“CÔNG” ???

KBCHN: Bài viết của tác giả mang chủ đề “Công hay Tội” được KBCHN đăng rộng đường dư luận. Mặc dù, trong bài Công cũng đã có sự thiên vị (chê bai ông Kỳ, đoạn chót). Đa tạ.

Ông Nguyễn Cao Kỳ, 81 tuổi, đã qua đời hôm thứ sáu tại Malaysia. Chắc chắn, trong những ngày sắp đến, nguòi ta sẽ nói nhiều, viết nhiều đến ông, một nhân vật lịch sử trong một thời đất nước nhiễu nhương, tao loạn. Ông từng là tư lệnh Không Quân, thủ tướng (chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương) trong những năm biến động của miền nam (1965-67), Phó Tổng thống trong những năm đầy thử thách của chế độ (1967-71). Sự nghiệp của ông có vẻ bạo phát bạo tàn, nhưng ý nghĩa lịch sử thì có thể sâu xa hơn những gì nhiều người có thể nghĩ. Trong những năm qua, người ta viết quá nhiều về ông. Dĩ nhiên phần lớn là phê phán. Khi chẳng còn mấy để viết, nguòi ta chẳng chừa gì những điều người ta nghĩ người ta biết. Về cá tính, tư cách của ông. Về thân thế và đời tư của ông. Và nhất là về sự chuyển hướng 180 độ trong lập trường chính trị. Khi còn sống, ông đã có thái độ bưng tai, bịt mắt trước dư luận – ít nhất là kể từ năm 2004. Nhưng chẳng phải vì thế mà người ta không tiếp tục viết về ông, một phần là vì nghiên cứu lịch sử là một sự tìm kiếm liên tục để soi sáng những chỗ còn chưa đủ sáng trong quá khứ.
Thế sự thăng trầm cho người vừa nằm xuống
Hoàng Ngọc Nguyên 2011/07/25



Ông Kỳ, sinh năm 1930 tại Sơn Tây, đã nổi lên trong đám sĩ quan tướng tá trẻ thường được gọi là Young Turks, chớp thời cơ khi cờ đến tay bởi vì lớp tướng lãnh cựu trào thời Pháp đã cho thấy nhiều mặt bất cập trước tình thế, và phía các đảng phái quốc gia không có đảng nào đáng là lá cờ đầu, không một chính khách nào đủ bản lĩnh là lãnh tụ. Sau cả một năm rưỡi nhiễu nhương, hỗn loạn, gần nhất là sự tranh chấp quyền lãnh đạo của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát, quân đội được dân sự giao quyền, và một cơ chế mới được thành lập, ông Nguyễn Văn Thiệu là chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, và ông Kỷ cầm đầu Ủy ban Hành pháp Trung ương. Chỗ của ông Kỳ có người không dám nhận, như Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh vùng 1.

Ông thực sự làm khá được việc trong những năm có trách nhiệm hành pháp này. Mỹ quyết định đưa quân chiến đấu đến miền Nam từ 10-3-1965, cho nên tình hình chiến trận đã dần dần bớt nguy ngập trong những năm sau đó. Nhớ lại thời đó, ký ức mỗi người có thể mỗi khác về những gì còn lại trong đầu. Người nhớ đến Bộ trưởng Kinh tế Âu Trường Thanh và cuộc chiến chống lạm phàt phi mã bằng cách phá giá đồng bạc Việt Nam với hối suất mới 118 đồng ăn một Mỹ kim vào ngày 18-6-1966. của ông. Người thì nhớ đến cái “chính phủ của người nghèo” của ông Kỷ và pháp trường cát ông dựng lên mà “nghi can” hay “nạn nhân” duy nhất là Hoa kiều Tạ Vinh – bởi thế mà người Hoa sau này quay mặt với ông. Giới tuổi trẻ ở Saigon thì phải nhắc đến chương trình quận tám và các chương trình sinh hoạt hè. Người miền Trung, nhất là người Huế và Đà Nẳng hẳn phải nhớ đến cuộc hành quân chấm dứt biến động miền trung với chiến dịch khiêng bàn thờ ra ngoài đường của Thượng tọa Trí Quang vào tháng năm 1966. Tất cả những gì nguòi ta còn có thể nhắc lại đó đều là những chuyện gây nhiều tranh cãi, nhưng có hai điều chắc chắn có thể kết luận từ đó: thứ nhất, ông không né tránh hay đùn đẩy trách nhiệm “lãnh đạo quốc gia” ; thứ hai, những sự việc đó đã góp phần tạo dấu ấn của thời Nguyễn Cao Kỳ, xây dựng được sự ổn định cần thiết đã không có sau cuôc đảo chánh Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11 năm 1963.


