VÕ ĐẠI TÔN
Trong thời gian vừa qua, súng đạn và khói lửa khởi đầu từ cuộc chiến Iraq lan dần đến các cuộc vùng dậy ở Trung Đông, đặc biệt là tại Lybia và Ai Cập, trên các đài truyền hình ngoại quốc gợi lại trong tâm não tôi biết bao cảnh tượng hào hùng xen lẫn tang thương của cuộc chiến Việt Nam, tưởng rằng đã đi vào quá khứ lãng quên, nhưng vẫn còn ẩn hiện đâu đây qua từng nhịp thở của kiếp sống lưu vong. Như trước đây, khi lực lượng liên quân Anh-Mỹ tiến vào thủ đô Baghdad, dân chúng đã hò reo nhảy múa, kéo sập tượng đài Saddam Hussein đã từng ngạo nghễ đứng nơi công viên thành phố suốt mấy chục năm. Rồi đến tổng thống Ai Cập, tổng thống Lybia, kẻ thì bị bắt giữ, người thì bị tiêu diệt, gia đình tan nát, chế độ độc tài sụp đổ toàn diện. Những người mẹ già phủ kín khăn đen cài lên chiếc áo trận của dân quân vùng dậy từng nhánh hoa dại, các em bé khẳng khiu ôm hôn người lính cách mạng với nụ cười ngây thơ còn sót lại trên môi… Trong khói lửa vẫn chan hòa nước mắt của mừng vui được thấy Tổ Quốc hồi sinh.
Các cộng đồng Á Rập lưu vong tại các nơi trên thế giới cũng vội ra đường phất cao ngọn cờ quê hương cội nguồn, mừng reo chiến thắng bạo tàn, cầm tay nhau mà ước hẹn ngày về. Tôi ngậm ngùi nhìn những hình ảnh ấy, lòng nao nao mơ ước rồi mai đây tôi sẽ được hòa chung vào dòng sông Dân Tộc để chảy về quê hương bên kia bờ đại dương. Tôi sẽ được vô vàn diễm phúc đứng bên cạnh đường lịch sử vinh quang rợp bóng cờ Vàng để ngắm nhìn các Mẹ, các Chị, các Em, mỉm cười trong ân nghĩa Tình Người : “Gặp nhau biết nói gì hơn – Cười vui trong gió tóc vờn cờ bay…”.
Suốt 37 năm qua, tuy công cuộc Phục Quốc chưa thành, nhưng chúng tôi đã không thẹn lòng vì đã đấu tranh miệt mài bằng ngọn lửa quả tim chân chính, tuy có nhiều lúc cảm thấy cô đơn trên hành trình hơn một lần trở lại Quê Hương để thực sự chiến đấu, chứ không phải hưởng thụ cá nhân trên nỗi lầm than của toàn Dân Tộc. Ngày tôi từ Úc Châu qua Thái Lan rồi băng rừng vượt suối trở về Đất Mẹ (Thái Lan, Cam Bốt, Lào, năm 1981) để bắt liên lạc cùng anh em quốc nội, đã sa cơ trong một tai nạn bất ngờ, và bị giam cầm tra tấn hơn 10 năm tại Hà Nội, nỗi cô đơn chỉ gói trọn trong bốn vách xà lim biệt giam. Sau khi ra khỏi ngục tù (1992), tuổi trung niên không còn nữa, trên những nẻo đường tiếp tục đấu tranh tại hải ngoại cho đến hôm nay – nép mình theo hành trình của Tổ Quốc – mặc dù bên cạnh tôi cũng có nhiều chiến hữu đồng tâm, cùng chung tổ chức, nhưng nỗi cô đơn riêng tận đáy lòng lúc nào cũng bám víu theo tôi.
Như lời trong bài thơ “Tiếng chim bên dòng thác Champy” tôi đã “viết” bằng trí nhớ trong tù từ những năm tháng bị biệt giam mỏi mòn : “Đường ta đi đã lên đèo xuống dốc – Hành trang nghèo mà nặng gánh cô đơn…”. Lạc loài giữa lòng thiên hạ. Dường như cuộc chiến giành lại Tự Do cho quê hương dân tộc này đã được “ủy nhiệm” cho một số ít người tự nguyện, còn biết đau niềm đau của Tổ Quốc !.
