Sau 37 năm cai trị cả nước,đảng và nhà nước Cộng sản vẫn chưa biết phải hòa hợp dân tộc và tôn trọng nhân quyền với ai.
Chuyện này không mới nhưng vì đảng muốn mọi người phải hiểu và làm theo ý đảng nên dân và đảng chưa “hòa hợp” được với nhau.
Trước tiên hãy nói về vấn đề “hòa hợp dân tộc”.
Từ lâu người CSVN cứ nghĩ rằng họ chỉ cần
“hòa hợp” với những người Việt bỏ nước ra đi sau ngày 30 tháng 04 năm
1975 là giải quyết được vấn đề “đòan kết dân tộc”.
Họ quên rằng, nếu đảng và nhà nước chưa
“hòa hợp và đòan kết” được với người trong nước thì làm sao mà “hòa hợp”
được với người Việt đã phải chạy Cộng sản ra nước ngòai ?
Hãy kể ra một số vấn đề nổi cộm đang gây tranh cãi về trách nhiệm của đảng CSVN từ sau ngày 30-04-1975 :
Thứ nhất, là chuyện kẻ thắng cuộc chiến
là người Cộng sản vẫn còn coi “kẻ bại trận” dưới Vỹ tuyến 17, hay người
miền Nam cũ, không có quyền được hưởng các quyền lợi như những “người
của phe mình”. Đến con, cháu của người miền Nam, sanh sau năm 1975, cũng
chịu vạ lây kỳ thị trong giáo dục và tìm công ăn việc làm.
Thứ hai, không những chỉ có người còn
sống mà ngay đến những người đã nằm xuống, dù có công bảo vệ lãnh thổ
như 74 chiến sỹ Việt nam Cộng hòa trong cuộc chiến chống quân Tầu xâm
lược ngày 19 tháng 01 năm 1974 tại quần đảo Hòang Sa vẫn bị coi là “kẻ
thù”, không được tưởng nhớ, ghi ơn dù đảng và nhà nước CSVN vẫn ra rả
ngày đêm xác nhận Hòang Sa là của Việt Nam.
Ngay cả trên 40,000 quân-dân miền Bắc đã
bị quân Tầu sát hại trong cuộc chiến biên giới năm 1979 cũng không được
tưởng nhớ hàng năm vì nhà nước “sợ mất lòng Tầu” !
Đối với 64 binh sỹ quân CSVN tử nạn trong
cuộc chiến chống quân Tầu xâm lược quần đảo Trường Sa năm 1988, mà các
Báo nhà nước được lệnh phải viết bị “tầu lạ” tấn công , hàng năm cũng
chỉ được “tưởng nhớ” âm thầm và nhà nước đã cấm không cho tổ chức linh
đình, cũng vì sợ “đụng vào chân lồng Tầu Bắc Kinh” !
Thứ ba, những thành phần công dân theo
đạo Công giáo và Tin Lành luôn luôn bị kỳ thị, theo dõi trong tòan cõi
Việt Nam, đặc biệt tại các tỉnh Tây Bắc và Tây Nguyên.
Thứ tư, bất cứ tổ chức Tôn giáo nào không
chịu tham gia Mặt trận Tổ quốc và chịu thi hành những điều kiện “đăng
ký” theo ý muốn cuỉa nhà nước thì sẽ không được họat động như trường hợp
Giáo hội Phát giáo Việt Nam Thống nhất, một bộ phận Phật giáo Hòa Hảo
Lê Quang Liêm và Cao Đài Giáo.
Thứ năm, nhà nước tiếp tục chiếm cứ nhiều
cơ sở và tài sản của các Tôn giáo ở cả trong Nam sau năm 1975 và ngòai
Bắc sau năm 1954. Ngay cả những tài sản mượn của Tôn giáo, như trường
hợp một Trụ sở của Dòng Chuá Cứu Thế ở Thái Hà, Hà Nội cũng bị chiếm
luôn mà miệng nhà nước vẫn khoe đang thực hiện “xã hội công bằng”!
THU HỒI HAY ĂN CƯỚP?
Thứ sáu, chuyện “đền bù mất công bằng”
cũng đã bị những người dân “bần cố nông nền tảng của đảng” ở khắp vùng
đất nước nổi lên chống đảng vì nhà nước “nói một đàng làm một nẻo”.
Đối với người dân thì chuyện “thu hồi có
đền bù ép gía ” , hay “cưỡng chế” sau hòa giải bất thành đã thành chuyện
nhà nước tiếp tay cho con buôn “có liên hệ máu thịt” với Lãnh đạo “cướp
đất” trắng tay giữa ban ngày, bắt đầu từ phát súng “đường cùng” của gia
đình Đòan Văn Vươn ngày 05/01 (2012) ở Huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.
