BBT:
Bài dưới đây cần phải đọc để có thêm dữ kiện đánh vào đầu những đứa cho
rằng ngày 30 tháng 4 là ngày chiến thắng của Việt Cọng, và QLVNCH là
một quân đội yếu hèn thất trận như bọn phản chiến từng tuyên truyền để
hạ uy tín của VNCH, đồng thời cũng để mở mắt cho những thành phần SỢ SỰ
THẬT không dám nhìn thẳng vào những kẻ chủ mưu đã xô đẩy VNCH vào hỏa
ngục của Cọng Sản.
Bức điện tín đầu hàng vô điều kiện của Bắc Việt
Nguồn: Đỉnh Sóng
1. Vài nét về Ted Gunderson, chủ tài liệu liên quan đến bức điện tín
- Cựu Đặc vụ hành sự FBI và cựu Giám đốc FBI Los Angeles,
- Từng điều tra vụ Marilyn Monroe và John F. Kennedy,
- Từng phanh phui những tội các của FBI và những thế lực Do Thái đứng phía sau như Bilderberg và Illuminati,
- Từng bị tin tặc tấn công vào các máy tính cá nhân, từng bị sách nhiễu, đe dọa, bức hại và toan tính sát hại,
- Cuối cùng bị hạ độc bằng Arsenic và qua đời ngày July 31, 2011
- Từng điều tra vụ Marilyn Monroe và John F. Kennedy,
- Từng phanh phui những tội các của FBI và những thế lực Do Thái đứng phía sau như Bilderberg và Illuminati,
- Từng bị tin tặc tấn công vào các máy tính cá nhân, từng bị sách nhiễu, đe dọa, bức hại và toan tính sát hại,
- Cuối cùng bị hạ độc bằng Arsenic và qua đời ngày July 31, 2011
Dưới đây là nguyên văn Tiếng Anh mà Đỉnh Sóng ghi ra từ YouTube liên quan cùng với phần chuyển ngữ, tất cả dựa theo khả năng hạn chế.
(Tôi cũng đã nhận được một số thông tin gần đây trong những chuyến đi
và thuyết trình, v.v.. của tôi. Tôi đã thực hiện một chương trình truyền
hình ở Long Beach, California. Một trong những người liên quan trong
chương tình có thời đã phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ. Ông ta nói với tôi
rằng chúng ta đã dội bom tất cả những đường tiếp tế của cộng sản Bắc
Việt, chúng ta đã gài mìn những bến cảng của họ, chúng đã bị cắt đứt; và
một trong những cộng sự viên của ông lúc bấy giờ đang làm việc tại
trung tâm truyền tin ở Sài gòn, và đương nhiên đó là một công tác tối
mật. Khi đang ở trong phòng, ông ta nhận được điện tín nầy của Bắc Việt,
"Chúng tôi đầu hàng vô điều kiện." Ông ta chuyển điện tín đó lên cho
thượng cấp; và tất cả nhân viên quân sự lập tức bị thuyên chuyển hết và
được thay thế bởi nhân viên của Bộ Ngoại Giao. Chẳng bao lâu sau
Kissinger đã họp với các viên chức Bắc Việt ở Paris. Tại sao lại xảy ra
những chuyện như thế?)
2. Sự thật về Chiến Tranh VN : Đánh nhưng không được thắng – Bruce Herschensohn, Prager University
Dưới đây là nguyên văn Tiếng Anh do Đỉnh Sóng chép ra từ YouTube cùng với phần chuyển ngữ, tất cả dựa theo khả năng hạn chế:
On January the 23rd, 1973, President Nixon gave a speech to the nation
on primetime television announcing that the Paris Peace Accords had been
initialed by the United States, South Vietnam, North Vietnam, the Viet
Cong, and the Accords would be signed on the 27th. What the United
States and South Vietnam received in those accords was victory. At the
White House, it was called "VV Day," "Victory in Vietnam Day." The U.S.
backed up that victory with a simple pledge within the Paris Peace
Accords saying: should the South require any military hardware to defend
itself against any North Vietnam aggression we would provide
replacement aid to the South on a piece-by-piece, one-to-one
replacement, meaning a bullet for a bullet; a helicopter for a
helicopter, for all things lost – replacement. The advance of communist
tyranny had been halted by those accords.
Then it all came apart. And It happened this way: In August of the
following year, 1974, President Nixon resigned his office as a result of
what became known as "Watergate." Three months after his resignation
came the November congressional elections and within them the Democrats
won a landslide victory for the new Congress and many of the members
used their new majority to de-fund the military aid the U.S. had
promised, piece for piece, breaking the commitment that we made to the
South Vietnamese in Paris to provide whatever military hardware the
South Vietnamese needed in case of aggression from the North. Put simply
and accurately, a majority of Democrats of the 94th Congress did not
keep the word of the United States.
