“Lòng tôi rất đau buồn trước cảnh như thế,” cựu Đề đốc Trần Văn
Chơn, 74 tuổi, nguyên tư lệnh Hải quân miền Nam Việt Nam trước đây nói.
“Cuối cùng tôi nhận thức hiện thực là tôi đang chứng kiến những giờ phút
tự do cuối cùng của nước tôi.” Ông hồi tưởng những ngày tháng Tư 1975
khi những đơn vị Cộng sản ở ngay sát bên ngoài Sài Gòn (chẳng bao lâu
sau đó bị đổi tên thành thành phố Hồ Chí Minh), đang chờ đợi cuộc di tản
cuối cùng của các nhân viên Mỹ. Hỗn loạn bao trùm khi hàng ngàn người
Việt tràn ngập phi trường thành phố, bến cảng và tòa đại sứ Mỹ, để tìm
mọi cách ra khỏi nước.
Ông Chơn may mắn. Vài ngày trước đó, tòa đại sứ Mỹ báo cho ông biết bạn
hữu của ông ở Washington đã sắp xếp cho ông di tản cùng với vợ, Lâm Thị
Loan, 10 người con và cha mẹ ông đã ngoài tám mươi. Khi thời điểm di tản
đến gần, ông Chơn tụ họp con cái ở độ tuổi từ 7 đến 29 lại và đi đón mẹ
ông, Lê Thị Đô, và cha ông, Trần Văn Núi, cách nhà độ 72 cây số ở Vũng
Tàu, quê hương thời niên thiếu của ông. Ông giải thích họ sẽ phải ra đi.
Cha ông chẳng nói gì, nhưng ông Chơn thấy mắt cha ngấn lệ.
Ông Chơn thấu hiểu nỗi khổ tâm của cha. Vũng Tàu là nơi cha ông chôn
nhau cắt rốn; nơi có mồ mả ông bà tổ tiên. Bây giờ ở tuổi gần đất xa
trời, cha ông sẽ phải rời bỏ nơi chốn duy nhất cha ông biết này. Ông
Chơn nghĩ thời gian qua đi cha ông sẽ chấp nhận số phận này. Tuy nhiên
trong thời gian gia đình chờ ra đi, cha ông vẫn lặng lẽ chẳng nói năng
gì.
Cuối cùng nhận được điện thoại báo ra đi, ông Chơn tập trung cả gia đình
lại. Nhưng khi ông thấy cha ông rất đau khổ lúc sắp phải cất bước ra
đi, lòng ông Chơn đã quyết định dứt khoát rõ ràng.
“Cả gia đình ta nghe đây,” ông tuyên bố, “chúng ta sẽ không đi!” Mọi
người đều im lặng trước quyết định phút cuối này trong lúc ông Chơn liếc
nhìn cha.
Một vài ngày sau-30 tháng Tư, 1975-sau khi Mỹ di tản xong, quân đội chiến thắng của cộng sản tiến vào Sài Gòn.
Tất cả các nhân viên quân sự miền Nam Việt Nam dù tại ngũ hay giải ngũ
đều buộc phải ra trình diện cộng sản. Các con trai của ông Chơn là Trúc,
Trung và Chánh cũng phục vụ trong quân đội. Trúc đã thoát bằng tàu vào
lúc Sài Gòn thất thủ. Hai người con còn lại và ông Chơn không chịu ra
trình diện, lẫn tránh trong vài tuần lễ và cố gắng tổ chức phong trào
kháng chiến. Tuy nhiên, sự sụp đổ nhanh chóng và hoàn toàn của chính
quyền miền Nam Việt Nam khiến bao nỗ lực của họ không thành. Cả ba người
trở thành những kẻ tội phạm sống ngoài vòng pháp luật ở trong nước
mình.
Nhận thức rằng nếu cứ tiếp tục lẫn trốn họ sẽ làm hại chính những người
che giấu họ, ông Chơn quyết định tốt nhất nên ra trình diện. Trước khi
đi, ông trở về Vũng Tàu thăm cha mẹ, biết đâu đây là lần cuối cùng ông
thấy họ.
Trở lại thành phố Hồ Chí Minh, ông Chơn tạm biệt gia đình. Ông nhờ con
ông Trung đưa ông đến địa điểm trình diện. Lúc những bộ đội đứng gác
quay mặt đi, cha con ôm nhau lần cuối cùng. Vài ngày sau, Trung và
Chánh, theo gương cha, cũng ra trình diện.
Ba người bị giam ở những trại tù khác nhau. Trong trại họ bị “cải tạo”,
mà được coi là cần thiết để xóa bỏ ảnh hưởng tuyên truyền của Mỹ. Cải
tạo được tiến hành qua một chế độ lao động nặng nề và học tập về chủ
nghĩa cộng sản.
