Thursday, January 12, 2012

Nhà Đèn Chợ Quán

(Viết một chút gì để nhớ để thuơng về cái Nhà Đèn của tôi)
Bài của Người Chợ Quán
Còn đâu kỷ niệm khung trời ấy,
Một thoáng gợi buồn, hạnh phúc xưa …
(thơ của Thân hữu Châu Huyền trong bài Chợ Quán Xưa – Bản tin THĐL số 23)
Nói đến Nhà đèn Chợ quán, gọi nôm na là Nhà đèn, quả thật ít ai là không biết đến vì nó đã từng dự một phần quan trọng trong đời sống hàng ngày của dân Sài gòn trong một thời gian dài đằng đẵng …
Nhà đèn có một lịch sử lâu đời cũ kĩ trăm năm. Nó là một trong nhưng biểu tượng hiếm hoi của nền văn minh cơ giới xa xưa của ngành điện lực trong thời Pháp thuộc còn sót lại đến ngày nay.
Tôi nghe nói Nhà đèn còn là chứng nhân của một biến cố đau thương của đất nước trong thời kỳ Đệ nhị Thế chiến. Năm Ất Dậu (1945), vì than Hòn gai không thể chuyên chở vào trong Nam được nên Nhà đèn này đã phải dùng thóc để đốt lò chạy máy thay than. Trong khi đó, ngoài Bắc đã xẩy ra nạn đói chết cả triệu người vì không có gạo ăn.
Và tôi cũng nghe nói trước đây, từ Nhà đèn này, đã từng là nơi xuất phát ra những cuộc đấu tranh của công nhân đứng lên chống lại sự bóc lột của những chủ nhân ông người Pháp. Và cũng chính tại Nhà đèn này, tôi biết rất rõ, người cộng sản muốn san bằng nó thành bình điạ bằng những cuộc pháo kích, phá hoại, … mà cao điểm là vào những năm cuối cùng của cuộc chiến vừa qua. Và tôi cũng nghe nói, chính quyền cộng sản đã khai tử Nhà đèn này cách đây mấy năm.
Thế là xong, Nhà đèn thân yêu không còn nữa. Nó đã ra đi vĩnh viễn và để lại bao thương nhớ cho những người đã từng gắn bó đời mình với nó nói riêng và cho toàn thể Công ty Điện lực Việt nam cũ nói chung.
Nhà đèn nằm ngay tại trung tâm của Hòn Ngọc Viễn Đông, nghĩa là giữa viên ngọc sáng chói ấy có một cục than đen xì.
Đia điểm của Nhà đèn thật dễ nhận ra. Nhà đèn Chợ quán là hàng xóm, là láng giềng gần của Nhà thương điên Chợ quán. Cả hai cùng nằm trên đường Hàm tử ngay sát bờ sông Sài gòn. Có ai muốn hỏi thăm đường đến Nhà đèn thì ta cứ lấy Nhà thương điên làm mốc. Và ngược lại, có ai muốn hỏi thăm đường đến Nhà thương điên thì ta cứ lấy Nhà đèn làm mốc. Tôi nhớ lại cái ngày đầu tiên đi xin việc tại Nhà đèn này, hỏi thăm đường, người ta cũng chỉ cho tôi như thế nên tôi nhớ mãi. Địa hình điạ vật của Nhà đèn chỉ có thế, không thể giải thích nhiều hơn hoặc khác đi được. Có khác chăng là Nhà thương điên thì có chuyện “điên”, Nhà đèn thì có chuyện “mát dây”.
Thế cái nhà đèn là cái nhà gì ? Nó có tương tự như Nhà thương Từ Dũ hay không vì cũng là “Nhà” cả mà? Nếu ai hỏi ta câu ấy thì chín phần mười ta có thể kết luận là người đó nếu không phải ở trong Nhà thương điên thì ắt hẳn phải là một người ngớ ngẩn.