Là nhân vật có quyền nhất và có trách nhiệm nhất trong chính phủ, nổi bật hơn cả ông Thiệu đang im lặng ẩn nhẫn chờ thời, dĩ nhiên ông Kỳ cũng đáng được ghi công vế chuyện xây dựng nền Đệ nhị Cộng hòa. Ông đã giữ lời hứa tổ chức bấu cử Quốc hội Lập hiến vào ngày 10-9-1966. Đây là cuộc bầu cử tự do, dân chủ đầu tiên người dân miền nam đã có từ năm 1963, và sự tham gia tích cực của các đảng phái, tôn giáo, chính trị địa phương (nhất là người nam) đã cho thấy nhận thức chung một thời mới đã mở ra. Tuy nguòi ta có phê phán ít nhiều sau đó về quá trình hình thành hiến pháp và sức ép của phía chính quyến đối với những qui định tổ chức bầu cử Thượng Viện, Hạ Viện và Tổng thống (như chuyện ông “Sáu Lèo” mặc cảnh phục đi dép Nhật, lưng đeo súng, tay cầm chai rượu, đi lên lầu trên Hạ Viện ngồi nhìn xuống theo dõi sự đời), Hiến pháp 1-4-1967 đáng được xem là một thành công của nền dân chủ miền nam.


Có ba câu chuyên sau đó cũng có thể nói thêm về ông Nguyễn Cao Kỳ.


Thứ nhất, trong cuộc bầu cử tồng thống năm 1967
, trong khi ai cũng nghĩ ông sẽ ra tranh cử chính thức với sự ủng hộ của Hội đồng Quân lực, và ông Thiệu nếu có ra sẽ phải tranh cử với tính cách độc lập, thì ông Kỳ đã chấp nhận chẳng những đứng chung liên danh với ông Thiệu mà còn đứng phó. Ông Kỷ vào lúc đó được sự ủng hộ mạnh mẽ của hội đồng tướng lãnh, những tướng có binh quyền trong tay đều đứng sau lưng ông Kỷ (Lê Nguyên Khang, Nguyễn Đức Thắng, Cao Văn Viên), thế nhưng ông Kỳ, như ông viết trong sách “Con cầu tự”, đã “cầm lòng không đậu” trước giọt nước mắt lả chả của ông Thiệu nên “khằng khái” thay đổi quyết định. Dĩ nhiên đó là mối hận ông Kỳ sẽ mang xuống tuyền đài chưa tan, lý do có nhiều ta cũng có thể đoán, nhưng quyết định đó cũng cho thấy cá tính, tư cách của ông Kỷ rất nhiều.

Thứ hai, trong dịp Mậu Thân, Việt Cộng tấn công.
Ông Thiệu mãi về quê vợ ở Mỹ Tho ăn Tết nên bị mắc kẹt, phải chờ Mỹ đưa trực thăng tới đón mới dám vế. Ông Kỷ một mình ở Saigon đối phó, điều động lực lượng chống trả và tiêu diệt những lực lượng đặc công của dịch đánh vào Dinh Độc Lập, tòa Đại sứ Mỹ, phi trường, các khu dân cư… Một nữ ký giả Ý gai góc số một, Oriana Fallaci (1929-2006), đã từng viết vế hai bài phỏng vấn dài về hai ông Kỳ và Thiệu, đã nói lên những ấn tượng mạnh mẽ của bà khi quan sát sự lo nghĩ căng thẳng và ưu tư vế vận mệnh của đất nước của ông Kỳ trong thời gian có cuộc tấn công của Việt Cộng, và sự dấn thân của ông trong việc đảm đương chỉ huy cuộc truy quét địch. Sau khi ông Thiệu về, bao nhiêu công lao của ông Kỷ đều đổ xuống song, xuống biển.