Trong khi vụ án Đòan Văn Vươn chưa được
giải quyết như lời hứa của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì chân tay Dũng ở
Hưng Yên đã sử dụng lựu đạn cay và dùi cui tấn công nông dân Xã Xuân
Quan, Huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ngày 24/04 (2012) để thu hồi 5,8
mẫu đất còn lại của 166 hộ dân trong tổng số 72 mẫu đất để xây khu độ
thị – du lịch có tên là Ecopark do Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển
đô thị Việt Hưng (Vihajico) trách nhiệm.
Theo tin trong nước thì Tổng Giám đốc của
Việt Hưng (Vihajico) là Đào Ngọc Thanh và Chủ tịch Hội đồng quản trị là
bà Nguyễn Thanh Phượng, con gái Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Dự án Ecopark được Dũng chấp thuận tháng 3-2003 và chính thức ban hành Quyết định thu hồi và giao đất tháng 6-2004.
Vậy ra vụ công an cưỡng chế ở Huyện Văn
Giang có dính với Nguyễn Tấn Dũng nên báo chí đã phải đối xử khác với vụ
“cưỡng chế ” đất của gia đình Đòan Văn Vươn ở Huyện Tiên Lãng?
Hồi ở Tiên Lãng, làng báo đảng của Việt
Nam đã được cả nước vỗ tay hoan nghênh vì họ đã dám “dấn thân” bênh vực
gia đình bị đán áp Đòan Văn Vươn.
Ngược lại trong vụ Văn Giang, báo chí đã
bị “nhà nước” Hưng Yên cấm lai vãng khi ra quân cưỡng chế nên tin tức
cũng èo ọt, tản mát đó đây.
Duy nhất có Báo Người Cao Tuổi dám viết 1
lần ngày 24/04 (2012) rằng : “Huyện Văn Giang thực hiện quyết định
cưỡng chế trái luật.”
Một đọan của Bài báo viết: “ Trên báo
Người cao tuổi số 47, ra ngày 20-4-2012 chúng tôi đã có bài “Ra quyết
định cưỡng chế trái luật”, trong đó chỉ rõ quyết định cưỡng chế của UBND
huyện Văn Giang là hoàn toàn trái pháp luật hiện hành. Theo Luật đất
đai, chỉ những dự án phục vụ quốc phòng, an ninh…nhà nước mới thu hồi
đất, trình tự thu hồi được quy định rõ trong luật. Những dự án không
thuộc nhóm này, như dự án Ecopark thì Nhà nước không thu hồi đất, mà chỉ
đứng ra làm trọng tài để nhà đầu tư thoả thuận với dân. Lẽ tất nhiên,
thoả thuận đền bù dân giá cao thì nhà đầu tư lãi ít, thoả thuận đền bù
giá thấp thì nhà đầu tư lãi nhiều. Ở đây UBND huyện lại đứng ra cưỡng
chế, lấy đất giao cho chủ đầu tư, hoàn toàn không xem quy định của Luật
đất đai có tí giá trị nào.
Nếu hỏi người dân có đồng tình với việc
cưỡng chế trái luật này hay không thì tôi tin chắc không ai đồng tình.
Cũng có nghĩa là UBND huyện Văn Giang không đạt được “sự đồng thuận của
nhân dân” theo chỉ đạo trong Thông báo 168/TTCP-V4 ngày 26-1-2007 của
Thanh tra Chính phủ .”
Nhưng sau đó, bài này cũng như một số bản
tin “viết nhẹ nhàng” lác đác trên các báo Việtnam Express, Tuổi Trẻ,
Sài Gòn Tiếp Thị (SGTT), Tầm Nhìn, Zing v.v… đã được lệnh gỡ xuống để
bịt miệng !
Mặc dù Chính quyền Hưng Yên nói “không có
xô xát” hay “chỉ bắn lưu đạn cay lên trời”, nhưng người dân tố cáo công
an đánh đập nhiều người, có người bị thương và bị “bắn đan cay trực
diện” vào người.
Ngày 26-04 (2012), Báo Đại Đòan Kết đưa
tin : “Ngày 24-4-2012, các cơ quan chức năng huyện Văn Giang, tỉnh Hưng
Yên đã thực hiện cưỡng chế thu hồi 5,8ha đất của 166 hộ dân xã Xuân
Quan, thuộc dự án khu đô thị thương mại- du lịch Văn Giang (dự án
Ecopark). Trong quá trình cưỡng chế có xảy ra xô xát, cơ quan công an đã
khởi tố vụ án “Chống người thi hành công vụ” và tạm giữ 20 người có
hành vi chống đối.