Nhà đèn là nhà máy làm cho đèn điện cháy sáng, kể cả đèn điện ở trong nhà lẫn đèn điện ở ngoài đường. Nếu người ấy lại vẫn ngớ ngẩn hỏi thêm “Thế đèn điện là đèn gì?” thì ta cứ giải thích một cách dễ hiểu là đèn điện là loại đèn phải cần có những nhà đèn mới cháy sáng được. Những câu giải thích như thế tôi cho là thật chính xác và khoa học làm sao dành cho những người hỏi những câu ngớ ngẩn ấy !
Tôi đoán mò, Nhà đèn Chợ quán là anh em sinh đôi hay sinh ba với Nhà máy điện Yên phụ ở Hà nội và Nhà máy điện Uông bí ở Hải phòng thì phải. Có cái hay hay là cả hai nhà máy điện kia chẳng ai gọi bằng cái tên vắn tắt và thân yêu là Nhà đèn cả, chỉ trừ Nhà máy điện Chợ quán. Có lẽ cái tên Nhà đèn nó chỉ phù hợp với ngôn ngữ và bản tính chân chất của người miền Nam ta chăng ?
Nhà đèn Chợ quán mặc dù đen đủi già nua nhưng vẫn hiên ngang đứng sừng sững giữa thủ đô Sài gòn ngày nào. Nó cố vươn lên trời cao những cột ống khói to tướng, đen ngòm và tỏa ra lất phất từng cụm khói trắng mờ nhạt, vướng víu trên đỉnh cao. Nếu nó tỏa ra những cụm khói đen như thân hữu Châu Huyền miêu tả, thì chính lúc đó Nhà đèn đang bị bệnh nặng rồi đấy, thầy thợ trong nhà máy ấy phải xấc bấc xang bang với nó. Cứ tới 12 giờ trưa, tưởng như từ những ống khói ấy rung lên, phì ra những hồi còi dài the thé rồi đột nhiên nấc lên mấy cái trước khi tắt nghẹn như để cố níu kéo lại cái vẻ oai hùng của một thời trai tráng xa xưa.
Suốt ngày Nhà đèn rên rỉ với những tiếng “o o” của những chiếc quạt gió đến làm tôi khó chịu lúc ban đầu. Ấy đấy, nếu bà con vùng lân cận không nghe thấy cái tiếng “o o” buồn và ray rứt (lời của chị Châu Huyền) ấy thì bà con ta còn phải buồn và ray rứt hơn thế đến ngàn lần vì cái quạt điện trong nhà tự nhiên “trúng gió” lăn đùng ra không quay được nữa giữa mùa hè oi bức. Hoặc, đoàn cải lương Thanh Minh Thanh Nga đột nhiên ngừng trình diễn nghỉ ngơi trên màn ảnh truyền hình. Hoặc, căn nhà trở nên tối om vào lúc đang cần ánh sáng cho sinh hoạt gia đình. Thế rồi cái tiếng “o o” đó cứ quen dần đi và nó lại trở nên thân thương tưởng như không thể thiếu vắng được nữa, vì thiếu vắng nó, sẽ làm ta khó ngủ như thiếu tiếng ru êm hay như hồn thơ ta thiếu những tiếng buồn (của chị Châu Huyền).
Chính vì Nhà đèn quan trọng như thế nên những người làm việc trong cái Nhà đèn ấy dường như cũng phải quan trọng theo, nhất là những ông “xếp”.
