Chu Tất Tiến.
Khi biến cố 1963 xẩy ra, cũng như những người cùng thời vừa
mới xong bậc Trung Học, còn đang phân vân trước tương lai, tôi không có
một ý thức gì về chính trị, chỉ biết ngơ ngác nhìn những sự kiện thay
đổi dồn dập xẩy ra chung quanh mà không biết phản ứng như thế nào. Có
lần đang lang thang gần khu chợ Bến Thành, chợt thấy tiếng chân dồn dập,
tiếng người gọi nhau í ới, tôi nhìn lại thì thấy một nhóm chừng hơn hai
chục thanh niên nam nữ áo trắng học sinh chạy xớn xác tản ra khắp ngã
đường, tay vẫn còn cầm vài cái biểu ngữ nhầu nát. Cũng có lần, tôi chứng
kiến một cuộc biểu tình ngồi trên đường Lê Lợi gồm mấy vị tu sĩ Phật
Giáo và nhiều người thanh niên khác. Cảnh sát bao vòng tròn trong im
lặng, không có hành động gì, trong khi đó thì một bà trung niên cầm loa
tay hô khẩu hiệu um trời. Hò la một lúc thì bà tiến đến gần một anh cảnh
sát, giật mũ anh ném xuống đất. Người cảnh sát lẳng lặng cúi xuống
nhặt, phủ bụi, và đội lại lên đầu. Rồi thời gian sau, chán những cuộc
biểu tình, xuống đường lan rộng làm rối loạn sinh hoạt cả thành phố, tôi
bỏ đi khỏi thành phố, xuống miền Tây làm việc cho qua một thời khủng
hoảng.
Khi
nghe tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị giết, tôi xúc động và buồn bã
vì trong ký ức non trẻ của tôi, bài hát “Ai bao năm từng lê gót nơi quê
người” mà tôi thường hát trước giờ vào học vẫn âm hưởng trong tôi, và
hình ảnh vị Tổng Thống hiền hòa nhìn nghiêng trong một khung hình bầu
dục hiện lên trên màn hình trước giờ chiếu phim trong các rạp xi-nê đã
hiện diện trong tôi như hình ảnh một anh hùng dân tộc, người đã cứu
chúng tôi ra khỏi miền Bắc Cộng Sản, đã cho chúng tôi an cư trên miền
đất mới đầy Tự Do và no ấm. Khi trở về Saigon, tôi thấy không khí ngột
ngạt dễ sợ. Trong khu tôi ở, thỉnh thoảng có nhiều người lạ mặt đeo kính
đen lảng vảng, và nếu tôi có buột mồm hỏi về chuyện đảo chánh hồi
trước, thì người bên cạnh vội “suỵt” tôi, không cho nói nữa. Không khí
Saigon hồi đó rất căng thẳng, nhất là tại các khu Bắc Kỳ di cư như Tân
Sơn Nhất, Gò Vấp, Xóm Mới.. đâu đâu cũng có những kẻ đeo kính đen đi
chầm chậm trên các ngõ hẻm, liếc ngang liếc dọc… Trong khi đó, thì nhật
báo Saigon lại phát tài với những bài chửi chế độ cũ tan nát. Nhiều
chuyện dài kể về thâm cung bí sử của họ Ngô. Tôi nhớ có đọc nhiều câu
chuyện kể y như thật về cách làm tình của Bà Nhu với Tướng Đôn, với
những cận vệ của bà, và với Đại Sứ Mỹ. Những tường thuật thật lâm ly,
làm người đọc có cảm tưởng là tác giả đang nằm dưới gầm giường bà Nhu
nên chứng kiến thật rõ những cử chỉ, lời nói dâm đãng của bà, không sót
một chi tiết nào. Lại có chuyện ông Diệm và bà em dâu tình tứ với nhau,
chuyện ông Diệm đi chơi bời mặc dầu ông Diệm là đồng tính luyến ái….Có
một tờ báo nào đã viết ông Diệm bị hoạn! Kinh hoàng nhất là chuyện ông
Diệm giết người không gớm tay, từng lê máy chém đi khắp nơi, gặp đâu
chém đấy, cả ngàn mạng vô tội! Nhưng người đao phủ đáng gờm nhất chính
là ông Cẩn. Theo bài báo, thì đằng sau nhà ông Cẩn có một vườn cam, mà
dưới mỗi gốc cam là xác một Phật Tử, do đó, cam của ông Cẩn ngọt lạ
lùng! Rồi những hầm nhốt người bất đồng chính kiến, hầm giam dưới lòng
đất của Thảo Cầm Viên đầy đầu lâu, xương cốt…Cứ theo mấy tờ báo Loạn
thời đó, thì quả thật, gia đình họ Ngô là những kẻ tử thù của Dân Tộc,
cần phải tru di tam tộc!