On April the 10th of 1975, President Gerald Ford appealed directly to
those members of the congress in an evening Joint Session, televised to
the nation. In that speech he literally begged the Congress to keep the
word of the United States. But as President Ford delivered his speech,
many of the members of the Congress walked out of the chamber. Many of
them had an investment in America’s failure in Vietnam. They had
participated in demonstrations against the war for many years. They
wouldn’t give the aid.
On April the 30th South Vietnam surrendered and Re-education Camps were
constructed, and the phenomenon of the Boat People began. If the South
Vietnamese had received the arms that the United States promised them
would the result have been different? It already had been different. The
North Vietnamese leaders admitted that they were testing the new
President, Gerald Ford, and they took one village after another, then
cities, then provinces and our only response was to go back on our word.
The U.S. did not re-supply the South Vietnamese as we had promised. It
was then that the North Vietnamese knew they were on the road to South
Vietnam’s capital city, Saigon, that would soon be renamed Ho Chi Minh
City.
Former Arkansas Senator William Fulbright, who had been the Chairman of
the Senate Foreign Relations Committee made a public statement about
the surrender of South Vietnam. He said this, "I am no more distressed
than I would be about Arkansas losing a football game to Texas." The
U.S. knew that North Vietnam would violate the accords and so we planned
for it. What we did not know was that our own Congress would violate
the accords. And violate them, of all things, on behalf of the North
Vietnamese. That’s what happened.
I’m Bruce Herschensohn."
Phần chuyển ngữ: Sự thật về Chiến Tranh VN
Nhìn lại những thập niên trước, vào cuối năm 1972, Miền Nam VN và Hoa
Kỳ rõ ràng đang thắng Chiến Tranh VN, hiển nhiên là thế. Đó không chỉ là
quan điểm của riêng tôi. Đó là quan điểm của kẻ thù của chúng ta, những
viên chức của chính phủ Bắc Việt. Chiến thắng rõ ràng khi Tổng Thống
Nixon ra lệnh cho không lực Hoa Kỳ dội bom những mục tiêu kỹ nghệ và
quân sự ở Hà Nội, thủ đô Bắc Việt và ở Hải Phòng, hải cảng chính của họ,
và chúng ta sẽ ngưng dội bom nếu Bắc Việt tham dự Hội Đàm Paris mà họ
đã rời trước đó. Bắc Việt không trở lại bàn hội nghị, và chúng ta không
ngưng dội bom như đã hứa.
Vào ngày 23 tháng Giêng năm 1973, Tổng Thống Nixon đọc một bài diễn văn
toàn quốc trên truyền hình vào giờ cao điểm, cho biết Hội Đàm Paris đã
được ký tắt bởi Hoa Kỳ, Nam VN, Bắc Việt, Việt Cộng, và Hiệp Định sẽ
được chính thức ký vào ngày 27. Những gì mà Hoa Kỳ và Nam VN nhận được
trong hiệp định đó là một thắng lợi. Tại Tòa Bạch Ốc, người ta đã gọi đó
là ngày “VV Day - Victory in Vietnam Day.”
Hoa Kỳ đã hậu thuẫn chiến thắng đó với một bảo đảm đơn giản bên trong
Hiệp Định Paris, theo đó: nếu Miền Nam yêu cầu chiến cụ để tự vệ chống
lại bất kỳ cuộc xâm lăng nào của Bắc Việt thì chúng tôi sẽ cung cấp viện
trợ thay thế (replacement aid) cho Miền Nam trên căn bản từng cái một
và một đổi một (piece-by-piece, one-to-one replacement), nghĩa là, một
viên đạn đổi một viên đạn, một trực thăng đổi một trực thăng, đối với
tất cả những thứ bị mất. Bước tiến của chế độ độc tài cộng sản đã bị
chặn đứng bởi hiệp định đó.
Thế rồi tất cả đều tan vỡ. Và sự thể như thế nầy: Vào tháng Tám của năm
tiếp theo, 1974, Tổng Thống Nixon từ chức do hậu quả của vụ Watergate.
