Ðảng
Cộng Sản Việt Nam đã dùng công an trấn áp đồng bào Văn Giang, Hưng Yên.
Ðồng bào đã thua một keo. Nhưng ai thắng? Thế lực kim tiền đã thắng.
Nói như nhà báo tự do Huy Ðức, các “đại gia” đã thắng.
Cung cách đối xử với những đồng bào bị
bắt chứng tỏ bản chất của chế độ Cộng Sản Việt Nam hiện nay như thế nào.
Năm đồng bào được thả về. Các bà con này đều phải “ký khống” vào ba tờ
giấy trắng, viết rõ “Tôi cam đoan lời khai trên là đúng,” mặc dù ký tên
dưới trang giấy hoàn toàn bỏ trắng. Bắt người khác ký khống là một hành
động phi pháp. Bất cứ ai buộc người khác phải ký tên đồng ý về một việc
mà chưa biết mình đồng ý việc gì, dù là chịu nợ tiền hay hứa hẹn làm bất
cứ việc gì, đều phạm tội trước pháp luật, bất cứ pháp luật ở nước nào.
Công an Cộng Sản Việt Nam hành động bất chấp những quy tắc pháp luật cơ
bản đó. Họ bất chấp các quy tắc đạo lý sơ đẳng của loài người. Ðể làm
gì? Chỉ vì khẩu hiệu của công an hiện nay được nêu cao là: Ðảng còn thì
mình còn!
Ðó là một khẩu hiệu làm cho tất cả những
người công an phải cảm thấy nhục nhã, nếu họ dừng lại suy nghĩ một chút.
Nỗi nhục nhã thứ nhất là nó đặt ra một điều kiện tồn tại cho bản thân
mỗi người công an và tất cả lực lượng công an dính chặt với sinh mạng
của một đảng chính trị chứ không nhân danh một nghĩa vụ nào cao hơn, lớn
hơn. Mỗi đảng nào cũng chỉ là một nhóm người. Gắn bó sinh mạng của mình
vào một nhóm người tức là chịu làm tay sai, làm “chó săn” cho bọn họ,
chứ không phục vụ một lợi ích nào của chung quốc gia, dân tộc.
Nỗi nhục thứ hai là cái tiếng xấu “bất
trung, bất nghĩa” không thể chối cãi được. Những người công an sống bằng
đồng tiền do hơn 80 triệu người dân đóng góp, nếu không có người dân
làm việc, tạo ra của cải, đóng thuế, thì tất cả cái đảng mà họ đang bảo
vệ chỉ toàn những người chỉ tay năm ngón không thể làm gì ra của cải,
tiền bạc, để trả lương cho họ nuôi vợ con. Nhưng họ lại đi lo bảo vệ một
bọn ăn trên ngồi chốc đó, không cần biết đến nguyện vọng của người dân,
giẫm chân trên nỗi thống khổ của người dân, tạo thêm bao nhiêu cay đắng
khác cho dân. Tức là sống nhờ sức lực của dân nhưng lại phục vụ cho
người khác. Cho nên gọi là bất trung, bất nghĩa. Con cháu họ sẽ lớn lên,
có ngày chúng sẽ nhìn ra hình ảnh cuộc đời bất trung bất nghĩa của ông
cha. Chúng sẽ cảm thấy nhục nhã, vì lương tâm con người ai cũng có,
chúng sẽ xấu hổ mãi mãi.
Nỗi nhục nhã thứ ba là chính những người
công an đang bị những kẻ nắm đầu họ coi họ chỉ toàn là một bọn không
biết suy nghĩ; một đám ngu si. Ngu si vì chỉ biết tham lợi trước mắt mà
không trông thấy mối nhục muôn đời; nhắm mắt nghe lệnh bảo vệ một chế độ
mà không tự hỏi tương lai chính mình và con cháu mình sẽ ra sao.
Ðảng còn thì mình còn! Ngay trong khẩu
hiệu đó đã chất chứa một nỗi sợ hãi đang cố dồn nén trong lòng. Nỗi sợ
hãi của một đám người đang quyền oai chức trọng, tự tung tự tác, nhưng
trong thâm tâm vẫn lo sợ, tự hỏi không biết mình sẽ được hưởng cho tới
bao giờ! Nếu không sợ hãi thì người ta không bao giờ đặt vấn đề “còn”
hay “không còn” cả. Chính đám người đó đang mắt trước mắt sau vơ vét cho
đầy túi tham, họ đang sợ, họ không biết họ ngồi đó được bao lâu nữa.
Cho nên họ mới đặt ra cái khẩu hiệu để dọa đám tay chân của chính họ.
