Một khi cụm từ “Tạm Thời” không còn nữa thì phải hiểu “giải pháp mang tính quá độ, sẽ phải chuyển từ trạng thái “tạm thời” sang “vĩnh viễn”, theo đòi hỏi của ông Lý Khắc Cường... “Giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc” mà không hề nói đến “số phận” của quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Cộng chiếm năm 1974 và 8 đảo đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị Trung Cộng đánh chiếm năm 1978 là “vô tình” hay “cố ý” không đụng chạm đến chủ quyền “tự vẽ” của Bắc Kinh về hình Lưỡi Bò
- 9 đoạn được Trung Cộng trình cho Liên Hiệp Quốc năm 2009, chiếm từ 80
đến 85% diện tích trên 3 triệu cây số vuông Biển Đông bao gồm cả 2 Quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa...
Chuyến
thăm Việt Nam 2 ngày (13-15/10/2013) của Thủ tướng Trung Cộng Lý Khắc
Cường (Li Keqiang) đã đánh dấu Việt Nam chính thức đầu hàng áp lực “hợp tác cùng phát triển” ở Biển Đông, phù hợp với chủ trương 12 chữ “chủ quyền vẫn là của ta, gác tranh chấp, cùng khai thác” của Lãnh tụ Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) đưa ra từ năm 1979.
Tuyên bố chung của hai nước công bố tại Hà Nội ngày 15/10 “Về hợp tác trên biển” viết:
“Hai bên nhất trí tuân thủ nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”,
sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt
Nam - Trung Quốc, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị,
tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận
được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ (**) không ảnh
hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên bao gồm tích cực nghiên
cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển. Theo tinh thần đó, hai
bên đồng ý thành lập Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển
trên biển trong khuôn khổ Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh
thổ Việt Nam - Trung Quốc.”
(**
Chú thích của tác giả bài viết về cụm từ “ QÚA ĐỘ”: Chuyển tiếp từ
trạng thái này sang trạng thái khác, nhưng đang ở giai đoạn trung gian
(theo Đại từ điển Tiếng Việt-Bộ Giáo dục-Đào tạo, xuất bản năm 1999)
Đáng chú ý là có sự “khác biệt quan trọng” giữa “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển” hai nước ký kết ở Bắc Kinh ngày 11/10/2011 và bản Tuyên bố ở Hà Nội hôm 15/10/2013.
Trong Thỏa hiệp 6 điểm
được ký giữa Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn, và
Trương Chí Quân, Thứ trường Bộ Ngoại giao Trung Cộng), có sự chứng giám
của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, Hồ Cẩm Đào thì có chữ “Tạm Thời” ghi trong điểm 4
nguyên văn như sau:
(4)
“Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên
biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi,
tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời
mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm
việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển
theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.”
Điểm (2) viết: “Trên
tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên
quan khác như lịch sử..., đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của
nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất
đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý
và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và
lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp
trên Biển.”
Như vậy, rõ ràng cụm từ “Tạm Thời” đã
bị “xóa đi” trong Thỏa thuận ở Hà Nội, sau các cuộc thảo luận giữa Thủ
tướng Trung Cộng Lý Khắc Cường với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (13/10) và
các ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng; Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trong cùng ngày 14/10 (2013).
Và một khi cụm từ “Tạm Thời” không còn nữa thì phải hiểu “giải pháp mang tính quá độ, sẽ phải chuyển từ trạng thái “tạm thời” sang “vĩnh viễn”, theo đòi hỏi của ông Lý Khắc Cường?
Không có bất cứ giải thích nào từ phía Chính phủ Việt Nam về sự thay đổi “rất quan trọng” này.
Nhưng báo
chí Trung Cộng, kể cả Tân Hoa Xã (Xinhua News Agency) và Đài Phát thanh
Quốc tế Trung Hoa (China Radio International, CRI) đều ca ngợi sự thành công của Thủ tướng Lý.
CRI dịch lại tin của Tân Hoa Xã viết rằng:
“Thủ tướng Lý Khắc Cường cho biết, là láng giềng hữu nghị, duy trì quan
hệ Trung-Việt phát triển lành mạnh và ổn định phù hợp với lợi ích của
nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, phát triển và phồn thịnh của khu
vực, hai bên cần phải nắm vững định hướng lớn chiến lược của quan hệ
hai nước, kiên trì đi con đường hợp tác cùng có lợi cùng thắng. Nỗ lực
sáng tạo đổi mới tư duy, giải quyết vấn đề Nam Hải do vấn đề lịch sử để
lại duy nhất trong quan hệ hai nước... Nhận thức chung và lợi ích chung
giữa hai nước Trung-Việt lớn hơn rất nhiều bất đồng”
Tuy nhiên khi hai bên sử dụng nhóm chữ “giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc” mà không hề nói đến “số phận” của quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Cộng chiếm năm 1974 và 8 đảo đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị Trung Cộng đánh chiếm năm 1978 là “vô tình” hay “cố ý” không đụng chạm đến chủ quyền “tự vẽ ” của Bắc Kinh về hình Lưỡi Bò
(còn gọi là Đường 9 Đoạn) được Trung Cộng trình cho Liên Hiệp Quốc năm
2009, chiếm từ 80 đến 85% diện tích trên 3 triệu cây số vuông Biển Đông
bao gồm cả 2 Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa?