Liên quan đến sự việc trên, ngày
25-4-2012, trao đổi với phóng viên báo Đại Đoàn Kết, ông Bùi Huy Thanh,
Chánh văn phòng, người phát ngôn của UBND tỉnh Hưng Yên cho biết, việc
tạm giữ những người này để nhằm điều tra những kẻ đứng sau xúi giục
người dân chống đối.”
ĐÓI NGHÈO – TỆ NẠN XÃ HỘI
Thứ bẩy, chuyện đói nghèo ở các tỉnh vùng
cao, vùng sâu và hải đảo đã đến mức báo động vì phần đông dân cư chỉ đủ
lương thực từ 4 đến 6 tháng mỗi năm, mặc dù Việt Nam đã xuất khẩu trên 7
triệu tấn gạo năm 2011.
Vào ngày 19-03 (2012), Ông Trần Hữu
Trung, Cục trưởng Cục bảo trợ xã hội, Bộ Lao Động-Thương Binh và Xã hội
cho Báo Nông Nghiệp Việt Nam biết rằng thực trạng đói nghèo đang diễn ra
ở nhiều địa phương trong cả nước.
Ông nói: “ Nếu như cả năm 2011 chỉ có 22
tỉnh xin Chính phủ hỗ trợ cho các hộ đói nghèo thì đến năm 2012, tính
đến ngày 2-3, đã có 17 tỉnh đề nghị Chính phủ cứu trợ rồi. Họ đã được
phê duyệt gần 29.000 tấn lương thực để cứu đói cho 493.304 hộ với hơn
1,9 triệu người (trung bình 15kg/người/tháng).
Dẫn đầu là tỉnh Nghệ An xin cấp 9.000 tấn
gạo cho gần 144.000 hộ với hơn 600.000 người thiếu đói; Điện Biên xin
cấp 2.382 tấn gạo cho hơn 30.000 hộ với gần 134.000 người thiếu đói;
Bình Định xin cấp 2.000 tấn gạo cho gần 123.000 người thiếu đói; Hà Tĩnh
xin cấp 2.000 tấn gạo cho gần 153.000 người thiếu đói; Cao Bằng xin hỗ
trợ 500 tấn gạo cho gần 5.000 hộ và xấp xỉ 26.000 người thiếu đói… Thấp
nhất là tỉnh Kon Tum xin 390 tấn gạo cho 2.900 hộ với gần 13.000 người
thiếu đói. Dự báo từ nay đến cuối năm còn có thêm nhiều tỉnh xin hỗ trợ
cứu đói như thế này nữa.”
Như vậy, tại sao Nhà nước Việt Nam lại
khoe số gia đình nghèo đã giảm khá nhiều so với thập niên trước ? Tiêu
chuẩn đói nghèo của Việt Nam bao giờ cũng thấp hơn tiêu chuẩn của Liên
Hiệp Quốc. Tỷ dụ như Việt Nam nói chỉ có khỏang 12% thì Thế giới nói
phải là 19%.
Chẳng hạn như báo cáo của Tổng cục Thống
kê Việt Nam nói chỉ có 8,6% hộ nghèo ở khu vực thành thị thì khu vực
nông thôn tỷ lệ nghèo vẫn còn 21,2% tức là cứ 5 hộ vẫn còn trên 1 hộ
nghèo.
Nhiều vùng ở Thanh Hoá đói đến 60%. Các tỉnh Tây bắc trunh bình đói thường xuyên từ 40 đến 50%.
Thứ tám, khi nói đến tiền đồ của đất nước
thì ai cũng nghĩ đến thế hệ trẻ. Nhưng trong trường hợp của Việt Nam
thì “thế hệ trẻ” này được hiểu là thành phần con ông cháu cha, con cán
bộ, đảng viên có chức, có quyền và biết lối làm tiền của sau hay dưới
gầm bàn.
Theo Tổng cục thống kê dân số năm 2009,
Việt Nam có 1.2 triệu trẻ em phải bỏ học vì kinh tế gia đình khó khăn.
Theo Tiến sỹ Lê Thúc Dục, trưởng nhóm nghiên cứu định lượng chương trình
Những cuộc đời trẻ thơ (Viện Khoa học xã hội VN) thì từ năm 2008, công
bố toàn cầu của UNESCO đã đưa ra con số VN có 1 triệu học sinh bỏ học.
Hai năm 2009-2010, số học sinh bỏ học tiếp tục tăng chứ không giảm.
