(trích: Về các nhân vật dân sự của Mười Thắng)
Có một nhân vật đã gây nhiều thắc
mắc là nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, trưởng nhóm Tự Lực Văn Đoàn, người từng
đảm nhiệm vai trò Bộ Trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Liên hiệp Hồ Chí Minh
1946, nhưng chỉ được ba tháng vì bất đồng chính kiến thì xin từ chức. Thời Quốc
Gia Việt Nam (Quốc Trưởng Bảo Đại) và thời Đệ Nhất Cộng Hòa (TT Ngô Đình Diệm),
ông Nguyễn Tường Tam hoạt động văn hóa, cho xuất bản các tác phẩm của Tự Lực Văn
Đoàn và chủ trương tờ Văn Hóa Ngày Nay. Cũng dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, các tác
phẩm của Tự Lực Văn Đoàn và của Nhất Linh đã được Bộ Quốc Gia Giáo Dục đưa vào
chương trình Trung Học. Tưởng chưa có một vinh dự nào lớn lao đối với một nhà văn
như Nhất Linh khi còn sinh thời và Tự Lực Văn Đoàn đã được chính quyền xử sự như
thế. Điều đó chứng tỏ nền Đệ Nhất Cộng Hòa và riêng cá nhân TT Ngô Đình Diệm rất
nể trọng Tự Lực Văn Đoàn và cá nhân nhà văn Nhất Linh. Thật sự thì không ai có
thể phủ nhận công trình văn học của Tự Lực Văn Đoàn và nhà văn Nhất Linh. Cho nên,
việc chính phủ Ngô Đình Diệm đưa các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn vào chương trình
Trung Học là đúng đắn, rất đáng hoan nghênh. Nhưng không hiểu tại sao Nhất Linh
lại bị tố cáo có dính líu vào cuộc Binh Biến ngày 11-11-1960
của bè nhóm Vương Văn Đông, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Chánh Thi để đưa ông đến chỗ uống
thuốc độc tự tử ngày 7-7-1963 qua cái
gọi là bản di chúc chính trị nguyên văn như sau:
“Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ và xử tội
tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất vào tay
Cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình, cũng như Hòa thượng Thích Quảng
Đức tự thiêu, để cảnh cáo những người chà đạp
mọi thứ tự do.” Nhất Linh Nguyễn Tường Tam 7-7-63
Vì dính vào vụ 11-11 nên ông bị
Toà Án Quân Sự Đặc Biệt gửi trát tòa gọi ra lấy khẩu cung. Qua khẩu cung thì ông
chối không hoạt động chính trị và cũng không dình líu gì đến vụ phản loạn nói
trên. Qua tài liệu -Trong Bóng Đêm Lịch Sử- xuất bản năm 2008- của Cựu Luật sư Lê
Nguyên Phu nguyên Đại Tá Ủy Viên Chính Phủ trong Toà Án Quân Sự Đặc Biệt từ
trang 188-191, nhân vật Nhất Linh được ghi lại nguyên văn như sau:
“Nhóm Hoàng Cơ Thụy là nhóm dân sự duy nhất biết trước vụ Binh Biến.
Còn những người khác như Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Vũ Hồng Khanh, Phan Bá
Cầm, Bùi Lượng, Đinh Xuân Quảng, Nguyễn Thaàh Phương, Nguyễn Tường Tam cùng đám
thuộc hạ em út gồm Trương Bảo Sơn, Nguywễn Thành Vinh, Vĩnh Lợi, Trần Tương
v.v… đều là những người lúc nghe tiếng sung nổ mới chạy đến hiện trường, hoan
hô đả đảo cho rậm đám. Đây là những người không được mời ăn cỗ, nhưng nghe có
đình đám chạy đến để ăn có. Nhóm Caravelle không dự vào vụ Binh Biến này, không
có mặt tại chỗ, và không hề bị truy tố ra Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt trong vụ này,
thế mà sau, tên cầm cờ chạy hiệu Trần Tương viết sách khoa trương láo khoét đã lôi
họ vào nội vụ để có chút thơm lây.
Trong số những thực khách không mời mà đến ăn có, tôi chỉ nhắc đến hai
trường hợp của Phan Quang Đán và Nguyễn Tường Tam.