Bao nhiêu lần tôi đã tự nghĩ rằng muốn trị lành một vết thương trên cơ thể con người thì ngoài việc chọn đúng thuốc còn cần đến yếu tố thời gian. Nhưng đối với vết thương tâm hồn, vết thương của người dân mất Nước, thì không có loại dược phẩm nào có thể chữa trị, và thời gian tuy có giúp phôi pha phần nào nhưng nỗi thao thức và trằn trọc vẫn âm thầm sống mãi trong từng huyết quản. Nước mắt vẫn chảy về đêm trong ác mộng lao tù, trong tiếng kêu thảng thốt, nhất là đối với thế hệ cao niên tuổi hạc càng cao thì nỗi nhớ thương quê cha đất tổ càng quằn quại tâm tư. Tôi có quê hương bên kia bờ đại dương mà không được về thăm như một người dân Tự Do ! Hơn một phần tư thế kỷ đã lạnh lùng trôi qua, thêm một thế hệ Việt Nam nữa đang trưởng thành, những oan khiên cay nghiệt của một giai đoạn lịch sử đã được chứng minh bằng máu của Dân Tộc. Những bí ẩn của cuộc chiến trong thế chiến lược toàn cầu đã được giải mã và hơn hết, những tội ác của người cộng sản đã được minh chứng bằng những bản thống kê trung thực trước lương tâm nhân loại, do Liên Hiệp Quốc phổ biến chứ không phải do những người quốc gia chống cộng ngụy tạo. Hơn hết, mỗi người trong chúng ta đã là nạn nhân và chứng nhân thời đại. Rồi, tôi lại đứng lên từ những nỗi cô đơn của một người tự nguyện kháng chiến suốt hơn 30 năm qua, và lại bước đi dưới ngọn lửa soi đường của con tim không bao giờ được phép quên niềm đau của Tổ Quốc.
Không nhiều thì ít, chúng ta đã bao lần nêu lên các câu hỏi : – Làm gì ? Làm thế nào ? Ai làm ? Xây dựng từ đâu ? Bị đánh phá từ đâu ? Bao giờ hành động ? Lấy gì tiếp ứng ? Bằng cách nào để thành công ? … Những câu hỏi triền miên ấy, trong lúc bị “tứ bề thọ địch” (an ninh bản thân, hoàn cảnh khốn khó của gia đình, bị xuyên tạc mạ lỵ bôi nhọ vô căn cứ, nỗi cô đơn thầm kín, tuổi già sức yếu, phương tiện hoạt động eo hẹp, “lực bất tòng tâm” …), biết hỏi ai và chia sẻ cùng ai ? Không ai có thể giải đáp những vấn đề này, chỉ có việc “bỏ cuộc” là xong. Nhưng lương tâm không cho phép mình “bỏ cuộc”. Chỉ có mỗi người trong chúng ta cần phải quay về với tự thể một lần nữa, nhiều lần nữa, để cật vấn cái Ý Nguyện của riêng mình. Ý Nguyện không phải chỉ biết “Muốn thành công” mà không chịu Hành Động. Xin hãy xét lại cái Tâm của mình để đừng bao giờ đặt cái Ta lên trên Tổ Chức chân chính (nếu có, và cần phải có để tạo Thế và Lực chung), và đừng đặt Tổ Chức lên trên Tổ Quốc. Có như vậy thì mới mong hợp đoàn để cùng nhau hành động, rút ngắn con đường đi đến thành công chung cho toàn Dân Tộc, chứ không phải cho riêng mình và phe nhóm. Đã 37 năm trôi qua rồi !