Điều
lạ lùng, là cá nhân tôi, khi đọc những bài báo láo lếu đó, lại dửng
dưng như không, và còn nghĩ ngược lại nữa. Tôi khinh ghét những tác giả
đó. Có lẽ vì sự thổi phồng quá đáng đã gây nên phản ứng ngược với những
ai có chút suy nghĩ.
Rồi
thời gian trôi qua.. Tôi chứng kiến những vụ lật đổ nhau, tranh dành
chức chưởng, gây nên xáo trộn nặng nề về kinh tế. Mới hôm trước còn là
Thủ Tướng, Quốc Trưởng, Quốc Vụ Khanh, Bộ Trưởng.. mà ngày hôm sau đã ra
tòa, hoăc bị đẩy đi xa. Đất nước xáo trộn kinh hoàng. Saigon cứ chứng
kiến những cuộc xuống đường lộn xộn như những kẻ chạy đèn trên sân khấu
Hồ Quảng. Căng thẳng nhất là lần học sinh, sinh viên đòi Nguyễn Khánh
phải bỏ Hiến Chương Vũng Tầu cho ông ta đời đời kiếp kiếp làm Vua. Hôm
đó, tôi có tham dự, và thấy rõ Nguyễn Khánh, với bộ râu dê, cầm tờ Hiến
Chương vừa cười vừa xé trước mặt sinh viên. Từ lâu, tôi vẫn khinh bỉ
nhân vật này, vì đã nghe kể một lần ông ta tổ chức nhẩy đầm ở truồng tại
Đà Lạt, bị bà vợ lên bắt gặp, Nguyễn Khánh vù lên máy bay bỏ chạy.
Và
biết bao sự kiện thanh toán lẫn nhau, Tôn Giáo tấn công lẫn nhau..làm
cho dân chúng chán nản tột cùng. Riêng tôi, thì thất vọng não nề, khi
biết Việt Cộng đã nhân cơ hội Tướng Tá giành dật chức vụ, bỏ ngỏ mặt
trận, xóa Ấp Chiến Lược, nên đồng loạt tấn công những trận lớn, công đồn
đả viện, với vũ khí nặng làm quân Cộng Hòa lao đao. Đài phát thanh báo
tin chiến trường, với những bản báo cáo đếm xác ta, xác địch, mỗi ngày
đưa ra một con số lớn hơn..
Từ
những sự kiện như thế, trí óc ngây thơ với chính trị của một thanh niên
mới lớn đã dần dần trở thành dầy dạn. Tôi tự lắp ráp lại những sự việc
xẩy ra từ 1954 đến 1963, rồi giai đoạn kế tiếp, để nhận ra rằng chính
Tổng Thống Diệm mới thực sự là một Anh Hùng Dân Tộc, người đã bị bức tử
bởi bầy tôi hèn hạ, tham tiền, chối thầy, giết chủ.
