sự và bộ máy hành chánh, từ trung ương xuống đến tận
thôn xóm, ám sất tàn bạo cán bộ và thật sự đã phá hủy đảng ta một cách
hữu hiệu…”
Chúng
ta phải công bằng rằng tất cả những thành công về giáo dục, y tế, kinh
tế, quân sự, ngoại giao, nội chính, an ninh tình báo của TT Ngô Đình
Diệm trong hoàn cảnh đất nước phải đương đầu với cộng sản Việt Nam,
chống Nga, chống Bắc Kinh, là vượt quá sự mong đợi của người dân Việt
Nam, vượt quá sự tiên liệu của Hoa Kỳ và các quốc gia khác. Uy tín của
Miền Nam và của cá nhân của Tổng Thống lên cao đến mức TT Eisenhower,
không những là vĩ nhân của Hoa Kỳ mà còn là vĩ nhân của thế giới, đã
thân chinh đón ông tận cửa máy bay với thảm đỏ trải dài từ chân cầu
thang và 21 phát súng đại bác chào mừng, là một chứng minh rõ ràng nhất
mà không ai có thể phản bác về uy tín và thành công quá lớn của Tổng
Thống.
Ỳổng Thống Ngô Đình Diệm được TT Eisenhower long trọng tiếp đón tại sân bay năm 1957
Tóm
lại, những người cho rằng TT Ngô Đình Diệm độc tài đàn áp Phật Giáo gia
đình trị, hầu như họ đã tránh né việc mà họ phải làm để thuyết phục dư
luận rằng họ đúng, đó là họ phải so sánh tình trạng đất nước trước khi
ông về, với một đất nước sau đó với 9 năm đất nước dưới quyền lãnh đạo
của ông, rồi sự suy yếu bệ rạc xảy ra ngay sau khi đất nước không còn
bóng dáng ông nữa. Những kẻ đánh giá sự nghiệp của một vị lãnh đạo quốc
gia mà chỉ đưa ra tình hình bất ổn chính trị của đất nước do Phong Trào
Phật Giáo Tranh Đấu gây ra vài tháng trước khi ông mất là một việc làm
gian trá đánh lận con đen, tự làm giảm giá trị của mình và không ai có
thể chấp nhận được. Vì vậy sự kết luận rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm là
người không có tài tham quyền cố vị là những lời nói vô giá trị mà không
lịch sử nào nhìn nhận.
Chu Mỹ Dung
Chu Mỹ Dung
0 comments:
Post a Comment