Vụ
cưỡng chế đất ở đầm Cống Rộc, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng với
sự nổi dậy của người cựu bộ đội-kỹ sư nông nghiệp-nông dân Ðoàn Văn Vươn
và em trai là Ðoàn Văn Quý làm rúng động dư luận chưa kịp lắng xuống
thì vụ Văn Giang đã nổ ra.
Khác với vụ Tiên Lãng, vụ cưỡng chế đất ở
xã Văn Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên vào ngày 24 tháng 4, 2012
đã kết thúc với “thắng lợi tưng bừng” thuộc
về phe nhà nước. Bao gồm giới tư bản đỏ và các quan tham cấu kết với tư
bản nước ngoài, chỉ đạo cho quan chức địa phương, hàng ngàn công an,
cảnh sát cơ động, dân phòng, côn đồ… thực hiện.
Và phe thua trận là những người nông dân nghèo khổ đã vùng lên trong nỗi tuyệt vọng để cố giữ được miếng đất, nồi cơm của họ.
So với Tiên Lãng và nhiều vụ cưỡng chế
đất khác, vụ Văn Giang có quy mô lớn từ cả lực lượng cưỡng chế lẫn bị
cưỡng chế, theo dư luận, khoảng hai ngàn nông dân đã chống lại hơn ba
ngàn cảnh sát cơ động, dân phòng các loại. Mức độ thô bạo cũng hơn
nhiều, với lựu đạn cay, súng nổ, dùi cui quật, rồi những cảnh người dân
bị đánh đập dã man…
Tiếng la khóc cứ như thời chiến tranh bạo loạn hay thời cải cách ruộng đất.
Lịch sử Việt Nam kể từ khi đảng cộng sản
ra đời đã luôn luôn đi theo một con đường vòng rất oái oăm, cứ như một
trò chơi tai ác của tạo hóa.
Hơn bảy thập niên trước, hàng triệu triệu
người nông dân VN đã nghe theo lời tuyên truyền đường mật của những
người cộng sản, dùng bạo lực cách mạng để lật đổ nhà nước phong kiến,
tay sai của thực dân. Với niềm tin sẽ xây dựng một chính quyền “của dân,
do dân, vì dân,” một nhà nước với lý tưởng xã hội chủ nghĩa không có
giàu nghèo, công bằng cho tất cả mọi người.
Thực tế cái chính quyền ấy, cái xã hội ấy
như thế nào sau năm 1954 ở miền Bắc và sau 30 tháng 4, 1975 trên cả
nước, cho đến nay mọi người đều quá rõ.
Nhưng oái oăm là cái đảng và nhà nước
cộng sản ấy nay đang quay lại dùng “bạo lực cách mạng” với chính những
người nông dân, lực lượng chủ yếu góp phần giành được giang sơn ngày hôm
nay cho họ.
Ðảng và nhà nước cộng sản đang thực hiện
ngược lại những gì họ đã xúi bẩy người nông dân trước kia: đứng lên
giành lại ruộng đất từ tay tầng lớp bị gọi là địa chủ nhà giàu, còn bây
giờ thì họ đang cướp lại đất từ tay nông dân để giao cho bọn nhà giàu tư
bản đỏ thời nay.
Dân tộc VN đã bị đảng cộng sản dẫn đi một
con đường vòng rất xa tốn hao hơn bảy mươi năm, trải qua hai cuộc chiến
tranh trong đó có một cuộc chiến huynh đệ tương tàn đầy đau đớn. Lại
thêm hai cuộc chiến nữa với các “đảng cộng sản anh em” Cam Bốt và Trung
Hoa để cuối cùng trở lại điểm xuất phát còn tệ hơn lúc đầu.
Tức là thay một nhà nước phong kiến lệ
thuộc vào thực dân bên ngoài bằng một chế độ về nhiều mặt không khác gì
nhà nước phong kiến nhưng là vua tập thể và độc tài, độc ác hơn, đối phó
với dân và với dư luận quốc tế ranh ma thủ đoạn hơn gấp nhiều lần. Mặt
khác, lại vẫn lệ thuộc vào nước khác, nhưng ở một mức độ nặng nề hơn,
nguy hiểm hơn.
Riêng với tầng lớp nông dân, chỉ bằng cụm
từ “đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lý” nhưng thực chất
việc không công nhận quyền tư hữu ruộng đất là cái lý do để nhà nước
muốn thu hồi, cướp lại đất từ tay người nông dân lúc nào là thu hồi,
muốn đền bù bao nhiêu là đền bù.
Nhìn vào hầu hết những cuộc cưỡng chế đất
đai từ trước đến nay, ai cũng có thể thấy người nông dân bị o ép như
thế nào, và cái nhà nước này thực sự đang của ai do ai vì ai.
Khi nào còn tiếp tục không công nhận
quyền tư hữu đất đai thì những vụ kiện cáo, biểu tình, cuối cùng là
cưỡng chế thô bạo như ở Tiên Lãng, Văn Giang sẽ còn tiếp tục diễn ra dài
dài. Mâu thuẫn giữa nông dân với chính quyền cứ thế âm ỉ, lòng tin của
người dân với chính quyền tiếp tục bị xói mòn trong khi bộ mặt của nhà
nước VN với thế giới tiếp tục lem luốc vì những vụ cưỡng chế đầy bạo lực
với chính người dân của mình.