Nhớ lại những ngày chiến dịch Bình Xuyên, hình ảnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm ôm Đại
Tá Dương Văn Minh rồi thăng cấp tại mặt trận, hình ảnh Tổng Thống thảo
luận trên phóng đồ hành quân mà Nguyễn Khánh đứng cung kính nghe lệnh,
tự dưng, tôi muốn phẫn nộ vì tâm địa phản trắc của con người. Nếu không
có Ngô Đình Diệm, thì Đỗ Mậu vẫn chỉ là tên lính khố vàng, Minh, Khánh
vẫn là những tên lính Tây…Nếu không có Ngô Đình Diệm, thì sòng bài khổng
lồ Đại Thế Giới vẫn còn là nơi giết hại bao gia đình, các khu Bình
Khang vẫn đầy dẫy trong Saigon, nơi điếm đĩ, ma cô lượn lờ như những
thây ma đầy phố. Đêm đêm, các chủ nhà hàng, tiệm ăn, tiệm buôn vẫn phập
phồng lo sợ chờ tiếng gõ cửa của tay chân bộ hạ Bẩy Viễn, Bình Xuyên,
với cái đinh 10 phân trong tay, đòi tiền mãi lộ, nếu không muốn cái đinh
dài kia xuyên qua óc. Những tên chỉ huy Cảnh Sát lại là những tên cướp
có quyền uy thấu trời, có sòng bài, ổ đĩ riêng mà không quyền lực nào
dám đụng tới. Các Tướng chỉ huy quân đội đa số là “bồi Tây”, nói tiếng
Việt không rành, miệng ngậm xì gà, tay chống ba toong, bụng đầy bơ Tây,
không có chút tinh thần Việt Nam nào. Và tại miền Tây, những chúa tể
hùng cứ một phương, Năm Lửa, Ba Cụt, Nguyễn Bình… là những ông Con Trời,
đặt ra luật lệ riêng, bắt dân phục vụ như nô lệ. Miền Nam ruộng thẳng
cánh cò bay vẫn còn những tên Hương Quản, Hương Cả… có quyền hành hạ dân
như chó, ngựa…Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một tay trác tuyệt, đã đương
đầu một lúc với hàng vạn thù trong, giặc ngoài. Một mặt thì lo dẹp loạn
Sứ Quân, thâu hồi quyền lực vào chính phủ trung ương để vãn hồi trật tự
quốc gia, mặt khác lo an sinh cho dân chúng, cải tổ hệ thống tiền tệ,
thuế khóa, xây dựng một nền văn hóa Dân Tộc, hỗ trợ cho các chương trình
Bình Dân Giáo Dục, dậy chữ và dậy nghề, thêm chương trình Công Dân Giáo
Dục vào học đường để dân chúng cùng tiến bộ, văn minh. Quan trọng nhất
là cải tiến Trường Hành Chánh do Tây Thực dân xây dựng từ 1952, biến
thành Học Viện Quốc Gia Hành Chánh để đào tạo môt lớp viên chức đầu
Tỉnh, đầu Quận, và các Trưởng Ty mọi ngành theo quỹ đạo Việt Nam, thay
đổi các viên chức từng quen với lề lối Tây cổ điển bằng các chuyên viên
tốt nghiệp từ Mỹ về. Từ đó, người dân không còn sợ công chức hơn cha mẹ
nữa. Với hệ thống hành chánh mới cải tổ, thủ tục hành chánh đã giúp dân
chúng thỏa mãn mọi nhu cầu trong đời sống hàng ngày một cách tốt đẹp. Về
phương diện quân đội, cũng thay dần lớp “Quan Sáu, Quan Năm, Quan Tư,
Quan Ba, Quan Hai, Quan Một” bằng Đại Tá, Trung Tá, Thiếu Tá… và cấp Úy,
chỉ huy các Hạ Sĩ Quan và binh sĩ theo đường lối mới. Tinh thần quân
đội lên cao, cho nên cuộc chiến chống Cộng, bảo vệ Tự Do đã dần dần tiến
tới thành công. Việt Cộng dần dần bị chính sách Ấp Chiến Lược làm cho
tan rã. Chúng phải rút dần vào rừng sâu, núi thẳm, không có tiếp trợ từ
dân chúng. Nếu không có ngày đảo chính 1963, có lẽ chỉ vài năm sau, Việt
Nam đã thống nhất với thế thượng phong về phía Việt Nam Cộng Hòa. Cũng
trong tình thế đó, Tổng Thống Diệm không quên ra sức củng cố các liên
lạc ngoại giao với nước ngoài, để được toàn thế giới công nhận. Cờ Việt
Nam Cộng Hòa bay khắp nơi. Tổng Thống Diệm đi đến đâu cũng được tiếp đón
với nghi lễ cao nhất dành cho quốc khách.
