Wednesday, June 15, 2011

ĐẰNG GIANG MÁU VẪN ĐỎ BỜ SÔNG XƯA!

“Hỡi quân Đại Hán cuồng rồ
Đằng giang máu vẫn đỏ bờ sông xưa
Bọn bây chớ có nằm mơ
Đằng giang cọc nhọn đang chờ bọn bây!”

Năm Kiến Vũ thứ mười, tức năm Giáp Ngọ 34 sau Tây Lịch, vua Hán là Quang Vũ Đế
cử Tô Định làm Thái Thú quận Giao Chỉ. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa,
đuổi Tô Định ra khỏi thành Luy Lâu, gây nền tự chủ cho dân Việt trên địa giới cũ của
các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố.
Nền tự chủ ấy chưa được bao lâu, tháng Chạp năm Kiến Vũ thứ 17, tức tháng 1 năm 42
sau Tây lịch, Hán Quang Vũ cử Mã Viện Nam chinh, đánh lấy lại đất Giao Châu.
Mã Viện là một đại danh tướng của Đông Hán, được mệnh danh là “Phục Ba tướng
quân”, tức là Tướng quân hàng phục sóng dữ. Năm ấy Mã Viện đã 70 tuổi, vừa dẹp
xong cuộc nổi loạn của Lý Quảng ở Hoãn Thành, thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc ngày
nay. Mã Viện có hai phó tướng Lưu Long và Đoàn Chí. Họ Đoàn phụ trách thủy quân.
Mã Viện mang một vạn quân lấy ở các quận Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương và
Thương Ngô; từ Hồ Nam xuôi xuống Lưỡng Quảng. Tại những vùng chưa thuộc ảnh
hưởng của Hai Bà Trưng, Mã Viện tuyển thêm một vạn hai ngàn quân bộ rồi hội binh
với thủy quân của Đoàn Chí tại Hợp Phố, tức vùng bán đảo đối diện đảo Hải Nam bây
giờ. Mã Viện theo đường thủy tiến vào Quảng Yên, theo sông Thái Bình tiến vào Trung
Châu.
Quân Đông Hán đông hơn về số lượng, thiện chiến hơn, lại được chỉ huy bởi một danh
tướng đã có gần nửa thế kỷ cầm quân. Trong khi đó, quân Nam tuy lòng yêu nước có
thừa, nhưng số lượng đã ít, lại là quân ô hợp. Đánh nhau nhiều trận cho đến tháng 4
năm 43. Quân Nam và quân Đông Hán giao chiến với nhau một trận lớn tại hồ Lãng
Bạc.
Nam quân thua trận, Hai Bà lui về Cẩm Khê. Theo sử nước ta thì Hai Bà tự trầm ở Hát
Giang.
Mã Viện lập lại nền đô hộ ở Giao Châu, lại dựng một cột đồng to, cho khắc mấy
chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt!”. Tức “cột đồng gãy thì Giao Chỉ sẽ bị diệt!”


*
Năm Bính Tuất 1406, Minh Thành Tổ hạ chiếu đánh nước ta, lúc ấy do nhà Hồ cai trị
đã được sáu năm. Thành Quốc Công Chu Năng được phong làm Đại tướng, Tán Bình
Hầu Trương Phụ và Tây Bình Hầu Mộc Thạnh làm tả, hữu phó tướng. Phong Thành
Hầu Lý Bân, Vân Dương Bá Trần Húc làm tả, hữu tham tướng, chia quân làm hai đạo
tiến sang nước ta.