Ba tháng sau khi ông từ chức là những cuộc bầu cử quốc hội tháng mười
một và trong đó những thành viên của Đảng Dân Chủ thắng lợi vẻ vang
trong Quốc Hội mới và nhiều thành viên đã lợi dụng đa số mới của họ để
chấm dứt tài trợ cho chương trình viện trợ quân sự mà Hoa Kỳ đã hứa, một
đổi một, bội ước lời cam kết của chúng ta đối với Miền Nam VN ở Paris
là sẽ cung cấp bất kỳ chiến cụ nào mà Miền nam cần trong trường hợp bị
Bắc Việt xâm lăng. Nói một cách đơn giản và chính xác, đa số những đảng
viên Đảng Dân Chủ của Quốc Hội khóa 94 không giữ lời hứa của Hoa Kỳ.
Vào ngày 10 tháng Tư, 1975, Tổng Thống Gerald Ford đã trực tiếp nói
chuyện với những thành viên Quốc Hội đó trong một buổi họp hỗn hợp buổi
tối, được truyền hình trên toàn quốc. Trong bài diễn văn đó, ông tha
thiết kêu gọi Quốc Hội hãy giữ lời hứa của Hoa Kỳ. Nhưng trong khi Tổng
Thống Ford đọc diễn văn, nhiều thành viên Quốc Hội bước ra khỏi phòng
họp. Nhiều người trong số họ đã đầu tư vào sự thất bại của Hoa Kỳ ở Việt
Nam. Họ đã tham gia các cuộc biểu tình phản chiến trong nhiều năm. Họ
sẽ không cho viện trợ. Vào ngày 30 tháng Tư, Miền Nam đã đầu hàng và
những trại cải tạo được dựng lên, và hiện tượng người vượt biển bắt đầu.
Nếu Miền Nam nhận được vũ khí mà Hoa Kỳ đã hứa với họ thì kết quả đã
khác đi? Sự khác biệt đó đã được chứng minh. Giới lãnh đạo Bắc Việt đã
thú nhận rằng lúc bấy giờ họ đang trắc nghiệm Tổng Thống mới Gerald
Ford, và họ đã chiếm từ làng nầy đến làng khác, rồi đến những thành phố,
tỉnh lỵ; và phản ứng duy nhất của chúng ta là bội ước. Hoa Kỳ không tái
viện trợ Miền Nam như chúng ta đã hứa. Chính lúc đó Bắc Việt nhận thức
được rằng họ đang trên đường tiến đến Saigon, thủ đô của Miền Nam, sau
đó được đổi tên thành TP Hồ Chí Minh.
Cựu TNS William Fulbright, nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Đối Ngoại Thương
Viện, đã đưa ra một công bố chính thức về sự đầu hàng của Miền Nam. Ông
nói, “I am no more distressed than I would be about Arkansas losing a
football game to Texas.”
(Tôi không thấy đau khổ gì mấy, chẳng khác nào khi thấy Arkansas thua Texas một trận đá bóng.)
Hoa Kỳ biết rằng Bắc Việt sẽ vi phạm hiệp định Paris và chúng ta đã
chuẩn bị cho chuyện đó. Điều mà chúng ta không biết là chính Quốc Hội
của chúng ta sẽ vi phạm hiệp định đó. Và vi phạm, về mọi mặt, thay cho
Bắc Việt. Đó là những gì đã xảy ra. Tôi là Bruce Herschensohn.
**
Sau khi Saigon thất thủ, hơn một triệu người Miền nam bị đưa vào các
trại cải tạo ở miền quê. 250 ngàn người đã chết ở đó, do bị hành quyết
không xét xử, tra tấn, bệnh tật, và suy dinh dưỡng. Giữa năm 1975 và
1995, hai triệu người Việt đã trốn chạy khỏi nước, vượt Biển Đông bằng
những chiếc thuyền thiếu trang bị để đi tìm tự do. Ước tính có khoảng
200 ngàn người vượt biển nầy đã chết – do bị chết chìm và bị hải tặc
giết. Ngày nay Việt Nam vẫn có một chính phủ cộng sản, nhưng họ đã bỏ
hết những lý thuyết kinh tế cộng sản, những lý thuyết mà họ đã hy sinh
bao nhiêu sinh mạng của đồng bào của họ để theo đuổi.