Sinh
hoạt xã hội cũng tiến bộ. Tham nhũng bị cấm chỉ. Các sinh hoạt vũ
trường, hủ hóa cũng bị giới hạn tối đa. Dân chúng sống trong tinh thần
Dân Chủ, Văn Minh rất thoải mái. Dưới chế độ Ngô đình Diệm, với chủ
trương Hữu Sản Hóa dân chúng, đời sống dân miền Nam thật thanh bình.
Chương trình Hữu sản Hóa Taxi đã biến bao dân làm thuê thành chủ chiếc
xe Taxi của mình mà không phải làm trâu ngựa cho chủ. Những chiếc xe
Taxi Renault cũ kỹ nhả khói um trời được thay thế bằng loạt Dauphine
xinh xắn. Song song với việc hữu sản hóa công nhân, thì chương trình
Người Cầy Có Ruộng đã giúp bao thợ cấy trở thành người chủ của miếng
ruộng của mình. Chính phủ đã bỏ tiền ra cho các nông dân được mua 3 mẫu
đất rồi trả góp khiến cho chế độ tá điền, cầy thuê bị bãi bỏ dần. Các
Khu Trù Mật đã lần lượt ra đời, mang lại cơm no áo ấm cho dân nghèo. Một
khi mà nông thôn ổn định, thì thành phố phát triển nhanh hơn. Tôi nhớ
những năm 54-63, chị tôi làm công chức, anh tôi từ Thiếu Úy lên Trung
Úy, đóng ở Long Xuyên, mẹ tôi đi buôn bán nhỏ, mà gia đình chúng tôi
sống thoải mái, đầy đủ tiện nghi, không bao giờ nghe phàn nàn về vật
giá, muốn ăn phở, uống bia thì ra tiệm lúc nào cũng được. Ngoài ra, mẹ
tôi còn để dành được khá nhiều, tiền anh tôi gửi về thì cất để dành đám
cưới cho anh. Đó là những ngày huy hoàng nhất cho miền Nam, kể cả hơn
một triệu người Bắc di cư đã dần dần có cơ ngơi đầy đủ như ở quê nhà.
Trong
những ngày bận rộn vô cùng ấy, Tổng Thống Diệm lại vẫn đi thăm dân
chúng, hỏi thăm từng người xem đời sống có khá không. Ông rất ghét những
kẻ xu nịnh lấy điểm, chỉ biết dàn cảnh lấy lòng cấp trên. Có lần, ông
đến một khu trù mật, thấy trồng chuối đầy hai bên đường, nhưng lá chuối
thì héo. Ông tiến thẳng đến, cầm hai tay lắc lắc thân chuối, thấy nhẹ,
ông nhổ ngay lên. Hóa ra, tay tỉnh trưởng xu nịnh ra lệnh cho trồng gấp
rút chuối để lấy lòng Tổng Thống, không ngờ ông phát giác ra được, tay
tỉnh trưởng mất chức ngay.
Tính
ông rất thẳng. Nghe kể lại là có lần ông ra Vũng Tầu, nghỉ ngơi ở Bạch
Dinh Vũng Tầu, nhìn qua cửa sổ về phía biển, thấy một rừng mai do Bảo
Đại trồng rất đẹp nhưng lại chắn tầm nhìn ra biển. Ông chỉ cười nói
“rừng mai này che mất tầm nhìn ra biển”. Tay Thị Trưởng Vũng Tầu nghe
thấy, muốn lấy điểm với Tổng Thống, nên ra lệnh chặt hết rừng mai. Lần
sau, khi Tổng Thống đến nghỉ ở Bạch Dinh thì không thấy rừng mai nữa.