Và điều đó hoàn toàn bất lợi cho chính
cái nhà nước này, trong bối cảnh họ còn đang phải đối phó với đủ thứ
nguy cơ từ cái họa bành trướng từ phương Bắc cho đến phong trào dân chủ
trên thế giới.
Bên cạnh đó, nhiều nhà báo, giới chuyên
môn cũng đã phân tích đến những khía cạnh nguy hại của việc thu hồi đất
nông nghiệp cho những dự án xây dựng nhà máy công nghiệp, khu du lịch
thương mại hay sân golf…
Là tự làm mất đi cái thế mạnh của VN –
một quốc gia lẽ ra hoàn toàn có thể phát triển bền vững bằng nông-ngư
nghiệp. Vừa nuôi được dân vừa xuất khẩu kiếm ngoại tệ trong bối cảnh thế
giới thường xuyên khan hiếm, khủng hoảng lương thực chỗ này chỗ khác.
Giới chuyên môn cũng cảnh báo về hiện
tượng đất nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói riêng đang bị sụt
giảm. Một phần vì những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, mặt
khác, do hiện tượng lấy đất nông nghiệp chuyển sang phi nông nghiệp dưới
nhiều hình thức khác nhau.
Từ ông Bộ Trưởng Cao Ðức Phát cho đến ông
Thứ Trưởng Bùi Bá Bổng của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn trong
những phiên họp Quốc Hội cũng như khi trả lời báo chí đều nhấn mạnh đến
nguy cơ sụt giảm đất trồng lúa. Cũng như việc làm sao cố gắng giữ được
3.8 triệu ha đất trồng lúa cho nông dân.
Một con số quá khiêm tốn nếu so với Thái
Lan, cũng là một quốc gia xuất khẩu gạo mạnh, dân số chỉ có khoảng hai
phần ba VN nhưng lại giữ được 10 triệu ha đất lúa. Còn VN, với cái kiểu
luật rừng từ trên xuống dưới cộng với lòng tham vô đáy của các quan chức
và giới tư bản đỏ chỉ biết quyền lợi của mình như lâu nay thì chuyện
giữ 3.8 triệu ha cũng đã là khó.
(Theo bài “Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Bùi Bá
Bổng: Xây dựng những ‘cánh đồng mẫu lớn,’” báo SGGP; “Bộ trưởng Bộ
NN-PTNT: Quyết giữ 3.8 triệu ha diện tích đất trồng lúa,” Diễn đàn Doanh
nghiệp).
Trong khi đó thì những vụ cưỡng chế đất
cho những dự án phi nông nghiệp vẫn tiếp tục diễn ra, mà vụ Văn Giang là
ví dụ nóng hổi. Tức là không chỉ coi nhẹ quyền lợi của hàng triệu nông
dân mà cả lợi ích quốc gia lâu dài để phục vụ cho quyền lợi của các phe
nhóm có tiền và có quyền.
Lịch sử VN từ ngày có đảng và nhà nước
cộng sản VN là những sai lầm nối tiếp sai lầm, gắn liền với những cụm từ
gợi lên những ký ức kinh hoàng. Từ “cải cách ruộng đất,” “nhân văn giai
phẩm,” vụ án xét lại, thuyền nhân, cải tạo tư sản, cải tạo công thương
nghiệp, v.v… và bây giờ là “cưỡng chế, giải phóng mặt bằng”!
Mỗi sự sai lầm như vậy đều gây ra tai
ương ngay tức thì cho hàng vạn hàng triệu con người, và di họa tính bằng
nhiều thập niên cho xã hội, đất nước.
Những vụ cưỡng chế sẽ khiến hàng ngàn
nông dân mất đất, phải bỏ làng ra đi nhập vào đội quân đông đảo không
nhà cửa không nghề nghiệp ổn định ở các thành phố lớn. Từ đó đừng hỏi
tại sao những vấn nạn xã hội như cướp giật, móc túi, gái điếm, nạn buôn
người, giết người… ngày càng tăng.
Hoặc đừng hỏi tại sao một lúc nào đó VN
đang từ một quốc gia xuất khẩu gạo thuộc hàng nhất nhì thế giới lại bị
rơi vào tình trạng khủng hoảng lương thực, phải đi nhập khẩu thêm gạo
hoặc các sản phẩm nông nghiệp. Hoặc trong một vụ cưỡng chế nào đó, chỉ
cần có người chết là mọi chuyện có thể trở thành không kiểm soát được.
Một chế độ có thể sụp đổ nhanh chóng nhiều khi chỉ từ một cuộc bạo động
bộc phát do phẫn uất.
Nhưng thói thường một nhà nước độc tài
cầm quyền quá lâu thường trở nên quá tự tin vào sức mạnh và tuổi thọ của
chế độ, nên ngày càng khinh suất trong cách ứng xử với nhân dân, với
công luận, cộng thêm thói tham lam vô độ ngày càng muốn vơ vét nhiều
hơn… sẽ không thể biết dừng lại đúng lúc.
Từ xưa đến nay, cái chết của mọi chế độ
độc tài nói chung và các nhà nước do đảng cộng sản lãnh đạo nói riêng
thường chỉ do chính họ tự đào hố chôn mình mà thôi!
0 comments:
Post a Comment