TS Dục cho rằng: “Không có gì chính xác
đến 100%. Nhưng chúng tôi khẳng định đã định lượng, kiểm tra rất kỹ,
phương pháp nghiên cứu tôi nghĩ là hiện đại, không sai sót về phương
pháp, bài test để thực hiện nghiên cứu là bài test quốc tế. Đây là tỉ lệ
cao nhất ở Đông Nam Á và là điểm yếu của VN khi cạnh tranh nhân lực. Ở
châu Á, Bangladesh, Indonesia cũng có học sinh bỏ học nhiều nhưng không
bằng VN”.
Theo Tiến Sỹ Lê Thúc Dục thì số trẻ em bỏ học thuộc lớp tuổi từ 7 đến 16.(Theo Giaoduc.Net.VN)
Trong khi đó, theo Báo cáo của Tỉnh Lâm
Đồng, ở 10 Tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, niên học 2011-2012 báo cáo có
9.863 học sinh bỏ học đa số ở cấp trung học cơ sở và trung học.
Báo Đại Đòan Kết của Mặt trận Tổ quốc
cũng viết ngày 07/02 (2012) : “Tính từ 3 năm trở lại đây, tỉ lệ học sinh
theo học đến cấp THPT (Trung học Phổ thông) trên cả nước ngày càng
giảm. Điều đó đồng nghĩa việc tỉ lệ học sinh bỏ học sau bậc tiểu học,
sau bậc THCS (Trung học Cơ sở), bỏ học giữa chừng tăng cao. Hiện tượng
này đang tái diễn, quả là điều gây nhức nhối cho ngành giáo dục….”
“ …Đơn cử, năm học vừa qua, tỉ lệ học
sinh bỏ học giữa học kỳ trên cả nước là 0,43%, đứng đầu là khu vực Đồng
bằng Sông Cửu Long có gần 21 nghìn học sinh bỏ học, thứ nhì là Tây
Nguyên, thấp nhất là Đồng bằng Sông Hồng. Chỉ riêng tại Cà Mau, ước tính
mỗi ngày có tới hơn 35 ngàn học sinh phổ thông phải đi đò đến lớp.
Đã có thời điểm hàng chục nghìn học sinh
tại tỉnh này đồng loạt bỏ học vì không đủ tiền đi đò. Năm học 2011-2012,
tỉ lệ học sinh bỏ học trên cả nước có giảm, nhưng tại các tỉnh Đồng
bằng Sông Cửu Long vẫn ở mức cao. Kết thúc học kỳ I năm học này, tại
Đồng Tháp có 3.600 học sinh bỏ học, Vĩnh Long là gần 1000 em.”
Như vậy thì cái nhà nước được gọi là “làm
cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của Việt
Nam sẽ trả lời với dân như thế nào về tin “nhức nhối” này ?
Vẫn theo Báo Đại Đòan Kết : “ Bộ
GD&ĐT (Giáo dục-Đào tạo) đưa ra các nguyên nhân chính của tình trạng
bỏ học gồm học sinh do học lực yếu kém; nhà trường chưa thực sự hấp dẫn
đối với học sinh; hoàn cảnh gia đình học sinh có khó khăn về kinh tế;
trình độ dân trí một số vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít
người miền núi còn lạc hậu; nhiều bậc phụ huynh chưa thực sự quan tâm
đến con em đúng mức. Tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tình trạng
học sinh bỏ học do lấy chồng, lấy vợ sớm vẫn phổ biến, hoặc sớm đi
nương, trở thành lao động chính của gia đình.
Những nguyên nhân, quả thực năm nào cũng
được ngành giáo dục đưa ra mổ xẻ, phân tích. Nhiều giải pháp được đề ra,
nhiều đề án tiền tỉ được đầu tư về cơ sở vật chất, thay đổi giáo trình,
nâng cao chất lượng giáo viên, hỗ trợ học sinh. Nhưng tính hiệu quả vì
sao chưa cao? Và sao Bộ GD&ĐT chưa thực sự coi việc học sinh bỏ học
là vấn đề nóng, nan giải, đôi khi phải xem là “vấn nạn” nhức nhối trong
ngành.”
Lối giải thích kiểu “chữa đau đẻ lang
băm” của Bộ Giáo dục-Đào tạo không mới với nhiều người Việt Nam. Có khác
chăng là sự khác biệt giữa con nhà nghèo không có điều kiện được họ
hành đã kéo dài hết năm này qua năm nọ trong khi “các con quan” thì lại
có hàng ngàn, vạn cách học, kể cả ra nước ngòai tốn phí 20 ngàn dollars
mỗi năm, để có bằng (hoặc mua bằng) để ra làm quan, nối nghiệp bố mẹ cai
trị dân đen.