Thứ ba, cách đây đúng 40 năm, ông Thiệu đã tổ chức bấu cử độc diễn.
Sau khi ông Thiệu hạ bệ Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc của ông Kỳ và thanh toán hết vây cánh của ông Kỳ trong quân đội sau đợt tổng tấn công đợt hai của Việt Cộng năm 1968, ông Kỳ đã ngồi chơi xơi nước bên cánh trái của dinh Độc Lập cả ba năm. Năm 1971, người ta nghĩ ba ông Thiệu, Kỳ và Dương Văn Minh sẽ ra tranh cử, nhưng ông Thiệu dùng đủ mọi thủ đoạn đề chỉ có thể một người ra tranh với ông mà thôi. Rốt cuôc, cả ông Minh và ông Kỳ đều chẳng muốn chơi trò này, khi người ta nhìn vào bụng dạ của hai người: ông Thiệu và Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker. Trong bao nhiêu năm nhẫn nhục đó, ông Nguyễn Cao Kỳ, vẫn được tiếng là con nguòi hành động, đã nói chơi nhiều mà chẳng làm thật những đe dọa đảo chính hay lật đổ này nọ. Ông đã không hành động khinh xuất vì cá nhân!

Những nguòi quan sát có thể kết luận này nọ về ông Kỳ của thuở trước. Một người cương quyết, dám làm. Ông bắn Tạ Vinh không sợ người Hoa. Đưa quân ra miền Trung không sợ người miền Trung và người theo đạo Phật. Dám có hành động với những tướng Nguyễn Chánh Thi hay Nguyển Hữu Có. Ông tin người, chịu nghe và dám làm, không đa nghi, không do dự. Ông ít bè phái và không có đầu óc kỳ thị địa phương nam bắc, mặc dù ưa bạn bè, thích giao du. Chung quanh ông một thời có nhiều người giỏi. Đám dân biểu người Nam sau này chạy theo ông Minh khi bắt đầu được hình thành nhờ sự đỡ đầu của ông. Mặc dù ông có tiếng là “liều lĩnh”, thích làm ngưòi hùng, dân anh chị, chơi ngông, từ bộ râu đến quân phục và áo lãnh tụ như Mao Trạch Đông… nhưng trong hành động ông quyết định cẩn trọng, thực tế hay thực tiễn, cân nhắc không ít đến hậu quả, ví dụ như trong việc nhường cho ông Thiệu năm 1967, và đề cho ông Thiệu lấn át những năm sau.


Trong khi có quyến hành đòi hỏi phải hành xử một cách có trách nhiệm, ông đã kềm chế đưọc cá tính của mình, giữ gìn tư cách của mình. Nếu năm 1967 ông tranh cử tồng thống và thành công, đất nước sẽ ra sao. Đó là một câu hỏi nên suy nghĩ. Nhưng với cái số bạo phát bạo tàn mà nhiều người Việt của X Generation (sinh ra từ 1925-1945) phải trải qua, ông đã làm hỏng chính ông một cách tan hoang. Ông chẳng còn gì cả – thân bại danh liệt. Ông cư xử trong những cách người ta không hiểu nổi và khó thế châm chước. Và nay, gặp lại những bạn bè cũ ở bên kia sông như Phạm Phú Quốc, Lưu Kim Cương… ông sẽ phải ăn làm sao, nói làm sao đây ?


“TỘI” ???