Nói “Ðảng Còn Thì Mình Còn” tức là đe dọa tất cả bọn tay sai coi chừng:
“Ông mất thì chúng mày cũng mất!”
Họ lấy sự tồn vong của một đảng để kích
thích người công an phải liều chết, phải chịu đựng bất cứ nỗi khó khăn,
bất cứ nỗi nhục nhã nào, miễn là lo bảo vệ đảng! Một chính quyền tự tin
mình có lẽ phải và được dân ủng hộ thì không bao giờ lại phải dùng thủ
đoạn dọa nạt hèn hạ như thế. Hãy nhìn tất cả các nước dân chủ, văn minh
trên thế giới, có nơi nào người ta phải dùng một khẩu hiệu đê tiện như
thế để khích động quân đội, cảnh sát, công an hay không? Bọn người này
đã bóp óc nặn ra cái khẩu hiệu như thế, ngày ngày hô to lên, để rót vào
đầu đám công an họ nắm trong tay. Tức là họ khinh rẻ ngay cả đám tay sai
của họ.
Không có gì làm hạ giá phẩm cách con
người bằng cách khích lệ người khác với những nhu cầu hạ đẳng, là sự tồn
tại của bản thân. Con người ta sinh ra ai cũng có những nhu cầu sơ đẳng
như thế: Ăn, ngủ, truyền giống, hưởng lạc, miễn sao cho cái thân xác
mình tồn tại. Nhưng ai cũng có những nhu cầu cao hơn sự tồn tại. Ai cũng
muốn được người khác yêu thương, được kính trọng, được nâng cao khả
năng, được phát huy óc sáng tạo; đó là những nhu cầu cao hơn nhu cầu tồn
tại. Khi một người mẹ khích lệ con: “Nếu con vâng lời mẹ sẽ yêu con”
thì câu nói đó nâng cao phẩm giá của đứa bé, làm cho nó biết tình yêu là
một phần thưởng quý báu. Có bà mẹ nào lại dỗ con: “Nếu vâng lời mẹ sẽ
cho ăn cơm, không thì cứ nhịn đói!” Nói như vậy là hạ thấp phẩm giá đứa
con, làm mất luôn lòng tự trọng của đứa trẻ. Chỉ những người coi khinh
một đứa bé thì mới dỗ dành như vậy! Ðưa ra khẩu hiệu “Ðảng Còn Thì Mình
Còn” tức là coi khinh tất cả những người trong hàng ngũ công an. Ngẫm
nghĩ lại, không thấy nhục sao được?
Nhưng đảng cộng sản còn tồn tại đến bao
giờ? Các anh chị công an, quý vị có tin rằng chế độ này sẽ tồn tại vĩnh
viễn, đến đời con cháu quý vị nó vẫn cứ như vậy hay không? Quý vị đã
thừa biết chuyện gì đã xảy ra ở Liên Xô, ở Ðông Ðức chứ? Quý vị có thấy
những gì mới xảy ra ở các nước Tunisie, Ai Cập, Libya hay không? Quý vị
có biết bên Miến Ðiện người ta đã thay đổi hay không? Quý vị có tin rằng
một chế độ ăn cướp trắng trợn công sức của những người nông dân, của
Ðoàn Văn Vươn, của đồng bào Văn Giang, Ðông Anh, Dak Nông, Dương Nội,
Gia Bình, trong khi phục vụ cho những thế lực kim tiền, sẽ cứ thế mà tồn
tại mãi hay không? Chắc chắn những người biết suy nghĩ, hiểu cuộc đời
đầy biến chuyển, đều biết rằng bất cứ chế độ nào độc đoán chuyên quyền
sớm muộn cũng đến ngày phải chấm dứt. Trao sinh mạng của mình cho một
chế độ như vậy, trao cả danh dự, phẩm giá ông bà cha mẹ mình cho một chế
độ như vậy, là một điều quá dại dột. Chính những người đang sử dụng
công an họ khinh rẻ cho nên mới đặt ra cái khẩu hiệu “Ðảng Còn Thì Mình
Còn!”