Nhưng nếu có ai lên tiếng phê bình, chỉ
trích thì ngay lập tức bị khép vào tội có tư tưởng chống đảng hoặc là
tay sai của các “thế lực thù địch” , của “diễn biến hòa bình” âm mưu
chống lại tổ quốc !
Thứ chín, khi các em bỏ học thì phải lao động phụ giúp gia đình kiếm cơm bỏ bụng.
Báo diện tử “Nguoiduatin.VN” (của Báo Đời
sống và Pháp luật) viết về tình trạng này hôm 12-06 (2011) : “ Mặc dù
Luật pháp Việt Nam cấm sử dụng lao động trẻ em dưới 15 tuổi nhưng trên
thực tế trẻ em vẫn phải chia sẻ gánh nặng công việc và trách nhiệm gia
đình cả ở nông thôn lẫn thành thị….”
“…Vấn đề lao động trẻ em nghiêm trọng hơn
ở những tỉnh có số lượng trẻ em bỏ học hoặc có nguy cơ bỏ học để tham
gia vào các hoạt động kinh tế như ở Lào Cai và Gia Rai; hoặc ở những nơi
có nhiều trẻ em tham gia vào nhiều loại hình công viêc nguy hiểm, nặng
nhọc, độc hại như ở Quảng Nam và Hà Tĩnh; và ở các làng nghề thủ công
nơi trẻ em làm việc không công trong các hộ kinh doanh như ở Hà Nội,
Ninh Bình. Thêm vào đó, còn có nhiều hình thức trẻ em di cư làm việc
trên đường phố, trong các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng hoặc các
khu công nghiệp như ở Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh….”
“…Đặc biệt theo nghiên cứu gần đây vào
năm 2009 của Bộ LĐ-TBXH tại 8 tỉnh thành (bao gồm Quảng Nam, Lào Cai, Hà
Nội, An Giang, Gia Rai, Hà Tĩnh, Quảng Ninh và TP Hồ Chí Minh), có
khoảng 50% các em được khảo sát phải làm việc trong môi trường nguy
hiểm, có thể ảnh hưởng tồi tệ đến sự phát triển cả về thể chất lẫn tinh
thần của trẻ. Những yếu tố này bao gồm độ ẩm, ánh sáng, bụi bẩn, các
chất độc hại, tiếng ồn, không gian làm việc chật hẹp. Và các em cũng
phải chịu nhiều sức ép tâm lý như tiền công thấp, chậm thanh toán hoặc
bị chủ nhục mạ, buộc phải sống xa gia đình, chứng kiến hành vi không
lành mạnh của người lớn….”
Thứ mười, các báo của nhà nước đã viết
như thế về thực trạng tuổi trẻ Việt Nam, nhưng đáng lo hơn đối với xã
hội là nguy cơ lan rộng ma túy trong lớp tuổi trẻ.
Một bản tin trên Báo Tiếng Chuông, trang
tin điện tử của Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng chống tệ nạn
ma túy, mại dâm của Việt Nam ngày 22-04-012 báo động: “Ở Việt Nam, tệ
nạn ma túy đã và đang làm đau đầu các bậc phụ huynh trong các gia đình.
Mạng lưới phân phối ma túy đã đi vào từng ngõ hẻm, đường phố, trường
học, công viên, các nơi vui chơi giải trí… ở thành thị và đang lan dần
tới cả những vùng nông thôn. Gần đây, thuốc lắc (ma túy tổng hợp) đã
được bán và dùng rộng rãi trong giới trẻ, nhất là đối với con em các gia
đình khá giả tại các khu vui chơi giải trí, đặc biệt là các quán bar,
nhà hàng, vũ trường. Ma túy đã và đang trở thành nỗi ám ảnh cho cả dân
tộc.”
Theo Cục trưởng Cục Phòng, chống tệ nạn
xã hội (Bộ LĐTB&XH) Nguyễn Văn Minh,tính đến cuối tháng 6/2011, cả
nước có 149.900 người nghiện ma túy (tăng khoảng 2,7 lần với mức tăng
xấp xỉ 6.000 người nghiện/năm so với cuối năm 1994).
Trích lời Minh, báo Pháp Luật Việt Nam
cho biết : “Đặc biệt độ tuổi của người nghiện ma túy cũng có xu hướng
trẻ hóa. Cuối năm 2010, gần 70% người nghiện ma túy ở độ tuổi dưới 30
trong khi tỷ lệ này vào năm 1995 chỉ khoảng 42%. Hơn 95% người nghiện ma
túy ở Việt Nam là nam giới. Tuy nhiên, tỷ lệ người nghiện là nữ giới
cũng đang có xu hướng tăng trong những năm qua.”