Ông tìm hiểu và biết được lý do, nên nổi cơn thịnh nộ, gọi Thị Trưởng,
và khi thấy tay nịnh bợ kia vừa bước vào, Tổng Thống chụp ngay cái gạt
tàn thuốc ném vào mặt và quát: “Ai cho mi phá cái di tích lịch sử đó?”
Dĩ nhiên, sau đó, thì có Thị Trưởng mới, nhưng rừng hoa mai mãi mãi
không còn.
Cũng
theo Nhật Ký Đỗ Thọ, tùy viên (Phật Giáo) của Tổng Thống, thì trong một
lần kinh lý Trà Vinh, trước khi máy bay đáp xuống phi trường, Tổng
Thống đột nhiên thấy trưng toàn cờ Công Giáo! Ông cũng nổi giận ghê gớm,
cầm gậy đập ầm ầm xuống sàn phi cơ và nói: “Ai cho nó
trưng cờ Công Giáo? Tỉnh này toàn là Phật Giáo mà?” Rồi ông ra lệnh cho
máy bay bay vòng vòng chờ dẹp hết cờ Công Giáo đi, ông mới chịu cho đáp
xuống. Tay Tỉnh Trưởng nịnh bợ đó dĩ nhiên là chịu một phen mắng mỏ, nếu
không có Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục năn nỉ, nhận lỗi là đã ra lệnh cho
Tỉnh Trưởng thi hành, thì ông Tỉnh đó đã bay chức.
Hồi
đó, có một số cấp Tá vì muốn nịnh Tổng Thống nên đã cải đạo sang Công
Giáo, những tưởng phen này thăng chức. Nhưng rồi, nghe nói, những vị đó
đã uổng công, vì Tổng Thống có tính ghét ai nịnh bợ, nên không chiếu cố
đến ai mới vào đạo Công Giáo cả. Khi biết tin một vị linh
mục thân thiết với Tổng Thống đã lợi dụng sự quen biết này mà lớn lối
với các cấp Sĩ Quan khác, Tổng Thống đã ra lịnh cấm ông linh mục này vào
dinh cho đến khi vị linh mục này năn nỉ, xin lỗi và hứa không tái phạm
nữa, ông mới được phép vào, nhưng cũng chỉ trong phạm vi giới hạn.
Cũng
vì tính tình liêm khiết, cương trực đó, cũng như sự tận tình phục vụ
đất nước mà Tổng Thống Diệm đã được thế giới kính nể. Tổng Thống
Eishenhower đã gọi ông là “Miracle Man” và đã đón tiếp ông, một lãnh tụ Á
Châu nhỏ bé, tận phi cơ. Khi Tổng Thống Diệm đi xe hơi vào thủ đô, ông
đã được đón tiếp bằng hàng triệu triệu những bông hoa giấy từ mọi
Bin-đinh, cửa hàng của thủ đô Hoa Kỳ. Điều muốn nói là tính ông ngay
thẳng, không sợ người bạn Khổng Lồ và cũng là Ân Nhân của mình, nên mỗi
khi bắt tay người Mỹ, ông cứ để thẳng tay xuống, bắt người Mỹ cao kều
kia phải cúi đầu trước ông. Nhiều tấm hình chụp các chính khách Hoa Kỳ
cúi thấp người trước một ông Tổng Thống thấp bé vẫn còn lưu trữ tại Quốc
Hội Mỹ.