Chúng ta hãy bình tâm nhìn lại sự kiện ngày 30.4.1975 và không ngồi trong phòng lạnh nơi xứ người để trút lỗi cho ai, rồi phủi tay không làm gì cả. Chán chường, mạnh ai nấy sống. Thông thường sự kiện Tháng Tư Đen được giải thích là ngày sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa và là ngày “đại thắng” của Cộng Sản Bắc Việt. Nhưng ngoài hai cách nhìn tổng quát thông thường này, còn một cách nhìn thứ ba sẽ chờ thời gian và hành động của chúng ta và Toàn Dân đem đến kết luận. Trong thập niên 60, khi viếng thăm Saigon, được hỏi làm thế nào để chiến thắng Cộng Sản thì Moshé Dayan, danh tướng độc nhãn Do Thái đã trả lời như sau : “Rồi đây Bắc Việt sẽ thất bại hoàn toàn khi họ chiếm được miền Nam”. Lúc bấy giờ ít người hiểu được ý nghĩa sâu xa của câu trả lời này. Nhưng đến nay, trải qua hơn một phần tư thế kỷ, mọi việc đã rõ ràng. Ngay cá nhân tôi, khi sáng tác bài thơ “Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn còn đây” vào năm 1972 (đã được Nguyễn Ánh 9 phổ nhạc), ba năm trước ngày chúng ta mất miền Nam , tôi đã tiên đoán là “Mẹ lòng đau, phương Bắc chiếm phương Nam ”. Chiếm chứ không phải thắng. Theo biểu kiến bên ngoài thì đúng như người cộng sản đã huyênh hoang tuyên truyền là đã đánh cho “Mỹ cút, Ngụy nhào” nhưng thực sự là Mỹ không “cút” mà phải nói cho đúng bối cảnh lịch sử toàn cầu là Mỹ ngưng không tiếp tục viện trợ miền Nam Việt Nam vì lý do thay đổi chiến lược chính trị của họ, và lực lượng Việt Nam Cộng Hòa không thất trận, chỉ ở thế bị bắt buộc ngưng chiến đấu để đổi lấy sự chấm dứt chiến tranh lạnh giữa hai cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ và sự giàn xếp “dưới bàn hội nghị” giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh. Đất nước chúng ta, ở vào thế nhược tiểu, bị làm nạn nhân của cuộc sắp xếp chiến lược toàn cầu. Đấy là nỗi oan khiên của lịch sử Dân Tộc mà chúng ta đành phải chấp nhận trong nước mắt và máu hận. Từ sự chấm dứt chiến tranh lạnh dẫn đến sự sụp đổ toàn diện của khối Xã Hội Chủ Nghĩa do Liên Xô lãnh đạo. Riêng về chế độ Cộng Sản Việt Nam , thời gian thống trị độc đảng của họ đã đem đến cho toàn dân một sự thật, như học giả Nguyễn Hiến Lê đã viết : “Muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ đó. Đó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi và có lẽ hơn 90% người dân miền Nam rút ra được từ năm 1975 đến nay”. Bài học đó là thấy rõ và là nạn nhân của sự hủy diệt toàn bộ về đạo lý và cuộc sống của Con Người dưới chế độ cộng sản. Ngoài ra, chúng ta còn được đọc và suy nghĩ thêm về những lời phát biểu của các lãnh tụ cộng sản đã ly khai, thức tỉnh lương tâm còn sót lại, sau gần hết một đời người phục vụ cho đảng bạo lực và dối trá. Như cựu Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên Xô, Gorbachev đã nói : “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng Sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng : Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”. Như cố Tổng Thống Nga Boris Yeltsin đã tuyên bố : “Cộng Sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải nó”. Như cựu Bí Thư đảng Cộng Sản Nam Tư Milovan Djilas : “20 tuổi mà không theo Cộng Sản là không có trái tim, 40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản là không có cái đầu”. Cũng như Tổng Thống Nga Putin : “Kẻ nào tin những gì Cộng Sản nói là không có cái đầu. Kẻ nào làm theo lời của Cộng Sản là không có trái tim”. Một sử gia lừng danh của Pháp, ông Margolin, từng ủng hộ Cộng Sản Bắc Việt, đến nay cũng phải tuyên bố : “Nhưng đến bây giờ thì không phải một mình tôi mà tôi tin rằng còn có nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của Cộng Sản”. Nữ tài tử điện ảnh Jane Fonda của Hoa Kỳ, một nhân vật nổi tiếng về các phong trào phản chiến, triệt để ủng hộ Hà Nội, nhưng đến năm 1988 đã phải tuyên bố cùng báo chí : “Tôi sẽ còn hối tiếc cho đến ngày tôi chết về những điều tôi đã làm trong các phong trào phản chiến. Hành động của tôi đã làm hại biết bao chiến sĩ. Đó là hành động sai lầm kinh khủng nhất mà tôi đã phạm. Đúng là tôi đã không biết suy nghĩ”. Còn biết bao nhiêu lời tuyên bố phản tỉnh, cùng những bằng chứng cụ thể khác, viết cho đến trăm nghìn trang không hết về chế độ bạo tàn và gian dối của Cộng Sản Việt Nam từ mấy chục năm qua và ngày nay trên quê hương chúng ta.