Trước tiên là trường hợp Phan Quang Đán, Nguyễn Chánh Thi cảm thấy lẻ
loi trong nhóm Vương Văn Đông, nên khi thấy Phan Quang Đán xuất hiện trước Dinh
Độc Lập, vội vàng kéo Phan Quang Đán về phe y, cho làm phát ngôn của Thi để cân
bằng thế lực với nhóm Vương Văn Đông có Hoàng Cơ Thụy trợ thủ. Phan Quang Đán
lên Đài Phát Thanh chửi rủa nhục mạ chính quyền một cách thô lỗ, nhưng lúc bị
bắt ra tòa thì mềm nhũn như con chi chi, thái độ ươn hèn khiếp nhược.
Còn trường hợp của Nguyễn Tường
Tam lại khác hẳn. Nguyễn Tường Tam có tư cách hơn. Sở dĩ tôi nhắc đến Nguyễn
Tường Tam là muốn nói rõ cho hậu thế biết cái chết của ông và nguyên nhân đã
đưa ông đến cái chết ấy.
Nguyễn Tường Tam sau khi bị điều tra sơ khởi tại Nha Cảnh sát, Nha An
Ninh Quân Đội và thẩm vấn sau cùng tại Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt, đã được Đại Tá Lê
Văn Khoa ủy viên chính phủ phóng thích ngay, không bị giam giữ một ngày nào.
Trong biên bản do chính Đại Tá Lê Văn Khoa thẩm vấn, Nguyễn Tường Tam khai thực
sự không biết gì về nội vụ, không có tổ chức căng biểu ngữ, rải truyền đơn
chống chính phủ trước Dinh Độc Lập. Nhưng sự việc này hoàn toàn do đám em út
của ông (Trương Bảo Sơn, Nguyễn Thành Vinh, Vĩnh Lợi, Trần Tương v.v…) tự động
làm ra ông ngăn không nổi. Ông thỉnh cầu Đại Tá Lê Văn Khoa đừng đem đối chất
với nhóm thuộc hạ. Sự thỉnh cầu này đưọc ghi rõ ở cuối biên bản thẩm vấn. Đại
Tá Lê Văn Khoa chấp nhận lời thỉnh cầu, nên trong hồ sơ không có biên bản đối
chất, mặc dầu các thuộc hạ của ông khai ngược lại là đã hành động theo lệnh của
ông. Các thuộc hạ của Nguyễn Tường Tam đều bị Đại Tá Lê Văn Khoa tống giam, chỉ
một mình Nguyễn Tường Tam được tại ngoại hầu tra. Do dó các thuộc hạ của ông đều
tỏ ra bất bình và oán hận, cho rằng chính ông đã đổ hết tội lên đầu của họ. Từ
trong khám Chí Hòa, Trương Bảo Sơn viết thư ra cho bà vợ mới chắp nối là bà Nguyễn Thị Vinh chỉ trích
Nguyễn Tường Tam đủ điều, nào là phản bội anh em, nào là thiếu tư cách lãnh tụ
v.v… Lá thư được giám đốc khám đường Chí Hòa đệ trình Tòa Đặc Biệt và đưọc lưu
giữ lại trong hồ sơ. Lúc bấy giờ hồ sơ đã được Đại tá Lê Văn Khoa kết thúc và
đã có án lệnh ra tòa từ lâu, trước khi tôi đến thay thế Đại Tá Lê Văn Khoa. Tôi
lưu giữ lá thư trong hồ sơ mà không cho chuyển đi chỉ vì thiện ý. Tôi không
muốn vì lá thư nầy mà gia đình các bị can bên ngoài phải trách cứ lẫn nhau, gây
thêm sự xáo trộn trong cuộc sống. Nguyễn Tường Tam vẫn được sống tự do tại gia đình.
Vụ án đã có án lệnh đưa ra tòa, nên tôi quyết định không để kéo dài
thêm nữa và cho đăng đường xét xử vào phiên tòa ngày 5-7-1963. Theo thủ tục
pháp lý, một can phạm bị truy tố về một tội đại hình, nếu được tự do tạm như
trường hợp của Nguyễn Tường Tam, phải bị câu lưu lại 3 ngày trước phiên tòa xử.