Việc
ông chịu ơn người Mỹ nhưng không chấp nhận Mỹ đóng vai trò “cha, chú”
của mình đã thể hiện trong nhiều cơ hội, nhất là việc ông không chịu cho
Mỹ đổ quân vào Việt Nam ào ạt. Theo suy nghĩ của ông đã được nói với
các cộng sự viên, thì một khi người Mỹ cho lính vào ào ạt, thì Việt Nam
sẽ mất đi chính nghĩa chống Cộng. Do đó, ông luôn cự tuyệt việc Mỹ yêu
cầu cho đổ quân thêm vào, chỉ cho có một số lượng giới hạn các cố vấn
quân, dân sự Mỹ mà thôi. Điều đó làm cho Kenedy tức giận, và đã cho soạn
chính sách “thay ngựa giữa dòng”, nhưng Đại Sứ Mỹ Frederick Nolting
cương quyết không chịu, vì sau một thời gian làm việc với Tổng Thống
Diệm, Đại Sứ Nolting đã nhận thấy ông Diệm là người yêu nước thật sự
đáng kính. Khi bị Nhà Trắng ép buộc, Nolting đã từ chức, và Kenedy lập
tức cử ngay một chuyên viên đảo chính là Cabot Lodge sang để tính chuyện
lật đổ Diệm. Âm mưu này, Tổng Thống Diệm biết rõ, nhưng không sợ.
Tôi
còn nhớ đã nghe thấy trong một lần họp Quốc Hội Lưỡng Viện, có sự hiện
diện của Cabot Lodge, Tổng Thống Diệm đã đọc một bài diễn văn dài, đại
khái nói là “Có một người bạn của chúng ta ở bên kia bờ đại dương xa
lắc, nhưng lại cứ muốn lèo lái chúng ta theo ý của bạn đó. Chúng ta
cương quyết không để cho chuyện đó xẩy ra…” Nghe tới đó, Cabot Lodge hậm
hực đứng dậy và ra về.
Cabot
đã từng thử thách Tổng Thống Diệm bằng cách yêu cầu Tổng Thống đến phi
trường Tân Sơn Nhất tiễn đưa 6 thi hài lính Mỹ chết trận về nước. Tổng
Thống từ chối, nói “sinh mạng của người Mỹ đáng quý, nhưng vì tôi không
đến tiễn đưa linh cữu của các binh sĩ của tôi được, thì tại sao tôi lại
phải tiễn đưa hài cốt lính Mỹ về nước?” Cabot đòi phải có Ngoại Trưởng
Việt thay thế. Tổng Thống không nhận lời và cũng không từ chối. Khi
Cabot đứng chờ ở phi trường rất lâu mà không thấy ai đại diện Việt Nam
đến, ông ta nổi nóng, đọc một bài diễn văn dài, đổ tội cho Việt Nam là
vô ơn, bạc bẽo. Từ đó, mà Cabot mới tiến hành gấp rút việc đảo chánh
Tổng Thống Diệm, để thực hiện việc đổ quân tràn lan vào Việt Nam.
Theo
cuốn “The Ambassador” viết dưới tên một nhà văn Mỹ lạ, mà người ta biết
là tên hiệu của Cabot Lodge, vì đó là cuốn tự thuật lại vai trò của một
Đại Sử Mỹ trong suốt quá trình đảo ch1nh Tổng Thống Diệm, thì tác giả
cho biết, “Diệm là người liêm khiết, sống thanh bần, và món xa xỉ duy
nhât mà Diệm xài là một điếu xì gà, ngoài ra, ông chỉ nằm giường phản gỗ
không có nệm, đầu giường có một bàn quỳ đọc kinh, trên tưởng có treo
một hình Thánh Giá đơn sơ. Diệm không thích ăn uống linh đình, món ăn mà
Diệm vẫn hay ăn thường là món cá kho Huế và rau cải mà thôi.” Cuốn này
cũng kể lại sự liên hệ giữa Tổng Thống và cô em dâu rât khô khan. Có lần
Tổng Thống đã đuổi bà Nhu ra khỏi cuộc họp, và nói “Chỗ này không phải
là chỗ của thím!”, bà Nhu phải len lén đi ra vì bà vẫn luôn kính sợ Tổng
Thống và chưa bao giờ dám trái lệnh anh chồng. Cũng trong cuốn này, Đại
Sứ Mỹ đã tưởng trình lên Kenedy những điều căng thẳng giữa Tổng Thống
Diệm và người Mỹ, nhất là sau sự việc Phật Giáo miền Trung có bàn tay
của CIA nhúng vào mà Diệm vẫn khăng khăng không chịu nước lép với Mỹ,
rồi Đại Sứ đã xin chỉ thị sau cùng. Sau khi biết chắc rằng không thể
lung lạc được Diệm, Bạch Cung đã gửi bức điện vẻn vẹn có mấy chữ nhưng
lại là lưỡi dao của đao phủ thủ, kết thúc tính mạng của một gia đình
Tổng Thống cũng như số phận của dân Việt: “Nuôi một con chim mà nó không
hót theo ý chủ, thì nuôi để làm gì” (What was the use of raising a bird
that did not sing as the owner ordered?”)