Giờ đây, cho dù đã muộn, chúng ta cũng cần xác định lại ý nghĩa của Lòng Yêu Nước và Hành Động Cứu Nước trong khi những biến chuyển về tôn giáo và lòng dân quốc nội đang tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi cho công cuộc đấu tranh chung vì Tự Do và Dân Chủ, Nhân Quyền. Từ lòng Yêu Nước đến hành động Cứu Nước, là một quãng đường xa với nhiều gánh nặng, đòi hỏi nhiều hy sinh. Con đường Hành Động của người Việt yêu Nước chân chính, nếu không được hướng dẫn bởi ý thức Cứu Nước, được rèn luyện qua các giai đoạn lịch sử, nếu không được trải bằng Hạnh Hy Sinh, không được soi bằng Đạo Sống Việt, thì chỉ là những đường đi không tới đích. Thế giới không có một trường học nào dạy ta cứu Nước cũng không có cường quốc nào vô tư giúp ta cứu Nước. Người cộng sản đã đồng hóa Lòng Yêu Nước với Yêu Mình, Yêu Đảng, Yêu Xã Hội Chủ Nghĩa. Kết quả là họ đã đưa Toàn Dân vào hố thẳm diệt vong ngày hôm nay, về mọi phương diện từ vật chất đến tâm linh trong đời sống con người trên quê hương chúng ta. Kẻ gọi là “chiến thắng” đã thẳng tay bóc lột, đàn áp, trả thù, hơn cả ngoại bang xâm lược. Người “thua trận” đành phải âm thầm chịu đựng, nhịn nhục trong lao tù và tìm mọi cơ hội bỏ Nước ra đi nếu may còn sống sót.
Chúng ta cần bình tâm nhận xét khách quan một cách tổng quát về Thế Mạnh và Yếu giữa hai chiến tuyến quốc gia – cộng sản hiện nay.
Chế độ Cộng Sản.
1. Thế Mạnh nhất thời:
Còn nắm được sự độc tôn cai trị và là thành viên của Liên Hiệp Quốc, được một số nước viện trợ, giao thương.
Còn nắm được hai lực lượng mạnh nhất là quân đội và công an với khả năng tập trung nhanh để đàn áp các phong trào quần chúng nổi dậy.
Còn nắm được trọn vẹn tài sản chìm và nổi của đất nước. Chưa kể đến số ngoại tệ khổng lồ hơn hàng chục tỷ đô la (Mỹ kim) mỗi năm do người Việt hải ngoại gửi về, gián tiếp nuôi sống chế độ cộng sản.
2. Thế Yếu:
Mất Lòng Dân vì đã để lộ chân tướng tuyên truyền lừa bịp, không còn ai muốn lao vào cuộc chiến một cách cuồng nhiệt, bất chấp mọi hy sinh như trước đây.
Ở vào thế thủ vì phải lo bảo vệ những tài sản đã cướp đoạt được, vì lẽ đó đã mất đi quyền chủ động trong mọi cuộc đấu tranh.
Đảng Cộng Sản đã bị đồng đô la của Mỹ phá hoại từ ngày gọi là Đổi Mới đến nay, tranh chấp nội bộ vì quyền lợi ngày càng trầm trọng, không còn là một khối “độc thể” có sức mạnh như trước nữa.
Giá trị chiến đấu “Vì Đảng” của đảng viên ngày càng sụt giảm, vào đảng để kiếm quyền lợi chứ không phải vì lý tưởng. Trước đây họ không có gì cho nên cần phải chiến đấu để có. Đến nay thì lại có quá nhiều tài sản riêng tư, do tham nhũng hối lộ, đặc quyền đặc lợi, cho nên chỉ lo bảo vệ những gì đã tước đoạt được từ người dân, từ miền Nam . Tham nhũng đã trở thành “quốc nạn”, thậm chí đã tạo ra tư tưởng : – Tham nhũng từ đảng mà ra, diệt tham nhũng là diệt đảng, cho nên họ chỉ còn cố bám víu vào đảng để được tiếp tục tham nhũng, chứ không phải bị nhồi sọ về ý thức hệ của đảng.
Mất điểm tựa vững chắc là khối Cộng Sản Quốc Tế, từ khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Bắc Hàn và Cu-Ba thì đang hấp hối, đói nghèo kiệt quệ. Họ phải dựa vào Trung Cộng để sống còn, cam tâm làm chư hầu để bảo vệ quyền lợi của đảng, và vì như thế, họ càng để lộ mặt hèn hạ Bán Nước, gây căm phẩn trong Lòng Dân.
Phía quốc gia chống cộng thực sự vì Lý Tưởng Dân Tộc
Nắm được Chính Nghĩa Dân Tộc, có thể huy động được sức mạnh của Lòng Người, Lòng Dân.