Khi đến Long Châu, Quảng Tây thì Chu Năng bị bệnh chết. Trương Phụ lên thay, theo
lối Bằng Tường, từ Quảng Tây đánh vào ải Nam Quan. Mộc Thạnh đi ngã Vân Nam,
đánh vào Phú Lĩnh, xuôi theo sông Thao mà xuống, họp cùng Trương Phụ tại Bạch
Hạc, Vĩnh Yên. Tháng Chạp năm Bính Tuất 1406, Trương Phụ đánh thành Đa Bang.
Trương Phụ cùng Đốc tướng Trần Duệ đánh mặt Đông Nam, đều dùng thang vân thê
để leo thành. Thành vỡ, quân Minh tiến xuống Đông Đô, tức Hà Nội ngày nay.
Tháng 3 năm Đinh Hợi 1407, Mộc Thạnh đem quân thủy lục tiến xuống Mộc Phàm
giang, hạ trại hai bên bờ sông. Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, là con thứ của Hồ
Quý Ly đem 300 chiến thuyền đánh vào Mộc Phàm, bị quân Minh tập công từ hai phía
phải rút lui về cửa Muộn Hải, thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định bây giờ, hợp với
hai tướng Hồ Đô, Hồ Xạ đào hào đắp lũy, tính kế phòng thủ lâu dài.
Hồ Nguyên Trừng rước Thái Thượng Hoàng Hồ Quý Ly và vua Hồ Hán Thương ở Tây
Đô ra Hoàng Giang, mở một trận phản công lớn vào Hàm Tử. Thủy lục của Hồ Nguyên
Trừng lúc ấy có 7 vạn. Hồ Xạ, Trần Đĩnh đánh vào bờ phía Nam, Đỗ Nhân Giám,
Trần Khắc Trang đánh vào bờ phía Bắc. Thủy quân do Đỗ Mãn, Hồ Vấn chỉ huy.
Quân Minh để quân Nam vào sâu trong trận mới ra đánh. Quân Nam đại bại. An phủ sứ
Bắc Giang là Nguyễn Hy Chu bị bắt và bị Trương Phụ chém. Thượng Hoàng Hồ Quý
Ly và Hán Thương chạy ra bể lui về Thanh Hóa. Quân Minh đuổi theo rất gấp. Quý Ly
lại chạy vào Nghệ An. Tháng 5 năm ấy (1407) Quý Ly và Hán Thương đến cửa Kỳ La,
nay thuộc huyện Kỳ Anh tỉnh Nghệ An.
Trương Phụ sai Mộc Thạnh đi đường bộ, Liễu Thăng đi đường thủy vây bắt được Hồ
Quý Ly, Hồ Hán Thương, Tả Tướng Quốc Hồ Nguyên Trừng, Hữu Tướng Quốc Hồ
Quý Tỳ, em ruột Hồ Quý Ly cùng nhiều đại thần. Tất cả bị giải về Kim Lăng, Trung
Hoa.


*
Cũng năm Đinh Hợi 1407, Giản Định Vương Trần Quỹ, con thứ vua Trần Nghệ Tông
phất cờ khởi nghĩa, được Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân theo phò tá, lòng người
theo về. Tháng Chạp năm Mậu Tý 1408, Giản Định Đế từ Hóa Châu tiến ra phía Bắc.
Tướng Minh đang cai trị nước ta là Lữ Nghị cấp báo về Kim Lăng. Minh Thành Tổ
phái Mộc Thạnh đem 4 vạn quân từ Vân Nam sang cứu viện. Giản Định Đế muốn thừa
cơ đánh thẳng ra Đông Đô, còn Đặng Tất lại chủ trương đợi quân các nơi về đông đủ
rồi hãy tấn công. Vua tôi bất hòa, Giản Định Đế nghe lời dèm pha giết Đặng Tất và
Nguyễn Cảnh Chân, lòng người chán nản.
Con Đặng Tất là Đặng Dung và con Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị đem quân
bản bộ bỏ Giản Định Đế về Hà Tĩnh lập cháu vua Nghệ Tông là Trần Quý Khoách lên
ngôi, hiệu là Trùng Quang. Quý Khoách sai Nguyễn Súy bắt Giản Định Đế đưa về tôn
làm Thái Thượng Hoàng để thống nhất hai đạo quân kháng chiến.
Trương Phụ lại đem viện binh từ Trung Hoa sang. Quân kháng chiến sức yếu, thua
nhiều trận phải lui về phía Nam. Tháng 6 năm Quý Tỵ 1413, quân Minh chiếm Nghệ