3. Nhận định bên lề
Trong
khi hơn 96% hệ thống truyền thông nằm trong tay Tập đoàn Do Thái quốc
tế và Mỹ Cộng thì công việc truy tìm thông tin, tài liệu, nhận định, và
phán xét trung thực về Chiến Tranh VN chẳng khác nào mò kim đáy biển, vì
hầu hết các hảng thông tấn, các trang mạng, đài truyền thanh truyền
hình, những tờ báo hàng đầu đều nói một thứ tiếng của Do Thái được
chuyển ngữ sang tiếng Anh, cùng phục vụ một chủ nghĩa độc tài mềm, cùng
bị kiểm soát bởi một chính sách ngân hàng trị và Do Thái trị, cùng gián
tiếp hay trực tiếp cỗ xúy một loại trật tự được mệnh danh New World Order hay One-government World
- thực chất là một loại thế giới đại đồng hoang tưởng do tập đoàn Do
Thái thống trị. Hiện cảnh đen tối của một chính quyền Mỹ thân cộng Do
Thái trị ngày nay là nhìn đâu cũng thấy Do Thái và sờ đâu cũng chạm phải
bàn tay lông lá của Do Thái từ CIA, FBI, truyền thông, Internet, đại
học, Hollywood đến hành pháp, tư pháp, lập pháp, v.v...; và đâu có Do
Thái ở đó có Mỹ Cộng. Những kẻ đi tìm sự thực như Ted Gunderson luôn bị
chúng khủng bố và truy sát bằng mọi cách; những kẻ khác thì co đầu rụt
cổ vì sợ bị ghép tội bài Do Thái, cùng lắm chỉ vòng vo đập quanh bụi
rậm. Hậu quả là Do Thái và Mỹ cộng xem phần còn lại của thế giới như một
bầy trẻ con, ngây thơ về chính trị và nhút nhát như bầy gấu trúc. Hầu
hết các bài viết, nhất là những bài của những tay viết blog cho VOA,
BBC, RFA, RFI, v.v..., đều viết theo đơn đặt hàng của Do Thái, Mỹ Cộng,
và Việt Cộng, dưới môt hình thức nào đó và theo một kênh tuyên vận nào
đó. Chín mươi phần trăm của những bài viết nầy là vỏ bọc đường nghe rất
bùi tai và nhìn rất mát mắt, nhưng chỉ để phục vụ 10 phần trăm còn lại
dùng chứa thuốc độc nhằm đánh bóng Mỹ Cộng hay Việt Cộng hay cả hai.
Tuy
nhiên, nếu nhìn vào toàn cục vấn đề và căn cứ trên những tài liệu, dù
là hiếm hoi, được chính phủ Hoa Kỳ bạch hóa về những cuộc đi đêm mà
Washington đã tiến hành với Bắc Kinh nhằm bán đứng Miền Nam hay thậm chí
cả Việt Nam cho Trung Quốc dưới sức ép và đồng lõa của tập đoàn Do Thái
và cộng sản quốc tế để đổi lấy quan hệ ngoại giao và thương mại với
Trung Quốc, về chủ trương đánh Cộng Sản nhưng không được thắng,
v.v... thì bức điện tín đầu hàng vô điều kiện nói trên không hẳn là bịa
đặt. Nhưng tại sao Bắc Việt đầu hàng mà Mỹ vẫn tiếp tục đánh? Theo
thiển ý của chúng tôi, đầu hàng với Mỹ không thành vấn đề; đầu hàng với
Trung Quốc mới là mục tiêu tối hậu của cả Mỹ lẫn Tàu. Ở điểm nầy, vì
muốn có được những quyền lợi với Trung Cộng, Mỹ ra sức phục vụ quyền lợi
của Bắc Kinh trước đã, nghĩa là giúp Bắc kinh thôn tính Việt Nam thông
qua Đảng Cộng Sản VN và trên xương máu dân tộc VN ở cả hai miền. Cũng ở
điểm nầy người ta mới thấy Chiến Tranh VN là cơ hội bằng vàng để đế quốc
Tàu tiếp tục giấc mộng thôn tính Việt Nam sau hơn ngàn năm không thực
hiện được. Cả Mỹ lẫn Tàu đã đạt được mục tiêu chung sau những cuộc không
tập B52 kéo dài; và sau đó, vì muốn bảo vệ đảng, Bắc Việt đã quỳ gối
đầu hàng Bắc Kinh và ký những mật ước nhượng đất nhượng biển và nhượng
cả chủ quyền cho Trung Cộng. Việc Mỹ làm ngơ cho Trung Cộng chiếm Quần
Đảo Hoàng Sa của Việt Nam có lẽ cũng nằm trong khuôn khổ những mật ước
như thế nhưng đã có trước khi chiến tranh chấm dứt. Như thế kẻ thắng
chiến tranh VN là Trung Cộng chứ không phải Bắc Việt; Bắc Việt chỉ là
một thây ma được Mỹ, Tàu, Do Thái vớt lên từ địa ngục để thi hành sứ
mạng Thái Thú cho Thiên Triều.
Đỉnh Sóng
0 comments:
Post a Comment