Chúng ta trưởng thành trong đau khổ, trong tù đày, trong uất hận, trong ly tán gia đình, trong cảnh lưu vong tủi nhục. Không còn bị mê hoặc bởi những lời tuyên truyền lừa bịp, những lời ngon ngọt dối trá nữa. Đấy là bài học quý giá giúp cho chúng ta tiếp tục chiến đấu để tự cứu mình, góp công cứu Người và cứu Nước.
Tại hải ngoại, chúng ta khai thác được sức mạnh của truyền thông để phá vỡ sự bưng bít thông tin của chế độ cộng sản.
Thấm nhuần được tư tưởng và nếp sống đích thực của nền Tự Do Dân Chủ để tiếp nhận thêm những ý kiến chân chính, hướng dẫn hành động tập thể.
Giao tiếp được với các chính quyền sở tại, Quốc Hội, các cơ quan truyền thông ngoại quốc, để trình bày với đầy đủ bằng chứng xác thực về các vi phạm Nhân Quyền của Cộng Sản Việt Nam, làm thức tỉnh được lương tâm nhân loại, trong các công tác Quốc Tế Vận.
2. Thế Yếu nhất thời:
Chúng ta không có chính quyền cho nên tiếng nói không được cộng đồng Thế Giới tôn trọng.
Thiếu thốn quá nhiều phương tiện chiến đấu, đặc biệt về tài chánh.
Lực lượng chống cộng trong nước phải hoạt động bí mật và bị phân tán trước khả năng đàn áp của chế độ cộng sản. Lượng thông tin phản kháng bị bóp nghẹt, không được phổ biến đến quảng đại quần chúng. Thế liên hoàn đấu tranh hải ngoại – quốc nội, vì thế, chỉ chạy theo thời sự nhất thời của một vài cá nhân hoặc sự kiện lẻ tẻ, không tạo chung được thế “tấn công” đồng loạt.
Chia rẻ trong hàng ngũ chống cộng tại hải ngoại, nhiều phen làm băng hoại Niềm Tin vì có cá nhân nằm mơ trở thành Lãnh Tụ, hoặc tổ chức không phục vụ đúng Lý Tưởng vì Dân vì Nước, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau.
Đấy là những phân tích tổng quát để tìm ra tử huyệt của Cộng Sản mà hành động xuyên thủng, tìm ra Thế Yếu của ta mà bổ khuyết. Chúng ta cần phải đưa người và chuyển tin ngày càng nhiều vào trong Nước để góp công tạo thành một trận chiến tâm lý quần chúng, kết hợp với các phong trào nổi dậy đòi tự do tín ngưỡng, đòi quyền sống, đất đai, kích động tuổi trẻ đòi đời sống văn minh dân chủ, để khởi động một cuộc Cách Mạng Dân Tộc. Đây là cuộc chiến đấu của Toàn Dân, cuộc chiến đấu cho một nước Việt Nam Văn Hiến để Phục Nhân, Phục Văn và Phục Quốc, trong thế trận Công Tâm.
Bài viết này chỉ phác họa một vài tâm tư lắng đọng của người đấu tranh suốt 36 năm dài, luôn cả hơn 10 năm bị lao tù khi từ hải ngoại trở về quê hương kháng chiến Phục Quốc, còn sống sót và tiếp tục đấu tranh mãi đến hôm nay. Không phải là một bản kế hoạch hành động chi tiết, trong thế trận “gậy ông đập lưng ông” hiện tại, vì đó là hoạt động bí mật của từng tổ chức chân chính đã và đang cố gắng thực hiện, cùng với Toàn Dân.
Nhưng muốn đạt đến thành công, tôi thiển nghĩ mọi kế hoạch và chiên thuật hành động đều phải xuất phát từ căn bản cái TÂM trong sáng vì Dân Tộc chứ không vì tham vọng cá nhân hay phe nhóm, tổ chức. Những người nào có Chí Bền, Dạ Sáng, Tâm Rộng, Nghĩa Sâu thì mới mong đóng góp được Công Đức vào đại cuộc cứu Người và cứu Nước.
Từ ngọn lửa của quả tim đập cùng nhịp tim của Tổ Quốc, từ những nỗi cô đơn trong cuộc trường chinh góp công cứu Nước, chúng ta lại cùng đứng bên nhau trong thế tương kính và chia sẻ trách nhiệm, trong thâm tình chiến hữu chân chính, và tiến bước để có một ngày không xa nữa sẽ được nhìn thấy ánh vinh quang của Dân Tộc, và ta sẽ quỳ hôn lại những kỷ niệm ngày xưa trên mảnh đất quê hương yêu dấu.
VÕ ĐẠI TÔN
0 comments:
Post a Comment