Nhưng đối với Nguyễn Tường Tam, tôi không cho thi hành thủ tục này. Tôi viết
thư mời Nguyễn Tường Tam (chứ không ra trát đòi) đến gặp tôi tại Tòa Án Quân Sự
Đặc Biệt. Nguyễn Tường Tam đến không sai hẹn, và được tôi tiếp đón nồng hậu.
Chúng tôi đã đối diện trò chuyện suốt ba giờ đồng hồ, nghĩa là trọn suốt buổi
sáng, tại phòng khách riêng của tôi, không có người thứ ba tham dự, và đề tài
đàm thoại, khởi đầu bằng chuyện văn chương, thế tình. Tôi đề cập trước tiên, từ
những tác phẩm nổi danh của ông trong Tự Lực Văn Đoàn đến tờ Phong Hóa, Ngày
Nay do ông chủ trương trước năm 1945 tại Hà Nội và đồng thời cho ông biết tôi
rất hâm mộ tài hoa và sự nghiệp văn chương của ông. Mục đích của tôi là để ông
yên tâm. Sau cùng tôi mới nói qua về lý do mời ông đén văn phòng tôi. Tôi cho
ông biết vụ Binh Biến 11-11-1960 sắp được đăng đường xét xử và yêu cầu ông ngày đó nhớ đi hầu tòa. Đối
với ông, tôi không cho tống dạt trát đòi hầu tòa, cũng như không câu lưu thân
thể (theo tiếng Pháp là prise de corps) trước ngày xử án. Tôi hứa sẽ tận tình
giúp đỡ ông để sau phiên xử ông vẫn được thong thả và tự do trở về nhà. Thật là
một sự dễ dãi chưa từng có trong phạm vi thủ tục pháp lý. Trước sự cởi mở của
tôi, ông trầm ngâm giây lát, tỏ ý cảm
kích, và sau cùng hỏi tôi: “Ông ủy viên có thể giúp tôi thêm một chút nữa được
không? Tôi xin ông ủy viên giúp tôi tránh khỏi phải đối chất với bọn đàn em
thuộc hạ của tôi.”
Tôi hiểu rõ ý muốn của ông, và lần này tôi cũng trầm ngâm như ông trước
khi trả lời: “Điều ông yêu cầu thực sự ngoài quyền hạn của tôi, bởi vì hồ sơ đã
được đăng đường, trước tòa chỉ có ông chánh thẩm là người duy nhất điều khiển
phiên xử và có quyền quyết định tối hậu mọi thủ tục pháp lý. Tôi vì ông sẽ
không xin đối chất, nhưng nếu luật sư biện hộ cho thuộc hạ của ông yêu cầu đối
chất, tôi sợ ông chánh thẩm khó lòng từ chối. Vì vậy mà tôi không thể hứa chắc
về điểm này. Tôi phải tôn trọng ông chánh thẩm trước tòa”.
Câu nói của tôi là một câu nói thành thật chí tình.
Nhưng nghe xong Nguyễn Tường Tam
trở nên ray rứt, băn khoăn vô hạn. Ông cúi đầu suy nghĩ. Và trong câu chuyện
tiếp theo, ông luôn luôn trở lại vấn đề đối chất và nhiều lần nhắc nhở tôi cố
gắng giúp đỡ ông. Đó là lý do vì sao câu chuyện đàm thoại giữa chúng tôi đã kéo
dài ba giờ đồng hồ, suốt một buổi sáng. Lúc tiễn ông ra cửa, tôi thấy ông đi
thất thểu, nhưng tôi không nghĩ rằng vì vấn đề đối chất nầy mà ông phải tự tử
sau đó. Lúc được tin ông đã qua đời, suy nghĩ kỹ lại, tôi mới nhận rõ điều ông
yêu cầu là một điều tối quan trọng đối với ông. Ông không muốn đối diện với bọn
đàn em và đối chất với họ trước Tòa, vì đó là một điều sỉ nhục, mất thể diện
trọng đại. Trước Tòa, nếu ông tiếp tục giữ lập trường không liên quan vào nội
vụ, trong khi bọn đàn em của ông lại nhất quyết cho ông là người cầm đầu, thì
cái danh vị lãnh tụ của ông sẽ tiêu tan, và nhân phẩm của ông cũng bị tổn hại
rất nhiều. Cho nên chỉ còn một lối thoát duy nhất là để tránh sự đối chất là tự
tử. Lối thoát này đã giúp ông bảo tồn danh dự và tư cách lãnh tụ, nâng cao nhân
phẩm cá nhân và có thể đưa ông vào lịch sử.