Bản Tuyên
bố mơ hồ này cũng không nói gì đến việc Trung Cộng đã biến các vị trí
chiếm được của Việt Nam thành các căn cứ phòng thủ quân sự kiên cố trong
vùng Trường Sa, không kể đã chiếm thêm đá Vành Khăn từ năm 1994, gần
khu Bãi Cỏ Rong có tranh chấp giữa Phi Luật Tân và Trung Cộng.
Như vậy phải chăng phía Việt Nam còn mặc nhiên nhìn nhận cái chính quyền hành chính “tự chế” Tam Sa của Trung Cộng thành lập từ ngày 24 tháng 7 năm 2012 gồm Hoàng Sa, Trường Sa và Trung Sa (bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough mà Trung Cộng tranh chấp với Phi Luật Tân)
Không chỉ ở Vịnh Bắc Bộ
Một điểm khác không kém quan trọng là Thủ tướng Lý Khắc Cường, theo Tân Hoa Xã, còn yêu cầu hai nước thảo luận “hợp tác cùng phát triển” ở những vùng biển khác, ngoài vùng biển của Vịnh Bắc Bộ (Beibu Bay).
Họ Lý nói
làm như thế, Trung Quốc và Việt Nam sẽ chứng minh cho thế giới thấy hai
nước có khả năng và thiện chí bảo vệ hòa bình ở Nam Hải, tăng cường lợi
ích chung của hai nước và giảm thiểu những bất đồng.
(“He also called on the two countries to study the possibilities of joint development of a wider area of the sea.
By
doing so, China and Vietnam would demonstrate to the world that they
have the capability and the wisdom to safeguard peace in the South China
Sea, expand their common interests and reduce divergences”. --Xinhua,
13/10/2013)
Tuy nhiên Tuyên bố chung của hai Chính phủ chỉ tập trung nói về hợp tác ở vịnh Bắc Bộ:
“Hai
bên nhất trí tăng cường chỉ đạo đối với các cơ chế đàm phán và tham vấn
hiện có, gia tăng cường độ làm việc của Nhóm công tác vùng biển ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ và Nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong các
lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần
tự tiệm tiến, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa
Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại
vùng biển này và trong năm nay khởi động khảo sát chung ở khu vực ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng
biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Nhanh chóng thực hiện các Dự án hợp tác
trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển như Hợp tác nghiên cứu quản lý
môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ...”
Nội dung
này không mới mà chỉ đi vào hành động tiếp theo sau Thỏa hiệp giữa hai
nước trong chuyến thăm Trung Cộng hồi tháng 6 (2013) của Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang.
Theo thỏa
hiệp ký tại Bắc Kinh ngày 19/6 (2013) thì hợp tác giữa Tập đoàn Dầu khí
Việt Nam và Tổng Công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (China
National Offshore Oil Corporation, CNOOC) sẽ mở rộng từ 1541 cây số
vuông lên thành 4076 cây số vuông. Và hiệu lực của Thỏa thuận Thăm dò
Chung có hiệu lực đến hết năm 2016.
Hiệp định
vịnh Bắc Bộ giữa hai nước ký kết ngày 25/12/2000 dành cho Việt Nam được
53.23% và Trung Quốc được 46.77% diện tích Vịnh, nhưng không có bằng
chứng gì xác nhận tỷ lệ này vì không có cơ quan quốc tế hay nước thứ 3
nào được làm công việc đo đạc.
Theo báo
Nhân Dân ngày 02/07/2004 thì diện tích vịnh Bắc Bộ có khoảng 126.250 km2
(36.000 hải lý vuông) chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km (176 hải
lý), nơi hẹp nhất ở cửa Vịnh rộng khoảng 207,4 km (112 hải lý).
Vì chưa có
bất cứ cuộc điều tra quốc tế chuyên nghiệp nào về Hiệp ước vịnh Bắc Bộ
năm 2000 nên hoài nghi Việt Nam bị thiệt càng được nhiều người đồng ý vì
Trung Cộng không chấp nhận yêu sách của Việt Nam muốn thương thuyết dựa
trên Công ước Pháp-Thanh 1887, vì Bắc Kinh sợ Việt Nam sẽ được lợi hơn.