Nhận
được lệnh này, Cabot Lodge đã bật đèn xanh cho nhóm tướng lãnh ham tiền
làm phản và Tổng Thống Diệm đã bị giết chỉ vì tính cương trực của một
người yêu nước, hoàn toàn không phải bị giết vì vụ Phật Giáo. Theo Cụ
Cao Xuân Vỹ, tính yêu nước và tinh thần dân tộc đã theo Tổng Thống Diệm
đến giây phút cuối. Khi bọn phản tướng tấn công vào dinh, Cụ Cao Xuân Vỹ
đã đề nghị Tổng Thống ra lệnh cho những đơn vị trung thành tấn công bọn
phản, nhưng Tổng Thống cương quyết không chịu. Tổng Thống quát: “Lấy
quân đội dẹp quân đội thì còn chính nghĩa gì?” Cụ Vỹ nài nỉ, “nếu không
dẹp bọn phản, thì không lẽ để tụi nó giết mình sao?” Tổng Thống quát lần
này to hơn: “Chết thì đã sao?”
Và
như thế, một vị anh hùng Dân Tộc đã ngã xuống, cho Tổ Quốc tồn vinh.
Điều đau lòng nhất chắc Tổng Thống Diệm mang đi khi ông lìa trần là mối
lo Cộng Sản thôn tính miền Nam. Trước ngày đảo chánh chừng một tháng,
ông đã nói với các tướng lãnh ở Tổng Tham Mưu rằng “chế độ này còn nhiều
khuyết điểm, nhưng nếu sụp đổ, thì miền Nam chắc chắn sẽ mất vào tay
Cộng Sản”. Điều đó, quả thực đã xẩy ra như lời tiên liệu.
Sau khi Tổng Thống Diệm mất, miền Nam rơi vào tình trạng hỗn quân, loạn
quan, rồi chế độ độc tài, tham nhũng của Thiệu ra đời, lệ thuộc hoàn
toàn vào viện trợ của ngoại bang, cho nên khi quân ngoại quốc và Mỹ rút
đi, thì nước Việt hoàn toàn bị nhuộm đỏ. Giờ đây lại sắp mất vào tay
Trung Cộng.
Dân
Việt Nam đã hơn 4000 năm kiêu hùng với những chiến công lừng danh thế
giới, bây giờ chỉ còn là nhóm thỏ con bên cạnh những con thú ăn thịt
đồng loại là Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đang khúm núm dâng thỏ
cho con cọp đói Trung Cộng. Mối nhục này biết đến thế hệ nào mới trả
được? Thật đau lòng cho lịch sử Việt Nam.
Nhân
ngày giỗ Tổng Thống Ngô Đình Diệm sắp đến, chúng tôi, những người Việt
Nam biết ơn Người, xin kính dâng lên Người một đóa hoa lòng, nguyện xin
Đấng Tối Cao cho linh hồn Người Anh Hùng Dân Tộc được yên nghỉ ngàn thu.