Chết là hết! Chết là vạn sự hư không! Nếu cái chết của Nguyễn Tường Tam
đến đây chấm dứt, thì có thể nói đó là
một cái chết rất đẹp đẽ, đáng tôn vinh như một điểm son rực rỡ trong
cuộc đời chính trị của ông!
Nhưng tiếc thay, điểm son rực rỡ ấy đã bị ông xóa nhòa, bôi đen bằng
một mảnh giấy nhỏ được ông để lại khi lâm chung. Trên mảnh giấy ấy ông cho biết
ông tự tử vì không muốn bị xét xử trước tòa án của chính quyền Ngô Đình Diệm và
xin để lịch sử xét ông về sau. Những dòng chữ này không biết có đánh lạc hướng
được lý do tự tử của ông hay không, nhưng chắc chắn đã hạ thấp phẩm giá của ông
rất nhiều. Cho đến giờ phút lâm chung ông vẫn còn chưa đạt, vì chưa bỏ được
tham vọng lợi danh của mình, chưa giác ngộ
được hành vi tốt hay xấu của mình đối với anh em đồng chí, mà vẫn còn
huynh hoang tiếp tục dối trá người đời.Ông nói không muốn để tòa án chính quyền Ngô Đình Diệm xét xử ông, nhưng
thực sự khi ông ra khai cung tại Phòng Dự Thẩm Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt thì ông
đã bị tòa án của chính quyền Ngô Đình Diệm xét xử rồi, vì trong cơ chế pháp lý,
Dự thẩm được xem như là một cấp xử án riêng biệt (une jurisdiction à part), có
quyền định tội danh của can phạm, cải tội danh, ra án lệnh miễn tố hay truy tố
ra tòa khi tội danh đã được xác định.
Vụ tự tử của Nguyễn Tường Tam về sau có nhiều người khai thác, dựa vào
đó để làm nấc thang danh vọng, kể cả những người từng oán hận ông như Trương
Bảo Sơn. Sau vụ đảo chánh 1-11-1963, họ được trả tự do, vội vàng tổ chức lễ truy điệu Nguyễn Tường Tam
rất trọng thể tại Vườn Tao Đàn, để rồi sau đó mỗi người được chính quyền quân
phiệt tưởng thưởng một số tiền lớn có thể mua nhà cửa, phố xá, mở tiệm buôn,
tiệm thuốc tây v.v… Có người còn được gia nhập chính quyền, học ăn học nói ở
Thượng Hạ Nghị Viện. Tôi muốn hỏi những đàn em của Nguyễn Tường Tam họ có bao
giờ nghĩ rằng Nguyễn Tường Tam chết cũng vì những lời bài xích xa gần của họ.”
Qua những dòng trên đây cho thấy
Nhất Linh thật sự có tham dự vào âm mưu đảo chánh 11-11-1963
nhằm lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Chính con út ông là Nguyễn Tường Thiết
trong hồi ký Nhất Linh Cha Tôi do Văn Mới xuất bản năm 2006 trang 29-30 đã xác
nhận điều đó: “Thế rồi ông quyết định giã
từ tất cả. Đà Lạt, Fim Nôm, dòng Đa Mê và cả trăm giỏ lan mà ông đã chăm sóc từ
hai năm qua, để về luôn Sài Gòn, chấm dứt cái thời kỳ mà ông Lê Hữu Mục đã viết
trong đoạn kết cuốn sách của ông là “một Nhất Linh nằm trùm chăn ở trên Đà
Lạt”. Đối với tôi, thật bụng tôi chỉ mong ông được nằm trùm chăn lâu hơn vì đây
chính là thời gian hạnh phúc nhất trong đời ông mà tôi được biết. Nhất Linh “xuống núi” lăn vào cuộc đời
làm báo, tham gia đảo chính, thất bại, đi trốn, bị đưa ra tòa, đưa đến cái tự
vẫn của ông mấy năm sau, mở đầu một thời kỳ cuối cùng của đời ông với nhiều não
nề, nhiều chán chường hơn”.