Có một điểm
rất rõ là Trung Cộng đã đòi và được là chia Vịnh làm 2, lấy biên giới
từ “điểm nhô ra” của đảo Hải Nam đến bờ biển của Việt Nam làm chuẩn đo
để chia đôi. Vì vậy các chuyên gia của Quỹ nghiên cứu Biển Đông của Việt
Nam khi phân tích đường trung tuyến trong vịnh, đã kết luận sau khi họ
“vẽ các đường tròn có tâm là 21 điểm phân định thì bên Việt Nam bị lấn
từ 3 cho đến 27 hải lý ở khu vực các đảo Vĩnh Thực, đảo Trần, đảo Thanh
Lam, đảo Cô Tô tỉnh Quảng Ninh, đảo Bạch Long Vĩ thuộc Hải Phòng, vùng
cửa Ba Lạt, bờ biển Ninh Bình và khu vực nam Hà Tĩnh đối chiếu với bờ tây và bờ nam đảo Hải Nam của Trung Quốc.” (Tài liệu Bách khoa Toàn thư mở)
Do đó, khi
vùng khai thác dầu khí chung hai nước Việt-Trung được ấn định nằm ngay
trên đường ranh giới phân chia hai vùng biển trong Vịnh Bắc Bộ, như đã
công bố tại Bắc Kinh hôm 19/6/2013, thì rõ ràng Trung Cộng đã dành được quyền khai thác bên trong phần biển của Việt Nam.
Thắng lợi về ai?
Sau cuộc họp ở Hà Nội ngày 13/10 (2013), Tuyên bố chung cũng cho biết:
“Hai
bên nhất trí kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động
làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, sử dụng tốt đường dây nóng quản lý,
kiểm soát tranh chấp trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai nước, đường dây
nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển
giữa Bộ Nông nghiệp hai nước, xử lý kịp thời, thỏa đáng các vấn đề nảy
sinh, đồng thời tiếp tục tích cực trao đổi và tìm kiếm các biện pháp có
hiệu quả để kiểm soát tranh chấp, duy trì đại cục quan hệ Việt - Trung
và hòa bình, ổn định trên Biển Đông.”
Nhưng căn
cứ vào “ngôn từ” của bản Tuyên bố chung và những điểm còn “nhiều nghi
vấn” về điều được gọi là “hợp tác cùng phát triển” giữa hai nước thì rõ
ràng phần thắng đã nằm trong tay Thủ tướng Trung Cộng Lý Khắc Cường sau 2
ngày thăm Việt Nam để gọi là “phát
triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung
Quốc theo phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định
lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt,
đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Bởi lẽ khi “tình trạng hiện hữu” ở Biển Đông được “giữ nguyên” và Việt Nam cũng đã cam kết “không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp” thì Hoàng Sa không còn là vấn đề “được nhắc đến” như Bắc Kinh vẫn nói với Việt Nam như thế trong các cuộc nói chuyện.
Và nếu Việt
Nam vẫn bình chân như vại trước những hoạt động mà Trung Cộng coi như
“ao nhà của mình” ở vùng Trường Sa như đánh cá, lập trại nuôi hải sản,
xây dựng bến cảng, thao diễn quân sự, kiêm soát an ninh, thám hiểm, khảo
cứu khoa học như Trung Cộng đang làm thì cam kết “không có hành động
làm phức tạp, mở rộng tranh chấp” như ghi trong Tuyên bố Hà Nội ngày
15/10/2013 có lợi cho Trung Cộng hay Việt Nam?
Ngoài vấn
đề trên biển, hai bên còn đạt được các thỏa thuận phát triển giao thông
nối liền hai nước, một số đường mới huyết mạch ngoài lợi ích kinh tế còn
quan trọng về mặt chiến lược.
Nếu chẳng may xảy ra chiến tranh giữa đôi bên thì chỉ trong vài giờ quân lính Bắc phương đã có mặt ở khắp nước theo các dự án:
- Đường bộ cao tốc Lạng Sơn - Hà Nội.
- Đường bộ cao tốc Móng Cái - Hạ Long.
- Đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.
Hai bên còn “nhất
trí thực hiện tốt “Bản ghi nhớ về việc xây dựng các khu hợp tác kinh tế
qua biên giới”, tích cực nghiên cứu đàm phán ký kết “Hiệp định thương
mại biên giới Việt - Trung” (sửa đổi) nhằm phát huy vai trò tích cực
thúc đẩy hợp tác và phồn vinh ở khu vực biên giới hai nước.”
Tuyên bố chung cũng nói: “Phía
Việt Nam sẽ tạo thuận lợi, hỗ trợ sớm hoàn thành Khu công nghiệp Long
Giang (tỉnh Kiên Giang) và Khu công nghiệp An Dương (thành phố Hải
Phòng).”