Người dân lao động ta thường gọi nôm na những ông “xếp“ này là những ông “Tây nhà đèn”. Cũng có cái hay hay trong ngôn ngữ nước ta là hễ thấy cái gì là lạ, hoặc cái gì sang sang hoặc lơn lớn hơn cái bình thường sẵn có, hoặc cái gì có vẻ bất bình thường thì thường được gắn ngay vào đó một chữ “Tây”, thí dụ như quả táo to thì gọi là “táo Tây”, con gà xấu xí to lớn mà người Mỹ gọi là con turkey thì ta liền gọi nó là con “gà Tây”, rồi nào là củ hành Tây, bánh Tây (bánh mì), nhà Tây, cơm Tây, … vân vân. Có lẽ những ông “Tây nhà đèn” ngoài cái quan trọng vì làm việc trong Nhà đèn, các ông ấy lại có những cái gì trông là lạ khác thường chăng ? Như khi tôi mới vào làm việc tại Nhà đèn tôi thấy các ông “xếp” luôn luôn mặc áo sơ mi cộc tay màu trắng, quần soọc cũng trắng tinh. Có ông trong tay còn cầm cây “can” đen và bóng lưỡng giống như cây “dùi cui” của “mã tà” (police) đi đi lại lại. Các ông “Tây nhà đèn” cứ trắng ngồn ngộn nổi bật lên giữa mọi thứ chung quanh đen ngòm, bụi bậm, dơ dáy làm tôi lấy làm lạ. Các “Ông Tây” này lại hiền như “cục bột” (tất nhiên phải là cục bột trắng rồi) và cái “can” kia chỉ được dùng để ra oai gõ vào đầu những cái đồng hồ áp suất hay nhiệt độ mỗi khi chiếc kim lười biếng không chịu chỉ cho đúng số mà chỉ muốn lui về số zéro ngơi nghỉ. Hay nhiều lắm là các ông “Tây nhà đèn“ này chỉ kéo lê chiếc “can” trên chấn song cửa sổ để tạo nên những tiếng khua hầu đánh thức những bác công nhân già gác máy đương thiu thiu ngủ gật.
Được mặc những bộ quần áo trắng đó là mơ ước của tôi lúc ấy. Nhưng cũng rủi thay cho tôi, ước mơ ấy chẳng bao giờ trở thành sự thật vì sau đó những bộ quần áo trắng được thay thế bằng những bộ đồng phục với chiếc áo cộc tay mầu xám nhạt và chiếc quần dài kaki mầu xám đậm cho hợp với “thời cuộc”.
Những năm tháng tôi làm việc tại Nhà đèn thì vui có, buồn có, bận đến mờ người có, thảnh thơi có, lo âu có và đú đởn cũng có luôn. Cuộc sống cứ đều đều trôi đi theo những tiếng “o o” của những chiếc quạt lò.
Nhà đèn có tên chính thức là Hệ thống Phát điện Chợ quán (HTPĐCQ), cái tên quá dài so với cái tên Nhà đèn nên dân gian ít ai biết tới và dùng nó.
HTPĐCQ gồm nhà máy Nhiệt điện (tức nhà máy hơi nước) và mấy nhà máy Diesel gồm nhà máy Diesel Niigata, nhà máy Diesel Chợ lớn và nhà máy Diesel Cầu kho. Ngoài những nhà máy ấy, trong khuôn viên Nhà đèn Chợ quán còn có thêm một Trạm biến điện, một Cơ xưởng và những bộ phận yểm trợ như Bảo trì điện và Kiểm soát điện. Riêng nhà máy Diesel Cầu kho thì nhỏ bé nhất, nằm ngoài hàng rào Nhà đèn, gần cư xá chuyên viên, được sử dụng làm nhà máy dự phòng cho phủ Tổng thống.
Nhà máy Nhiệt điện nằm ngoài cùng và lớn nhất nên che lấp những nhà máy Diesel khiêm tốn nằm phía bên trong nên vì thế người dân ở ngoài khi gọi Nhà đèn là người ta chỉ liên tưởng đến nhà máy Nhiệt điện mà thôi. Cũng như khi người ta đi ngang qua Trung tâm Kỹ thuật Phú thọ thì người ta chỉ liên tưởng đến Trường Cao đẳng Điện học vì trường này nằm phía ngoài cùng và dễ nhận ra.
Hệ thống Phát điện được tổ chức như sau:
Trên cùng là Trưởng Hệ thống (THT).
Ty Dịch vụ gồm những việc như quản lý kho, nhân viên, hành chính, tiếp liệu, cư xá, câu lạc bộ, … trực tiếp báo cáo cho Trưởng Hệ thống.
Dưới THT, về mặt kỹ thuật, là 3 Trưởng Sở gồm Trưởng Sở Điều hành, Trưởng Sở Bảo trì cơ, Trưởng Sở Bảo trì điện.