Đã tham gia đảo chính nhưng tại
sao Nhất Linh lại phủ nhận tất cả hành động của mình trước Tòa Án Quân Sự Đặc
Biệt? Đọc đoạn viết của LS Lê Nguyên Phu trên đây cũng như đọc mục “Niềm Vui Chết
Yểu” từ trang 31-51 trong Nhất Linh Cha Tôi của Nguyễn Tường Thiết cho thấy tâm
trạng lo âu sợ sệt của Nguyễn Tường Tam. Tại sao lại sợ và tại sao phải chọn cái
chết? Mỗi người có thể suy luận theo nhận định riêng của mình.
Ông Nguyễn Văn Lục trong cuốn “Một
Thời Để Nhớ” do Diễn Đàn Giáo Dân xuất bản năm 2011 nơi các trang 187-188 cho rằng
Nhất Linh chọn cái chết vì bịnh tâm thần. Xin trích một đoạn sách của ông Nguyễn
Văn Lục: “Trong số những nhân vật bị bắt,
có nhân vật quan trọng như một thứ biểu tượng thống lãnh và uy tín hàng đầu. Đó
là ông Nhất Linh. Trước đây không lâu, tôi có viết một bài nhan đề “Trường hợp
Nhất Linh, một cái chết định trước”. Trong đó tôi cho rằng Nhất Linh mắc bệnh
tâm thần, bị ám ảnh thường trực ý muốn tự tử. Và cơ hội đã đến trong dịp bị gọi
ra tòa về vụ đảo chánh hụt 11-11-1960. Có rất nhiều ý kiến phản bác. Nay cơ hội cho tôi có dịp khẳng định
lại một lần nữa để nhận ra suy diễn của tôi không phải là vô bằng cớ mà có căn
cơ đứng đắn, có cơ sở lý luận và có chứng liệu thực tìễn.” Ông Nguyễn Văn Lục
còn nêu ra những nhận xét của những người thân thiết với nhà văn Nhất Linh như
Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm, Thế Uyên đều xác nhận Nhất Linh mắc bệnh tâm thần hay
suy nhược thần kinh. Bài viết và tác phẩm của ông Nguyễn Văn Lục đã làm dư luận
xôn xao trong đó, Nguyễn Tường Thiết là con út của Nhất Linh đã viết ba bài phản
bác kịch liệt trên các Diễn Đàn Internet để bênh vự cho cha.
Nguyễn Tường Tam viết rằng đời ông
để Lịch sử xét xử. Cái chết của ông đã ngót nửa thế kỷ. Chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa
cũng đã bị lật đổ ngót nửa thế kỷ. Bao nhiêu tài liệu đã được giải mật, phơi bầy,
chẳng còn gì dấu kín. Những lời của LS Lê Nguyên Phu và của Nguyễn Tường Thiết
viết ra về Nhất Linh đã sáng tỏ về con người của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam: “Nhất Linh xuống núi, lăn vào chính trị,
tham gia đảo chính hụt, thất bại, sợ sệt, trốn tránh, bị điều tra và ở thế
cùng, chọn cái chết”, chứng tỏ Nhất Linh không phải là người có bản lĩnh chính
trị, không có viến kiến chính trị. Nhất Linh thành công về văn học và thất bại ê
chề về chính trị.