Theo một Báo cáo của Bộ Lao động-Thương
binh và Xã hội ngày 08-09-2011 thì : “Người nghiện ma túy đã có 63/63
tỉnh, thành phố, khoảng 90% quận, huyện, thị xã và gần 60% xã, phường,
thị trấn trên cả nước.
Cơ cấu người nghiện ma túy theo vùng miền
cũng đã có những thay đổi đáng kể. Nếu như giữa những năm 90 của thế kỷ
trước, nghiện ma túy chủ yếu phổ biến ở người dân tại các tỉnh miền núi
phía Bắc thì từ giữa những năm 2000 đã tăng mạnh xuống vùng đồng bằng
sông Hồng và khu vực miền Đông Nam bộ. Năm 1994 có tới hơn 61% người
nghiện ma túy ở Việt Nam thuộc khu vực các tỉnh Trung du và miền núi
phía Bắc thì tới năm 2009 tỷ lệ này là gần 30%. Ngược lại, tỷ lệ người
nghiện ma túy thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng trong tổng số người nghiện
ma túy của cả nước đã tăng từ 18,2% lên 31% trong cùng kỳ. Tương tự, tỷ
lệ người nghiện ma túy thuộc các tỉnh miền Đông Nam bộ đã tăng từ 10,2%
lên 23%.”
Báo cáo viết tiếp : “ Loại ma túy được sử
dụng và hình thức sử dụng ma túy cũng có nhiều thay đổi phức tạp. Thay
cho vai trò của thuốc phiện trong hơn 10 năm trước đây, heroin hiện là
loại ma túy được sử dụng chủ yếu ở Việt Nam, có tới 96,5% người nghiện
thường xuyên sử dụng heroin trước khi tham gia cai nghiên.
Mặc dù tỷ lệ người nghiện thuốc phiện và
các chất kích thích dạng Amphetamine (ATS hay ma túy tổng hợp) tương
đương nhau, khoảng 1,2% – 1,4% nhưng theo đánh giá của Cơ quan phòng
chống tội phạm và ma túy của Liên hợp quốc (UNODC), việc lạm dụng ATS,
đặc biệt là Methamphetamine, đang có xu hướng gia tăng trong người
nghiện ma túy tại Việt Nam, nhất là khi Việt Nam nằm trong khu vực Đông
Nam Á là khu vực chiếm ½ số người lạm dụng loại ma túy này trên toàn thế
giới. Việc gia tăng lạm dụng các loại ma túy tổng hợp khiến cho công
tác phòng ngừa và cai nghiện phục hồi cho nhóm người nghiện ma túy gặp
rất nhiều khó khăn.”
Thứ mười một, từ ma túy, theo một tin
trên Thống Tấn xã Việt Nam ngày 03/11/2011 trích lời Ông Chu Quốc Ân –
Phó Cục trưởng phòng chống HIV/AIDS cho biết: “ Theo báo cáo của các địa
phương, tính đến ngày 30/9, cả nước có 193.000 người nhiễm HIV còn
sống, trong đó có 47.030 bệnh nhân AIDS và đã có hơn 51.000 người tử
vong.
Trong chín tháng đầu năm, số trường hợp
HIV được phát hiện là hơn 9.100 người, trong đó có 3.700 bệnh nhân AIDS
và gần 1.400 trường hợp tử vong.
Các trường hợp được phát hiện trong thời
gian qua tập trung chủ yếu ở một số tỉnh trọng điểm về HIV/AIDS như
Thành phố Sài Gòn, Hà Nội, Điện Biên, Sơn La, Thái Nguyên.
Đối tượng mắc mới HIV vẫn tập trung trong
nhóm từ 20-39 tuổi, trong đó nhóm 20-29 tuổi chiếm tỷ lệ gần 40%, nhóm
30-39 tuổi chiếm 43%, còn lại các nhóm tuổi khác chiếm một tỷ lệ nhỏ,
khoảng 16%.
Theo đánh giá của Cục phòng chống
HIV/AIDS, mặc dù dịch HIV/AIDS tiếp tục có xu hướng giảm cả về số người
nhiễm và tử vong, tuy nhiên vẫn chưa đảm bảo tính bền vững. Dịch
HIV/AIDS ở Việt Nam vẫn tiềm ẩn những yếu tố nguy cơ bùng phát nếu như
không có những biện pháp can thiệp mạnh mẽ và hiệu quả.