Dưới các Trưởng Sở là các Trưởng Nhà máy và các Trưởng Ty. Toàn thể nhân viên khoảng hơn 200 người.
Riêng Cơ xưởng tuy nằm trong vòng rào Chợ quán nhưng trực thuộc Trung ương nên được gọi là Cơ xưởng Trung ương (CXTƯ). Trên thực tế thì trên 99 % công việc của CXTƯ này là công việc thuộc về Chợ quán. Cái tên Trung ương thật sự chỉ là tên gọi cho oai mà thôi. Chức vụ Trưởng Cơ xưởng Trung ương thì ngang hàng Giám đốc hay Phó Giám đốc gì đó vì nó thuộc Trung ương. Đúng là một mô hình tổ chức lãng nhách cho cái Xưởng này.
Hệ thống Chợ quán có 4 cư xá nằm riêng biệt, hai dành riêng cho chuyên viên cấp cao, một dành cho trưởng nhóm (cai) và công nhân đã ở lâu năm nằm gần chợ “Năng-Xi“, một chung cư bốn tầng, tức chung cư Hàm tử, nằm ngay bờ sông Sài gòn dành cho Kỹ sư, Cán sự và Trưởng nhóm mới dọn đến. Nhà đèn có câu lạc bộ, hồ bơi, sân bóng truyền, sân quần vợt, và một vài thứ giải trí lặt vặt khác như bi-da, sân thẩy “bi” sắt chẳng hạn. Thỉnh thoảng có những buổi chiếu phim dành riêng cho con em công nhân. Tóm lại, các phương tiện giải trí tương đối đầy đủ cho nhân viên làm việc tại đây.
Một biệt thự to lớn nằm riêng biệt gần cư xá chuyên viên là căn nhà dành cho Tổng Giám đốc của Công tỵ. Thầy Phát là người cuối cùng ở căn nhà này.
Nhà đèn còn có một hệ thống cung cấp nhu yếu phẩm và tổ chức bữa ăn trưa miễn phí cho nhân viên rất tốt. Riêng nhà máy Nhiệt điện có quỹ tương trợ được thành lập riêng do sự đóng góp của toàn thể công nhân nhà máy này.
Nhà đèn được một đại đội Cảnh sát Dã chiến và một bót Cảnh sát bảo vệ vòng ngoài. Tổ chức Nhân dân Tự vệ và những Công an của Tổng nha Cảnh sát gửi vào làm việc cùng với công nhân có nhiệm vụ bảo vệ vòng trong. Chính vì có sự bảo vệ chặt chẽ như thế nên Nhà đèn Chợ quán đã thoát hiểm mấy lần nhờ sự khám phá và phá vỡ được những kế hoạch cho nổ tan Nhà đèn của cộng sản bằng những khối lượng chất nổ đã được lén lút chuyển vào.
Trưởng Hệ thống Phát điện Chợ quán hay Giám đốc Nhà đèn cuối cùng là ông Bùi văn Nghiêm. Đấy là tôi kể đến cái mốc thời gian của đầu năm 1975. Tất nhiên ông Nghiêm là cấp chỉ huy trực tiếp cuối cùng của tôi trong Công Ty Điện Lực.
Thời gian tôi làm việc tại Nhà đèn được tròn tám năm, trải qua ba đời “xếp lớn” (Trưởng Hệ thống) ở đây.
Xếp đầu tiên là ông Ngô Đức Huấn, người đã interview tôi lúc tôi xin việc, và đây cũng là cái interview đầu đời của tôi. Chẳng phải nói ra thì cả Công ty Điện lực ai cũng đều biết ông “Tây nhà đèn“ này là ai, “Tây nhà đèn“ thứ thiệt. Tính ông tốt, nhưng phải cái tội, ông bị mắc cái bệnh “đau dạ dầy” kinh niên rất nặng. Cũng vì cái bệnh “đau dạ dầy” này nên ông hay buồn vui thất thường. Và cũng chính vì cái thất thường ấy nên tôi cứ phải né ông. Tôi né hay quá nên suốt bao năm làm việc với ông, ông không có cơ hội để bệnh “đau dạ dầy” của ông ảnh hưởng đến tôi lần nào. Chưa một lần nào, có phải không “xếp” Huấn ?