NGUYỄN CAO KỲ VỪA” TIÊU DIÊU NƠI MIỀN LÊ-MÁC”

Cựu Thiếu Tướng Không Quân, nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương và phó tổng thống Việt Nam Cộng Hòa là Nguyễn Cao Kỳ vừa” giã từ gác trọ” ở Mã Lai vào ngày 23 tháng 7 năm 2011, được coi là đã” viên tịch” và có khả năng” tiêu diêu nơi miền Lê-Mác”, dù ông là một Phật tử, mà trước đó, xưng là “ Buddha Child”, dùng đề tựa cho cuốn sách của ông.

Nguyễn Cao Kỳ có cuộc đời rất ư là” sóng gió”, lúc lên voi, khi xuống chó, tánh hay la ó với phổi bò, lúc tướng Nguyễn Ngọc Loan còn sống, khuyến cáo” ông Kỳ cần phải xin lỗi đồng bào Việt Nam vì tội nói nhăng nói cuộc” những biến cố thăng trầm trong cuộc đời khanh tướng và đón gió trờ cờ, phần lớn do ông tạo ra từ thời thế. Thời đệ nhất Cộng Hòa, còn là trung tá không quân, lái vận tải cơ trong nhiều công tác quân sự. Lúc chưa gặp thời, ông hay la cà ở các quán nhậu vùng Lăng Cha Cả, sở thích là món thịt cầy:


“ Lúc ngộ vi, thịt cầy qua bửa.
Thời thịnh hưng, vung vít nổ to”.

Cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 của đám phản tướng, tá, cầm đầu do tên Việt Cộng làm nội tuyến trong hàng ngũ cao cấp quân đội và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa là trung tướng Dương Văn Minh, móc nối và nhận công tác từ cụm tình báo chiến lược A-10, với em ruột là đại tá Việt Cộng Dương Thanh Nhựt từ năm 1960 và bắt đầu công tác” nội ứng” năm 1962. Trước cuộc đảo chánh, Dương Thanh Nhựt cùng với” đồng chí” của hắn là Võ Văn Thời, ra bắc, dùng cơm với tên Lê Duẩn. Bộ mặt giả nhân giả nghĩa, đạo đức, nhân từ của tên nội tuyến Dương Văn Minh, không thể che dấu trước lịch sử và sự thật. Nhận lịnh từ Hà Nội, sau cuộc đảo chánh, Dương Văn Minh giải tán 16.000 ấp chiến lược, là tháo bỏ mạng lưới an ninh lãnh thổ khắp miền nam, tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho Việt Cộng tái hoạt động sau 9 năm bị chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa truy lùng, nên phải trốn tránh trong rừng sâu, hầm bí mật. Tên Dương Văn Minh còn thả hàng chục ngàn tên khủng bố phiến Cộng, chúng về rừng và tiếp tục hoạt động đánh phá sự an bình của dân chúng miền nam.

Thời điểm sau 5 tháng huề thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, gây thêm thuận lợi cho Việt Cộng xuyên tạc miền nam trước công luận quốc tế và nhân tâm, nên đóng góp công sức với Việt Cộng trong cuộc đảo chánh 1963. Sau đó Thích Quảng Đức được” đồng bọn” Ấn Quang tấn phong” bồ tát” với trái tim bất diệt ( tim chưa cháy hết), nhưng năm 2011, Việt Cộng vô thần đã dựng tượng” bô tác Thích Quảng Đức” như là người lập công to với” cách mạng vùng lên để cướp của giết người”, thế là cái chết của Thích Quảng Đức có lợi vô cùng cho Việt Cộng, đóng góp nhiều cho cuộc đảo chánh, sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu. Nghiệp báo chồng chất qua cuộc đảo chánh nầy, mà Thích Quảng Đức có dự phần để đưa miền nam tự do lọt vào tay Cộng Sản ngày 30 tháng 4 năm 1975: hàng trăm ngàn quân nhân cán chính bị tù, hàng chục ngàn không bao giờ trở về, hàng triệu người chết trên đường tìm tự do…và nhất là đất nước ngày nay đang tiến gần đến bị nô thuộc bởi Trung Cộng.