Hiện nay, khó khăn lớn trong công tác
phòng chống dịch bệnh HIV/AIDS là kiến thức của nhóm thanh thiếu niên về
lĩnh vực này còn thấp, hơn 50% thanh thiếu niên chưa hiểu biết đầy đủ
về HIV/AIDS. Nhận thức của người dân nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng
miền núi còn hạn chế.
Một khó khăn nữa trong công tác phòng
chống dịch bệnh này hiện nay là sự chuyển đổi hình thái nhiễm HIV theo
xu hướng lây qua quan hệ tình dục gia tăng (chiếm gần 40%) khiến việc
triển khai các biện pháp phòng chống gian nan hơn.”
Số các vụ lây nhiễm HIV/AIDS do tệ nạn
mại dâm gây ra chưa có con số chính thức, dù các cơ quan nhà nước báo
cáo ước tính có trên 200 ngàn gái mại dâm đang hành nghề tại Việt Nam.
Nhưng không ai biết được các hoạt động mại dâm trá hình đang lan tràn từ
nông thôn ra thành phố ra sao vì các viên chức an ninh nhìn nhận không
kiểm soát được.
Các báo cáo cũng phỏng định có trên 20
ngàn vụ buôn gán thiếu nữ vị thành niên qua biên giới sang Tầu và Cao
Miên hàng năm mà Cảnh sát biên phòng hay hải quan cũng không sao ngăn
chặn được !
Thứ mười hai, tất cả những tệ nạn nêu
trên trong thời Cộng sản “đổi mới” đi theo kinh tế thị trường theo điều
được gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa” còn đẻ ra nhiều loại tội ác
trong xã hội tới mức vi phạm báo động về số vụ giết người, hiếp dâm,
cướp giật, đâm thuê chém mướn gây ra bởi các thanh thiếu niên.
Nhiều vụ học sinh bạo loạn, hành hung bạn
học, lập băng đảng đánh người trước mắt mọi người mà người xunh quanh
vẫn đứng nhìn, đôi khi còn cổ vũ cho các hành động pháp pháp đã đảo
ngược luân thường đạo lý mà xã hội vẫn dửng dưng !
Bà Lotta Sylwander, trưởng đại diện Quỹ
nhi đồng Liên hiệp quốc (Unicef) tại Việt Nam nói: “Tôi muốn nói rằng
nhiều thanh niên Việt Nam đang đánh mất mình khi xã hội chuyển từ truyền
thống sang hiện đại. Đánh bạn rồi tung lên mạng có thể khiến chúng thấy
vui sướng, vì sự khác thường của mình…” (Trích từ một Cuộc phỏng vấn
đăng trong Báo của Trung ương Hội Khoa học Phát triển nguồn nhân lực
nhân tài Việt Nam, 27-04-2012)
Người CSVN gọi những tệ nạn này là “mặt
trái của kinh tế thị trường”, nhưng lại quên đó cũng là “mặt trái của
con tim và khối óc” của người Cộng sản.
Trong khi ấy thì chính quyền lại tăng
cường kiểm soát thông tin nên đã vô tình hạn chế các nguồn tin hữu ích
do người dân cung cấp và cắt đứt luôn sự hợp tác của dân để ngăn chận
tội ác và các tệ nạn xã hội khác.Nhà nước cũng tự mình lấy đi của dân
các quyền đã quy định trong Hiến pháp về tự do ngôn luận, tự do tư
tưởng, lập hội, hội họp, bầu cử, ứng cử và tự do tôn giáo v.v… nên quyền
con người, hay nhân quyền nói theo cách của người phương Tây, không có ở
Việt Nam.
Vì vậy mà điều được gọi là “liên hệ máu
thịt” giữa dân và đảng không còn nữa. Một khỏang cách giữa cán bộ và dân
đang ngày một dãn ra khiến cho cho sự xa cách giữa dân và nhà nước ,
trong nhiều trường hợp, thành kẻ thù của nhau.
THỰC TẾ NGÀY NAY
Như vậy ngày nay, sau 37 năm cai trị cả
nước, Lãnh đạo đảng CSVN phải nhìn nhận một số không nhỏ cán bộ,đảng
viên của họ đã mất bản chất, đạo đức bản thân đã bị tiền tài, danh vọng
sói mòn và suy thoái tư tưởng,không còn tin vào chủ nghĩa Cộng sản và
đảng nữa.
Tình trạng này đã phản ảnh trong một Bài
viết của Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng từ năm 2005 được đăng lại
trong Tạp chí Năng Lượng Mới điện tử tháng 10/2011.