Ấy thế mà khi tôi chân ướt chân ráo vừa đặt chân đến nước Mỹ, ông liên lạc ngay với tôi và rủ tôi sang miền Đông làm việc với ông. Tôi nhận lời. Ông tự làm résumé cho tôi rồi gửi đi. Ít lâu sau, trong khi chờ đợi, tôi gọi phôn lên ông để từ chối, nại cớ miền Đông lạnh quá. Lần này tý nữa ông nổi cơn “đau dạ dầy” với tôi. Cũng may là bên đây có thuốc tốt nên ông hạ cơn đau được ngay. Sau đó thỉnh thoảng ông gửi cho tôi vài cái coupon discount hay vài món quà nho nhỏ, đặc biệt có năm ông bà Huấn gửi cho tôi mấy giò hoa thuỷ tiên ăn Tết làm chúng tôi cảm động vô cùng.
Cách đây mấy năm, tôi có dịp sang miền Đông chơi, ông lái xe hơn một tiếng đồng hồ tới chỗ tôi ở rồi đưa hai vợ chồng tôi về ghé thăm nhà ông. Hôm đó hai ông bà Huấn đã đãi chúng tôi bữa cơm tối thịnh soạn, thân tình và cùng nhau ngồi nhắc lại chuyện xưa.
Bây giờ, trong số 3 ông “xếp” của tôi, chỉ còn “xếp“ Huấn là người tôi còn có thể gặp và chọc cười với nhau qua điện thoại. Ông thường than thở với tôi là ông chưa được ăn “humberger” bao giờ. Tôi nghĩ, ông chưa được ăn không phải vì ông không có tiền mua mà chỉ vì cái tuổi tác của ông không cho phép ông ăn, mà có ăn chắc cũng không còn thấy ngon nữa. Thôi ông Huấn ơi, nếu ta còn sức, cứ “cơm nhà phở chợ” thuần túy quê hương cũng đủ mãn nguyện lắm rồi.
Xếp thứ hai là ông Phan Xuân Hùng, trung tá thứ thiệt. Ông Hùng thì coi ai cũng là lính và chỗ nào cũng là trại lính cả. Cứ cái chiến lược chiến thuật nhà binh ông đem từ trong máu ông ra mà áp dụng cho cái Nhà đèn Chợ quán. Ngay cả cái việc quản trị hành chính của ông cũng thế, chung quanh ông được dán hoặc treo đầy những biểu đồ và những báo cáo, … nào là của hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm. Muốn gặp được ông thì cứ phải vạch những món ấy ra mới thấy ông đang thu mình trong ấy. Ông nhà binh, tôi cũng nhà binh (mới học quân sự ở quân trường về) nên kỵ nhau trong buổi ban đầu. Có thời gian, gặp nhau ở cầu thang, ông đi lên, tôi đi xuống, ông ngoảnh sang phải, tôi ngó sang trái, chẳng ai chịu nhìn ai. Về sau không hiểu tại sao ông lại “thương” tôi và tôi cũng “yêu” ông. Ông đưa tôi đi ăn cơm Huế ở Sài gòn với những món tré, cá kho tộ, và những món ăn cay “lột lưỡi”.
Trước những ngày cuối cùng của đời ông, tôi có dịp đi du lịch nước Tầu cùng với ông bà Hùng. Lúc đó ông Hùng còn mạnh khoẻ lắm, ông leo núi ở Quế lâm còn giỏi hơn tôi. Và cũng ở Quế lâm, trong khi đi xem show những con chim bắt cá đem về cho chủ trên dòng sông Li, ông tưởng tôi là một trong những con chim ấy nên cứ bóp cổ tôi bắt tôi phải nhả cá ra. Nhà tôi quay được khúc phim lúc ông vui ấy, xem lại tôi thật nhớ ông. Cũng trong chuyến đi này, một lần ông cứ để ống quay phim trên mắt, lừng lững tiến về phía tôi để quay hình tôi tại cái tháp gần sông Tiền Đường, ông bị hụt chân ngã bổ chổng, ông ngã đau lắm, tôi phải xoa dầu vào đầu gối trầy sướt cho ông. Đi Tầu về đâu được vài tuần lễ, ông ngã bệnh. Tôi đến thăm ông, ông gầy quá, tôi đứng nhìn ông ái ngại và thương. Tôi nắm tay ông rất lâu trước khi ra về. Và lần thăm ấy cũng là lần cuối cùng tôi gặp ông trước khi ông ra đi vĩnh viễn sau đó không lâu. Thương nhớ ông nhiều.