Từ đám tướng tá phản loạn, Nguyễn Cao Kỳ tiến nhanh, tiến mạnh trên đường công danh. Thăng thiếu tướng, tranh quyền và từ năm 1965 trở thành chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương ( như là thủ tướng). Thời ấy là cực thịnh, ông Kỳ ồn ào hô hào” bắc tiến”, khiến tinh thần dân quân miền nam lên cao. Điểm nổi bật là năm 1966, giặc thầy chùa do thượng tọa Thích Trí Quang, Thích Thiên Minh, cấu kết với đám Việt Cộng nằm vùng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Võ Đắc Xuân…phát động cuộc bạo loạn, lấy chiêu bài” pháp nạn” để qui chụp chính quyền miền nam” đàn áp Phật Giáo”, một điều lếu láo trắng trợn là vì người có quyền hành số một là Nguyễn Cao Kỳ, là một “đứa con Phật” thì làm gì có đàn áp Phật Giáo?. Vậy mà cũng có nhiều Phật tử tam tạng thời đại nhắm mắt đi theo” tấm bản chỉ đường của bọn ác tăng” trong lớp áo cà sa, nhưng bên trong” thờ ma Cộng Sản”. Lúc đó Nguyễn Cao Kỳ cử thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan ra trung dẹp loạn” thầy chùa”, chúng tức giận phát động chiến dịch” mang bàn thờ Phật xuống đường” có nơi đặt tượng Phật trên đóng rác…những tên Việt Cộng núp bóng Phật giáo dùng bình phong tượng Phật, bắn vào lính VNCH, nên mới có câu:” núp bóng từ bi, đâm sau lưng chiến sĩ”.


Sau trận tổng công kích tết Mậu Thân 1968, với những cái chết của một bộ chỉ huy thân ông Kỳ bị phi cơ bắn lầm hay lý do thầm kín nào đó, tướng Loan thoát chết nhưng bị thương, thì cánh ông Kỳ yếu thế, nhường bước cho trung tướng Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền từ năm 1967 với hiến pháp đệ nhị Cộng Hòa 1 tháng 7 năm 1967. Mối tình quyền thế gượng ép, nên ông Kỳ đành phải trở thành” phó tổng thống” ngồi chơi xơi nước, vui thú” đồn điền” ở Khánh Dương và tìm nguồn vui qua những trận đá gà.


Nhưng cái mộng” mưu bá đồ vương” vẫn chưa nguôi ngoai, nên trước kỳ bầu cử tổng thống, năm 1971-1976, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đã bí mật tiếp xúc, mời phái đoàn sinh viên thân Cộng đến trại Phi Long, ngay trong phi trường Tân Sơn Nhứt để hợp. Những tên Việt Cộng nằm vùng như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Hạ Đình Nguyên, Võ Như Lanh, Nguyễn Thị Yến, Phan Công Trinh…được ông kỳ giúp đỡ: cho mượn nơi để in truyền đơn, trú ngụ ngay trong dinh, vì trụ sở sinh viên ở số 207 đường Hồng Bàng bị cảnh sát canh giữ. Nhờ nơi an toàn với lính gác, nên đám sinh viên Việt Cộng, sau khi bị đuổi, chạy vào đây, cảnh sát không dám đụng tới.


Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông Kỳ và gia đình di tản sang Mỹ sống thoải mái, ông không làm gì cả, chỉ ăn chơi, bài bạc và thỉnh thoảng được mời đi dự hội, phát biểu linh tinh. Sau nầy, ông Kỳ trổ mòi phản trắc, khi tuyên bố” Quốc-Cộng đề huề” để dọn đường cho sự phản bội, được vài khoa bảng như giáo sư Lê Xuân Khoa hổ trợ, viết bài đăng báo. Nam 2004, Nguyễn Cao Kỳ lại” tiến về Bắc” để làm cò mồi cho Việt Cộng, thay vì” bắc tiến” giải phóng miền bắc. Dù bị hầu hết người Việt hải ngoại lên án, dân trong nước khinh khi, nhưng ông Kỳ vẫn” thanh tâm trường chay mặt”, tiếp xúc, chụp hình lưu niệm với chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc Việt Cộng là Phạm Thế Ruyệt và tuyên bố lung tung.