Vì không bao giờ bị đưa ra tòa xét xử và chính thức bị kết án nên ông
Chơn và các con, cũng như bao nhiêu người tù khác, đều không biết họ sẽ
bị giam giữ đến bao lâu. Đây là khía cạnh khó khăn nhất trong cảnh lao
tù khắc nghiệt của họ. Sau ba năm Trung bất ngờ được thả ra; còn Chánh ở
tù đến bảy năm. Đề đốc Chơn bị giam suốt 12 năm trời trước khi được thả
ra vào ngày 2 tháng Chín, 1987-chủ yếu nhờ những nỗ lực vận động của
bạn bè tại Mỹ.
Từ nhà tù ở miền Bắc Việt Nam, ông Chơn lên tàu lửa về lại thành phố Hồ
Chí Minh, nơi gia đình và bạn bè chào đón ông. Họ tưởng đâu gặp lại một
người đã bị suy sụp về thể xác lẫn tinh thần bởi hoàn cảnh lao tù rất hà
khắc và thiếu sự chăm sóc y tế. Nhưng mái tóc bạc trắng phủ đến vai của
ông Chơn bao quanh khuôn mặt thanh xuân. Đôi mắt ông ánh lên tinh thần
mạnh mẽ.
Ông Chơn liền biết tại sao chỉ có ba con ra đón mừng ông. Giống như Trúc
con ông, sáu người con khác đã vượt biên bằng thuyền hay bằng đường
bộ.
“Ba má anh đâu hả mình?” Ông hỏi vợ mà lòng rất sợ điều ông đã đoán. Bà
quay sang em ông Chơn. “Sau khi anh đi tù hai năm thì má qua đời”, người
em nói chậm rãi, “Hai năm sau ba mất.”
Mặc dù ông Chơn đã linh cảm trước, nhưng tin cha mẹ chết sao vẫn quá đau
đớn. Ông cố gắng an ủi lòng mình rằng khi song thân ông qua đời, họ
biết rõ tình thương, tấm lòng hiếu thảo và sự hy sinh của ông dành cho
hai đấng sinh thành.
Ông Chơn cố gắng lắm mới giữ được sự bình an trong lòng. Vì cha mẹ ông
đã rất cao tuổi rồi, liệu quyết định bắt gia đình ông ở lại Việt Nam có
đáng không? Đối với ông, quyết định ấy xứng đáng. Ông giải thích, “Nếu
lập lại tôi vẫn quyết định như thế cho dù cha mẹ tôi chẳng sống được bao
lâu chăng nữa - dù chỉ được vài tháng hay vài tuần. Tôi quyết định ở
lại để tránh cho cha mẹ tôi đau khổ họ phải chịu đựng vĩnh viễn nếu tôi
đưa họ rời xa quê hương. Đối với tôi điều quan trọng nhất trong đời là
niềm hạnh phúc của cha mẹ mình.”
Khi chọn ở lại, ông Chơn muốn cho cha mẹ được an lòng. Nhưng cuối cùng,
cha ông không tìm thấy bình an. Người bạn của gia đình tiết lộ rằng sự
hy sinh và cực khổ của ông Chơn đã trở thành nguồn đau khổ và ân hận vô
cùng lớn đối với cha ông, mà từ đấy cha ông đã mang xuống tuyền đài.
Người bạn ấy tin chính đau khổ này đã giết chết người cha.
“Khi tôi biết cha tôi đã đau khổ trong những ngày cuối đời vì thương con
cực khổ, “ông Chơn kể lại, “tôi không thể nào cầm được nước mắt. Tôi
nhận thức chẳng có gì tôi đã làm hay có thể làm mà có thể so sánh với
tình thương bao la cha tôi dành cho tôi.”
“Người ta hay nói “Có con rồi mới hiểu tình thương bao la của cha mẹ”, tôi tin điều này là đúng.
Gần năm năm sau ông Chơn mới có thể rời khỏi nước. Vào ngày 9 tháng Mười
Hai, 1991, một trong những chuyến bay đầu tiên trong 17 năm giữa thành
phố Hồ Chí Minh và Mỹ đã đưa đề đốc Chơn, vợ và con gái út đến San
Francisco.
Ngày nay ông Chơn sống ở San Jose cùng với vợ, hai con trai và hai con
gái. Bốn người con khác sống ở California; hai người con đã lập gia đình
và sống ở Việt Nam. Ông Chơn nói bây giờ ông vẫn tin chắc chắn như ông
đã tin vào năm 1975 rằng con người gánh vác nhiều trách nhiệm ở đời,
nhưng trách nhiệm cao cả nhất là trách nhiệm đối với cha mẹ mình. Vì lý
do này, ông nói, con cái ông không bao giờ chất vấn quyết định của cha.
“Trong bất kỳ văn hóa nào”, ông Chơn nhận xét, “con cái luôn luôn được
dạy dỗ phải thương yêu và kính trọng cha mẹ. Thương yêu và kính trọng
cha mẹ là trách nhiệm đạo lý chung của toàn nhân loại.”
Nguồn: Báo Washington Post ngày 9 tháng Mười, 1994. Tựa đề của người dịch. Tựa đề tiếng Anh “A Son’s Sacrifice”.
Bản tiếng Việt:
0 comments:
Post a Comment