Xếp thứ ba là ông Bùi văn Nghiêm. Ông Nghiêm đối với tôi là chỗ thân tình vì tôi làm việc với ông lâu nhất. Tôi đối với ông Nghiêm vừa là tình đồng nghiệp vừa là tình thân như anh em và tôi cũng coi ông như một người thầy. Tính ông trầm tĩnh, giỏi về kỹ thuật, biết dùng và tin người trong quản trị. Tất cả mọi người làm việc dưới quyền ông đều kính trọng ông, trọng về tài, kính về đức đô. Trong chúng tôi không ai nghĩ đến việc qua mặt ông bất cứ điều gì. Giả thử có qua mặt được ông thì cũng không ai dám và nỡ lừa dối ông như thế. Không phải riêng tôi mà tất cả chúng tôi, những nhân viên Chợ quán dưới quyền ông đều nghĩ như thế. Vì được làm gần ông nên tôi đã học hỏi được nhiều điều tốt nơi ông. Tôi chỉ tiếc một điều, trong hoàn cảnh chiến tranh và nhiễu nhương của đất nước nên ông không có cơ hội để thi thố tài năng. Ông sống như một người ẩn dật, nhẫn nại trong cái nhà máy cũ kỹ ấy cho đến ngày mất nước.
Tôi còn nhớ một điều, khi cộng sản vừa vào tiếp thu Nhà đèn Chợ quán, họ đem tôi và ông Nghiêm ra cho công nhân “gợi ý“ về những sai lầm của chúng tôi trong quá khứ. Thật sự đây là một hình thức “đấu tố” nhằm khích động và gây căm thù của công nhân đối với các cấp chỉ huy cũ. Nham hiểm thế đấy. Hôm đó toàn thể công nhân đã nói toàn những điều tốt đẹp cho chúng tôi và đã làm cho Ban quân quản phải thốt lên câu “Hai anh được công nhân yêu quý thật”. Điều này, xẩy ra một lần nữa, được ghi vào một văn bản mà hiện nay tôi còn giữ.
Khi tôi bị cộng sản buộc nghỉ việc tại Nhà đèn và giao tôi cho Công an quản lý, ông Nghiêm có lần đã nhận sự nguy hiểm cho chính bản thân mình, sau khi ông vừa đi học tập cải tạo về, ông đã đến đồn Công an để bảo vệ tôi trước những lời buộc tội của họ dành cho tôi vì có liên quan đến những văn bản của Chợ quán trong thời cũ. Ông đã tự nhận mọi trách nhiệm về những sai sót và nhầm lẫn của những văn bản ấy. Tôi còn giữ bản sao lá đơn ông gửi cho Công an cộng sản lúc đó. Chưa gặp được lại ông để được cám ơn ông lần nữa trên mảnh đất tự do này, trong lòng tôi thật có nhiều áy náy. Khi tôi sang tới Mỹ, tôi mất hẳn tin tức về ông mặc dầu tôi cố tâm tìm kiếm. Hy vọng ông còn luôn được an vui và dồi dào sức khoẻ tại một nơi thanh bình nào đó.
Trong tám năm làm việc tại Nhà đèn còn biết bao điều phải nói, phải kể, phải viết ra.
Biết bao nhiêu ân tình, biết bao kỉ niệm thân thương của những cấp chỉ huy, của những bạn đồng nghiệp, của các bác các anh em công nhân đã dành cho tôi trong những năm tháng ấy.