Trong thời gian nầy, ông Kỳ được Việt Cộng xài như là thứ chó săn, sai đi đây đó, có lúc sang Mỹ chung với Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng…tuy nhiên Việt Cộng đã hoàn toàn thất bại, tưởng là dùng ông Kỳ, từng làm lớn ở Việt Nam, có thể gom hết người Việt hải ngoại, đoạn bàn giao trong vòng trật tự. Nên có lúc ông Kỳ tự xưng là” đại diện cho người Việt nước ngoài”. Được biết, lúc ông Kỳ và vợ sau Nicole Kim về Việt Nam” phục vụ trong công tác tuyên truyền cho đảng” thì có nhà phét sử, nhà dzăng Dạ Dưới ĐẶNG NHAM NHỞ cũng về nước để in sách, tiếp súc với” văn nô” trong nước và gặp nhau và cùng” ăn uống tại nhà hàng”, thật là tương đắc.


Năm 2011, nguồn tin cho hay là: ông Kỳ bị vắt chanh bỏ vỏ, khi những công tác” lợi đảng, giúp bạo quyền” bất thành. Nghe đâu Việt Cộng hăm ” cho xe đụng” để sớm” viên tịch” nên ông Kỳ hoảng sợ, có ý định xin qua sống ở Mã Lai cuộc đời còn lại, mang nhiều tai tiếng lúc tuổi gần đất xa trời?. Cũng có nguồn tin là ông Kỳ lén về Mỹ, sống âm thầm ở Louisana…nay nhận được tin Nguyễn Cao Kỳ” viên tịch” tại Mã Lai, vì chứng bịnh phổi phét gì đó. Được biết, Nguyễn Cao Kỳ còn có hổn danh là” Kỳ phổi bò”, lại bị bịnh phổi mà” viên tịch” thì cũng là luật nhân quả và chuyện khó tin nhưng có thật…chứ trong các bịnh lý loài trâu bò, ít ai nghe nói đến vụ bò bị bịnh phổi, hay bò ho lao, bò xưng phổi…


Con gái là Nguyễn Cao Kỳ Duyên đi Mã Lai, chắc là an táng tại quê hương. Nếu đảng và bác ghi công lao” đón gió” từ năm 2004 đến nay, thì thi hài ông Kỳ cũng dám được” an nghỉ” tại nghĩa trang Mai Dịch?. Lúc trước, khi súc vật Võ Văn Kiệt” viên tịch”, được” tiêu diêu nơi miền Lê Mác”, thì có Nguyễn Cao Kỳ, đóng vai” đạo tì” ôm vòng hoa tím, có chụp hình đăng báo, phổ biến khắp nơi để người Việt biết đến thành tích” đón gió trở cờ cao cấp” của ông Kỳ. Không biết là trong đám táng của Nguyễn Cao Kỳ ở Việt Nam có ai ở trung ương đảng đến” phân ưu” như là đám ma của thiếu tá quân hại nhân dân Trịnh Công Sơn, có nhiều tên” tai vượn mặt khỉ” như đại tướng nạo thai” nghiệp chuyên” Võ Nguyên Giáp tham dự?. Họ Trịnh còn được Mai Ghẻ tưởng nhớ qua các đêm văn nghệ” đóa hoa vô thần” ở Mỹ, Âu Châu…..không biết là” Nghinh Phong Viện Chủ” Nguyễn Cao Kỳ có ai nhớ đến để” tưởng niệm”? Còn đám ma tại Việt Nam, theo như tin tức thông báo, chắc chắc là được thân nhân cho phủ áo quang ” lá cờ đỏ sao vàng”, là ân huệ mà đảng dành cho một tên tay sai lỡ vận trong cái” nghĩa tử là nghĩa tận”, nhưng dân chúng oán giận về thành tích của một kẻ phản bội, đung đầu về Hà Nội, làm tôi mọi cho đảng siêu cướp, súc vật Việt Cộng./.


Trương Minh Hòa
24.07.2011