Người viết tự hỏi: Nếu quả thực
nhà văn Nhất Linh không dính gì vụ Binh Biến 11-11-1960 thì tại sao lại phải trốn tránh, và tại
sao lại nài nỉ xin Ủy viên chính phủ Lê Nguyên Phu tránh cho chuyện đối chất với
thuộc hạ đàn em? Còn nếu Nhất Linh đã có gan tham gia Binh Biến thì tại sao không
có gan đứng trước Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt mạnh dạn phản bác mọi cáo buộc, công
khai lên án sự chà đạp tự do của chính quyền Ngô Đình Diệm? Nếu Nhất Linh có
can đảm làm như thế thì liệu chính quyền Ngô Đình Diệm có dám kết án nặng nề
hay phải nhượng bộ ông? Nếu Nhất Linh có viễn kiến chính trị, nhìn thấy sự thay
đổi sẽ xẩy ra trong tương lai gần trong tinh hình xáo trộn tháng 7/1963, thì có
lẽ Nhất Linh đã không tự tử. Biết đâu rằng sự gan dạ và mạnh dạn ra Tòa Án sẽ là
một bản Cáo Trạng lớn lao hơn với chế độ và là một thành tích lẫy lừng của Nhất
Linh để sau khi biến cố 1-11-1963
xẩy ra sẽ đưa Nhất Linh lên hàng lãnh đạo quốc gia, vượt xa những Dương Văn
Minh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm? Thật tiếc cho ông đã bỏ
lỡ mất cơ hội ngàn năm một thuở.
Theo thiển ý, muốn đấu tranh kết
quả, ít nhất phải giữ mạng sống của mình đã. Bị bắt ra Tòa đâu có phải là điều
sỉ nhục. Trong lịch sử đấu tranh, có hàng ngàn, hằng vạn, hàng triệu người bị đưa
ra Tòa có sao đâu. Chỉ có gian dối hay có điều gì khuất tất sợ sự thật mới trốn
tránh. Nhất Linh đã không làm thế? Nhất Linh muốn đời ông để lịch sử xét xử thì
nay sự thật lịch sử đã được phơi bầy rồi đó kể cả sự thật về Nhất Linh Nguyễn Tường
Tam. Lịch sử cho thấy mọi biến cố chính trị liên hệ đến Việt Nam Cộng Hoà đều có
bàn tay của ngoại bang. Bàn tay ấy giống như một con bạch tuộc với trăm ngàn cái
vòi đã len lỏi, thọc sâu vào mọi cơ cấu từ thượng tầng đến hạ tầng quốc gia để đạo
diễn mọi biến cố rất tinh vi mà người đưong thời ít ai biết được. Cái chết của
Nhất Linh không chắc đã đem lại ích lợi gì cho đất nước, nhưng rõ ràng là giúp
thêm cho chiến dịch tuyên truyền lưu manh của ngoại bang đang muốn khai thác nhằm
lật đổ chế độ Cộng Hòa Việt Nam với TT Ngô Đình Diệm, một người mà thù phải sợ,
bạn phải nể.
Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm
bị lật đổ ngày 1-11-1963 thì Việt Nam Cộng
Hòa rơi vào tình trạng xáo trộn và khủng hoảng lãnh đạo chưa từng thấy. Cha con
bọn đảo chánh từ thầy đến tớ toàn là một lũ ngu xuẩn, lo vơ vét, ăn chơi đàng điếm,
không biết làm việc. Hệ thống an ninh bị bỏ ngỏ. Quốc sách Ấp Chiến Lược bị phá
vỡ. Việt Công gia tăng xâm nhập phá hoại. Tình hình Miền Nam
từ nông thôn đến thành thị trở nên nguy ngập. Mỹ phải cấp tốc đổ nửa triệu quân
vào cứu vãn. Và như đã nói trên suốt hai năm trời sau đào chính (1963-1965), Miền
Nam đã trở thành
vũng lầy đầy những xáo trộn và bất ổn. Bây giờ thì Mỹ và bọn đâm thuê chém mưón
mới biết nhân vật lãnh đạo quan trọng như thế nào? Cũng từng ấy nhân sự, cũng từng
ấy cơ sở mà tại sao tình hình trước và sau 1-11-1963
thay đổi một cách khác thường như vậy? Bây giờ thì người ta mới biết tài, năng
dức độ của TT. Ngô Đình Diệm và những cộng sự viên đắc lực trong việc điều hành
guồng máy quốc gia qua hai tổ chức Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng và Phong Trào
Cách Mạng Quốc Gia là quan trọng.
Mười Thắng
Chuyển bài: Trinh Pham
0 comments:
Post a Comment