Biết bao nhiêu đồng lao cộng khổ, biết bao nhiêu ngọt bùi, biết bao nhiêu tủi nhục dưới thời cộng sản đã được chia sẻ cùng nhau.
Ôi ! Nhà đèn đối với tôi là thế đấy.
Nhà đèn đã ra đi vĩnh viễn nhưng những người gắn bó với Nhà đèn còn đó. Tôi xin trân trọng gửi đến những người còn lại lời tri ân vì tất cả đã để lại trong lòng tôi một tình cảm sâu sắc vô bờ.
Cám ơn Nhà đèn, cám ơn tất cả.
Nếu có dịp, tôi xin được viết tiếp về những sinh hoạt của Nhà đèn Chợ quán cùng những kỷ niệm với các bạn đồng nghiệp thân thương ấy mà trong giới hạn bài này tôi không thể nêu ra hết được.
Còn đâu kỷ niệm khung trời ấy,
Một thoáng gợi buồn, hạnh phúc xưa …

Người Chợ Quán

BỆNH VIỆN CHỢ QUÁN

Bệnh viện Chợ Quán (nay là Trung tâm Bệnh Nhiệt Đới – 190 Bến Hàm Tử, phường 1, quận 5, ) được người dân Sài Gòn – thành phố nhớ đến như một bệnh viện chuyên chữa bệnh tâm thần. Do nhu cầu điều trị bệnh tâm thần nên trong bệnh viện có một khu trại giam dành cho bệnh nhân tâm thần. .

Khi Pháp tấn công đồn Kỳ Hòa (1861), chúng chiếm một khu đất ở vùng Chợ Quán làm trạm cứu thương. Sau khi chiếm xong 6 tỉnh ở Nam Kỳ, thực dân Pháp cho xây trên nền trạm cứu thương một bệnh viện dành riêng cho người Việt.

Đến năm 1864, bệnh viện được xây dựng xong. Đó là bệnh viện Chợ Quán. Từ năm 1875 bệnh viện có 2 chuyên khoa chính là bệnh phong (cùi) và bệnh tâm thần. Ngoài ra bệnh viện còn điều trị một số bệnh truyền nhiễm. Như vậy, khu trại giam để giam giữ người bệnh tâm thần cũng được xây dựng từ những ngày đầu xây dựng bệnh viện.
Trong cai trị nước ta, thực dân Pháp đã bắt bớ nhiều đồng bào yêu nước. Chúng tra tấn dã man đến lâm bệnh. Thực dân Pháp cần khai thác những bí mật nên chúng đưa tù nhân vào bệnh viện Chợ Quán để điều trị. Từ đó, khu nhà dành để nhốt người bị bệnh tâm thần trở thành nơi giam giữ những người tù bị bệnh. Các bệnh nhân tù của tất cả những nhà tù, trại giam bót cảnh sát trong thành phố và các tỉnh lân cận đều được đưa đến khu trại giam trong bệnh viện Chợ Quán, ở đây có cả tù thường phạm và tù chính trị.

Đến năm 1945 bệnh viện vẫn không ngừng được mở chiếm đóng và sử dụng 2/3 làm nơi điều trị bệnh lao cho binh lính. Lúc này bệnh viện mang tên: Viện Bài Lao Ngô Quyền. Cuối năm 1957, quân đội trao trả lại cơ sở này cho dân sự. Từ đó bệnh viện được lấy tên bệnh viện Chợ Quán.
Năm 1972, theo chương trình hợp tác Đại Hàn – Việt Nam, khu trung tâm của bệnh viện được xây dựng lại. Khu trại giam vẫn được giữ nguyên như cũ, nhưng từ đó không còn dùng để giam bệnh nhân tù nữa mà được dùng làm nhà kho. Sau năm 1975, khoa tâm thần tách ra khỏi bệnh viện Chợ Quán.

Năm 1989 bệnh viện đổi tên thành “Trung tâm Bệnh Nhiệt Đới”.

—0O0—

0 comments:

Powered By Blogger