Nên biết
tại khu Công nghiệp Long Giang (tiếng Trung Hoa: Long Jiang IPD hoặc
LJIP) có 12 Nhà đầu tư thì có đến 8 đến từ Trung Cộng chuyên sản xuất:
Ống đồng, dầu ăn, bao bì gỗ, mô-tơ, vật liệu xây dựng, túi xách, sợi.
4 Nhà đầu
tư còn lại thuộc Nhật sản xuất dây cáp điện; 2 Công ty Hàn Quốc sản xuất
đồ gia dụng và thức ăn gia súc và 1 Công ty đến từ Tân Gia Ba sản xuất
dầu cám.
Tuyệt nhiên không có công ty nào của Việt Nam.
Theo Bách
khoa Toàn thư thì hai người Trung Hoa, Ông Weng Ming Zhao là Chủ tịch
Hội đồng Quản trị và Ông Yu Suo làm Tổng giám đốc.
Khu Công
nghiệp An Dương là công trình hợp tác và đầu tư của Công ty Liên hợp
Thâm Việt đến từ Tỉnh Quảng Đông (Trung Cộng) với số vốn 175 triệu
dollars chuyên về lĩnh vực được gọi là “công nghệ cao”.
Khu công
nghiệp này, theo Đài Tiếng nói Việt Nam (28/12/2008) đã được khởi công
xây dựng trên diện tích 800 mâu đất thuộc huyện An Dương (Hải Phòng),
nhưng chậm tiến bộ vì trục trặc trong vấn đề thu hồi đất của dân và bồi
thường.
Khu công nghiệp An Dương được Đài này mô tả: “Là
dự án đặc biệt quan trọng được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ 2 nước
Việt Nam và Trung Quốc, đáp ứng yêu cầu, xu thế phát triển bền vững cho
các khu công nghiệp trong thời kỳ mới. Đây còn là dự án có quy mô lớn
đầu tiên mà các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào thành phố Hải Phòng.”
Trước ngày
Thủ tướng Lý Khắc Cường đến Hà Nội (13/10/013), Ông Nguyễn Thiện Nhân,
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Chủ tịch Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt-Trung đã đích thân đến
Hải Phòng ngày 17/6/2013 để thúc đẩy xúc tiến mau hơn dự án An Dương.
Như vậy,
tất cả các dự án về giao thông, biên giới và xây dựng hai Khu Cộng
nghiệp Long Giang và An Dương đều có lợi cho các công ty đầu tư và nhà
nước Trung Cộng. Cho đến bây giờ, chưa ai biết cái lợi dành cho Việt Nam
sẽ được bao nhiêu và liệu có bao nhiêu công nhân người Việt được vào
làm cho các dự án kinh tế và xây dựng này?
Có điều
chắc chắn là dù trong tình huống nào, người Việt Nam cũng chỉ “đi làm
thuê” (gia công) cho các công ty nước ngoài vì nhà nước đã bị “vướng
mắc” với các dự án kinh tế có vốn đầu tư và chủ trương “đã dự thầu thì
sẽ thắng” của phía Trung Cộng!
Ngoài ra hai bên cũng đồng ý:
“Nhất
trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính, tích cực tạo điều kiện
và khuyến khích các tổ chức tài chính hai bên hỗ trợ dịch vụ tài chính
cho các dự án hợp tác song phương về thương mại và đầu tư. Trên cơ sở
Hiệp định thanh toán bằng đồng bản tệ song phương trong thương mại biên
giới ký giữa ngân hàng trung ương hai nước năm 2003, tiếp tục nghiên cứu
việc mở rộng phạm vi thanh toán bằng đồng bản tệ, thúc đẩy trao đổi
thương mại và đầu tư hai bên. Hai bên quyết định thành lập Nhóm công tác
về hợp tác tiền tệ giữa hai nước, để nâng cao khả năng phòng ngừa rủi
ro tài chính tiền tệ của hai bên, duy trì ổn định và phát triển kinh tế
hai nước và khu vực. Tăng cường điều phối và phối hợp đa phương, cùng
nhau thúc đẩy hợp tác tài chính tiền tệ khu vực Đông Á.”
Và cuối cùng, hai bên cũng đồng ý:
“Sẽ
đẩy nhanh thi công, thúc đẩy sớm hoàn thành dự án Cung Hữu nghị Việt –
Trung” và “Thỏa thuận về việc thành lập Viện Khổng Tử tại Trường Đại học
Hà Nội.”
Như vậy thì
nên hiểu như thế nào về “thành công” của phía Trung Cộng sau chuyến
sang thăm Việt Nam lần này của Thủ tướng Lý Khắc Cường?
Là người
Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài, có ai biết Việt Nam đã mất Biển
Đông hay nước Việt Nam đã bị “Tầu hóa” với những đồng ý vô điều kiện của
Lãnh đạo Việt Nam?
(10/013)
0 comments:
Post a Comment