Chu Tất Tiến. 26 tháng 10 năm 2013
********
Tôi
là một cây hoài Ngô. Cái hoài Ngô của tôi khác nhiều với anh em khác và
không khác bao nhiêu với những lập luận của bạn Đinh Nguyễn về nhiều
điểm; nhất là bạn có lý khi cho rằng kẻ thân cọng truớc
1975 không có nghĩa là đáng cho chúng ta thù ghét; lại cần tỏ ra cảm
thông nhất là khi họ đang đứng về cùng chiến tuyến với ta;
chứng tỏ họ đã thức tỉnh. Một nguời hiểu biết và không quá thiên về
“cảm tính” thì không thể trở thành cực đoan. Những ai còn mang tâm địa thù hận với kẻ chống Đệ I VNCH, cần soát xét lại tính cách chính đáng về hành vi của mình.
Chỉ
có điều đáng buồn là khi giật sụp chế độ, ít ra những kẻ trách nhiệm
phải cố sức làm khá hơn, ngon hơn chế độ củ. Trái lại đàng nầy, đã không
làm nên cơm cháo gì, còn để miền Nam lọt vào tay bọn cuớp. Kẻ
mà nguời viết (NV) cố trách, không phải những ai chống ông Diệm; nhưng
là đám tuớng lãnh, nghe theo Cabot Lodge, nhận tiền Mỹ, nhúng tay vấy
máu vị lãnh tụ đáng kính của mình. Cá nhân tôi, không thể tuởng tượng
nỗi, nếu có phản một lãnh tụ gian ác, tham nhũng cũng đáng, đàng nầy là
vị lãnh tụ đạo đức, hiền lành, thành tín và rất mực yêu dân; kẻ mình
từng kính phục… và rồi chỉ vì một chút lợi lộc hay áp lực mà ra tay bội
phản. Đến nay, mấy tuớng với bàn tay vấy máu còn sống sót ,
có ai nói lời xin lỗi với 80 triệu dân đang rên siết, đói nghèo…Nhất là
dân quê rất nhớ ơn ông Diệm đã yêu thuơng lo lắng cho họ. NV có nên gọi
lối hành xữ như thế của các tuớng bội phản, là “hèn kém” không?
Mẹ
tôi là một bà già quê miền trung, không biết chữ. Lúc nghe tin ông Diệm
bị đám tuớng lãnh giết, bà nói chắc chắn là có bàn tay của Mỹ. Bà làm
một bài thơ trong trí nhớ chuởi Mỹ và đám tuớng lãnh không tiếc lời. Bài
thơ lúc bà đọc cho ai muốn chép, dài trên 120 câu, vần điệu nghe giống
thể lục bát; thực ra là thể tự do thì đúng hơn, vì bà đâu có học chữ nho ngày nào, chỉ nghe anh em của bà đọc thơ mà bà trở thành nhà thơ bất đắt dĩ hồi nào không hay. Tôi còn nhớ một số câu đầu:
“Việt Nam ơi, sao không nghỉ không suy,
Nhờ ai hết cảnh hàn vi? (1)
Nhờ ai đem lại những gì biết không?
Nhờ ai khai mở ruộng đồng?
Lúa khoai bắp sắn, canh trồng (2)khắp nơi!
Cụ Ngô là phúc do Trời!
Từ ngày có cụ người người ấm no!
Hồ sông, đầy dẫy thuyền đò!
Chỡ chuyên xuôi ngược, tiếng hò thâu đêm!
Dân vui với cuộc sống êm đềm,
Nhờ không thực cọng (3), hết điềm (4) tai ương!
…”
Chú
thích: (1) hàn vi (nghèo túng), (2) canh tác và trồng trọt, (3) thực
dân và cọng sản, (4) điềm là dấu chỉ; ý nói thực dân và cọng sản là dấu
chỉ của bất hạnh, khốn khổ.
Nói tóm: Chúng ta cần cảm thông với những kẻ
hoài Ngô. Họ có lý để “Hoài”; Ngay đám CS cũng hoài Ngô còn bạo hơn.
Nếu ông Diệm không đáng để “Hoài”, thì CS đâu lo âu ngày đêm, sợ đám
hoài Ngô trở lại cầm quyền hoặc sợ nguời dân mang Đệ I VNCH ra so sánh
với chế độ CS.
Thieu Nhi (08-21-2013)
0 comments:
Post a Comment