Bởi vì người dân nước Việt Nam vốn không
ngu. Nếu ngu thì đã không đấu tranh suốt một ngàn năm Bắc thuộc để giành
quyền tự chủ. Một cơn nước lũ phẫn nộ đang trào dâng, bắt đầu từ trước,
và nhất là sau vụ anh Ðoàn Văn Vươn liều chết chống bọn cướp ngày, hôm
15 Tháng Giêng 2012.
Dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy lòng dân
đang sôi lên là những cuộc biểu tình liên tiếp nổi lên sau khi anh Ðoàn
Văn Vươn liều mạng phản kháng cường quyền. Biến cố đó đã gây ra những
cơn sóng, mỗi ngày lại dâng cao. Hơn một tháng sau anh Ðoàn Văn Vươn,
chiều nay, 21 Tháng Hai 2012, hàng trăm nông dân Hưng Yên về thủ đô
khiếu kiện đất đai, diễu hành thành từng đoàn qua các đường phố, ôn hòa,
lặng lẽ, không ai nói với ai. Những ai cũng hiểu nỗi lòng của họ. Ngày
21 Tháng Ba 2012, nông dân từ các vùng Văn Giang (Hưng Yên), Ðông Anh
(Hà Nôi), Gia Bình (Bắc Ninh), đã kéo về biểu tình trước số nhà 46 phố
Trường Thi, Hà Nội, vì đất đai của bà con bị thu hồi một cách trái phép,
giá đền bù rẻ mạt. Rồi hàng trăm dân oan mất đất từ tỉnh Dak Nông, Ðông
Anh, Dương Nội (Hà Ðông, Hà Nội) và Văn Giang (Hưng Yên) tập trung tại
Văn phòng Quốc Hội ở số 35 Ngô Quyền, Hà Nội. Người dân ở xã Ðại Bái,
huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh biểu tình phản đối việc chiếm đất nông
nghiệp đem bán cho công ty Trung Quốc làm khu công nghiệp. Họ viết khẩu
hiệu: “Bán đất cho doanh nghiệp nước ngoài là bán nước! Ngày 21 Tháng Ba
2012, dân xã Thiên Lộc (Can Lộc-Hà Tĩnh) bất ngờ kéo đến tấn công trụ
sở công an vì phẫn nộ trước cái chết bất thường của nạn nhân Lê Quang
Trọng hai hôm trước, được nói dối là một vụ tự sát.
Trước vụ anh Ðoàn Văn Vươn, đã nhiều
người oan ức quá phải hành động, nhưng chưa tạo nên một phong trào.
Tháng Hai 2012, kỹ sư trẻ tuổi Phạm Thành Sơn bị cướp đất, khiếu kiện
nhiều lần vẫn tay không, quá uất ức đã tẩm xăng, đốt xe máy tự thiêu
trước trụ sở thành phố Ðà Nẵng. Trước đó nữa, từ giữa năm 2011, mấy ngàn
đồng bào thôn Vật Phụ, xã Vật Lại, huyện Ba Vì, Hà Nội đã biểu tình vì
chính quyền lấy một vùng đất của dân bên quốc lộ 32 cấp cho một doanh
nghiệp, mà phía sau doanh nghiệp đó là các cán bộ to nhỏ huyện và thành
phố.
Một chế độ gây bao nhiêu nỗi uất ức như
thế sẽ tồn tại cho đến bao giờ? Chế độ đó đã bày ra những đạo luật đất
đai để tước đoạt quyền làm chủ ruộng, đất của người dân; để phục vụ
quyền lợi của đám đại gia, trong đó có các đại gia ngoại quốc. Có chiếm
đất của dân thì mới có những công trường xây dựng cho các doanh nghiệp
khai thác rút ruột. Ðể cho những người như cô con gái của ông Tô Huy Rứa
vắt giầy cao gót lên ngồi làm chủ tịch. Có việc xây cất đồ sộ thì mới
tạo cơ hội để các ngân hàng cho vay tiền kiếm đồng lãi; các ngân hàng
như cô con gái ông Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu. Họ làm ra luật để phục vụ
các đại gia! Nhà báo Huy Ðức viết: “Luật 2003 gần như đã đặt những mục
tiêu cao cả như ‘lợi ích quốc gia’ ngang hàng với ‘lợi ích của các đại
gia’”.
Quý vị công an, có nên gắn chặt danh dự
và cuộc sống của mình vào sự tồn tại của một chế độ như vậy hay không?
Huy Ðức viết: “Hình ảnh cuộc cưỡng chế hôm 24 Tháng Tư 2012 ở Văn Giang
đã trở thành một vết nhơ trong lịch sử.” Chúng tôi tin rằng trong số
những người công an hiện nay phần lớn là những người biết suy nghĩ. Họ
cũng được cha mẹ dạy dỗ phải sống theo đạo lý, không khác gì cha mẹ
chúng tôi cũng dạy con cái như vậy. Làm sao quý vị có thể chịu để cho
cuộc đời mình, danh dự gia đình mình dính vào một vết nhơ muôn đời không
rửa sạch như thế?
0 comments:
Post a Comment