Trọng viết : “Trong những năm gần đây,
Đảng ta có bước tiến mới về thực hiện dân chủ trong Đảng, rõ nhất là
trong việc chuẩn bị các nghị quyết của Đảng, trong việc bầu cử cấp ủy,
đánh giá, đề bạt, bố trí cán bộ, trong quan hệ và lề lối làm việc giữa
cấp trên và cấp dưới… Nhưng phải thừa nhận rằng, sự tiến bộ đó còn hạn
chế. Những hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức, cùng những tư
tưởng ngôi thứ, gia trưởng, độc đoán, thành kiến… còn khá nặng nề trong
Đảng.
Một số cán bộ rất hách dịch, lộng quyền,
không muốn nghe ý kiến người khác, nhất là các ý kiến không hợp với
mình, sẵn sàng trù dập, đàn áp những người không ăn cánh hoặc không làm
theo ý mình. Họ không biết rằng, dân chủ đang là một xu thế của thời
đại, một yêu cầu phát triển của đất nước; dân chủ cũng là mong ước,
nguyện vọng chính đáng của cán bộ, đảng viên và nhân dân….”
“…Những năm gần đây, bên cạnh mặt tốt là
Đảng giữ vững và phát huy được truyền thống đoàn kết thống nhất trong
Đảng, cũng có những biểu hiện vô tổ chức, vô kỷ luật, bè phái, cục bộ,
địa phương, có nơi khá nghiêm trọng. Nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng
không được chấp hành nghiêm túc, nghị quyết không đi đôi với hành động,
nói không đi đôi với làm, thậm chí nói một đằng làm một nẻo. Cấp dưới
không phục tùng cấp trên, cá nhân không phục tùng tổ chức. Chủ nghĩa cá
nhân ích kỷ phát triển, một số người phát ngôn tùy tiện, công khai
truyền bá những ý kiến trái với đường lối, quan điểm, nghị quyết của
Đảng.
Có trường hợp đảng viên tuyên truyền, lôi
kéo một số quần chúng đấu tranh chống lại chính quyền, gây rối trật tự
xã hội. Nếu không kiên quyết chặn đứng những hiện tượng này nó sẽ phá
hoại kỷ cương trong Đảng, làm suy yếu khối đoàn kết thống nhất của
Đảng.”
Như thế rõ ràng là nội bộ đảng đã mất
đòan kết, đã ruỗng như tổ ong thì làm sao mà có thể đòan kết được với
dân, nạn nhân bị cai trị bởi những phần tử bất hảo này ?
Đảng cũng phải biết tại sao đã có những
cán bộ, đảng viên một thời trung thành tuyệt đối và hy sinh vì đảng đã
quay lưng lại với nhà nước để đứng về phía quần chúng bị áp bức chống
đảng như đã xẩy ra trong vụ cưỡng chiếm đất của gia đình Đòan Văn Vươn ở
Tiên Lãng ngày 05/01 (2012) và đồng bào ở Văn Giang, Hưng Yên hôm 24/04
(2012).
Những bất công xã hội do cán bộ đảng gây
ra cho dân không mới. Tình trạng này cũng giống như tệ nạn tham nhũng
tràn lan trong đảng đã hết thuốc chữa vì quyền của công dân ghi trong
Hiến pháp đã bị nhà nước chà đạp lên từ lâu để cho những kẻ có chức có
quyền được tự do dành lấy đặc quyền đặc lợi cho cá nhân, phe nhóm và
dòng họ.
Trường hợp con cái của hai lãnh đạo Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng và Tô Huy Rứa, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đảng
được bổ nhiệm vào các chức vuị quan trọng trong guồng mày cai trị và các
tổ chức kinh tế có thế lực là một bằng chứng không phải vô nghĩa đối
với dân nghèo Việt Nam.
Các vụ khiếu kiện đông người kéo về Thủ
đô Hà Nội, hay chống các chính quyền địa phương kể từ sau vụ Đòan Văn
Vươn tăng trên 50% còn là một bằng chứng khác nói lên tình trạng mất
công bằng nghiêm trọng trong xã hội đã gắn liền với hòan cảnh khốn cùng
của những người dân chân lấm tay bùn.
Thế nên khi đảng nói :“Đảng và Nhà nước
ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận
không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam” (Nghị quyết 36 về “Công
tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” ,26-03-2004) thì vào mỗi dịp
30-4 quay về, câu tuyên truyền này có còn ý nghĩa gì đối với những người
đã bỏ nước ra đi không? -/-
Phạm Trần
(04/012)
Phạm Trần
(04/012)
0 comments:
Post a Comment