An, tháng 9 đến Hóa Châu. Quân kháng chiến phản công được vài trận nhưng cuối năm
ấy, Quý Khoách cùng các tướng đều bị bắt. Còn Giản Định bị bắt trước đó đã giải về
Kim Lăng.
Trương Phụ cho giải Trùng Quang Đế Quý Khoách, Nguyễn Suý, Đặng Dung, Nguyễn
Cảnh Dị về Yên Kinh, Trung Quốc. Dọc đường, vua Trùng Quang nhảy xuống biển tự
vận, còn các Tướng kia cũng tử tiết cả.
Tháng Tư năm 43, tháng Năm năm 1407, tháng Mười Một năm 1413 đều là những năm
tháng đen tối của đất nước. Trong những năm tháng ấy, đất nước rơi vào tay giặc; lãnh
đạo đất nước kẻ tự sát, người bị bắt, bị giết; dân tộc lầm than.
Nhưng lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc đã nhiều lần chứng minh rằng những giờ
phút đen tối ấy rồi sẽ qua đi, bởi dân tộc Việt Nam là một dân tộc bất khuất và không
chấp nhận bị ngoại bang thống trị. Bà Trưng mất thì đến Bà Triệu, đến Lý Nam Đế,
Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương mất lại có Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương,
họ Khúc và cuối cùng là Ngô Quyền giành lấy độc lập.
Nhà Hồ vừa bị tiêu diệt thì đến Giản Định Đế, Trùng Quang Đế của nhà Hậu Trần. Nhà
Hậu Trần dứt thì chỉ năm năm sau, Bình Định Vương dấy nghĩa ở đất Lam Sơn, mười
năm kháng chiến gian khổ để nước nhà độc lập hơn bốn trăm năm.
Mã Viện đã đánh dấu chiến công của mình ở phương Nam bằng cách dựng lên một cột
đồng và ngạo nghễ khắc vào đó một lời nguyền, đe dọa diệt chủng: Đồng trụ chiết,
Giao Chỉ diệt. Cây cột đồng ấy không bao lâu đã bị chôn vùi dưới những viên đá được
ném đi bởi lòng căm hờn của những người bị trị; tuy sức yếu nhưng không thiếu tinh
thần quật khởi.

Năm Vĩnh Tộ thứ 10, đời vua Lê Thần Tông (1619-1643), Giang Văn Minh quê ở
Đường Lâm đỗ Thám Hoa. Năm Dương Hòa thứ 3, cũng đời vua Lê Thần Tông, ông
được cử đi sứ sang nhà Minh để nạp đồ tiến cống. Trước mắt bá quan văn võ và sứ
thần các tiểu quốc khác; để thử tài sứ thần nước Việt, vua nhà Minh đã trịch thượng ra
câu đối:

Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
(Cột đồng đến nay rêu đã xanh)

Sứ thần Việt quốc ngạo nghễ đối lại:

Đằng giang tự cổ huyết do hồng.
(Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ)

Câu đối của sứ thần Giang Văn Minh vừa đanh thép vừa tràn đầy tinh thần tự hào dân
tộc, nhắc lại ba lần máu nhuộm Đằng Giang: Ngô Vương Quyền giết Hoàng Thao,
phá quân Nam Hán, Lê Hoàn diệt quân Tống năm 981 và Hưng Đạo Đại Vương phá

Nguyên năm 1288. Mất mặt, vua Minh nổi giận đã làm một chuyện tàn ác là ra lệnh mổ
bụng Giang Văn Minh để xem gan sứ Việt bao lớn. Rồi cho khâm liệm và trả di hài về
nước.
Vua Lê Thần Tông vô cùng thương tiếc đã thân hành làm lễ tế với lời điếu:

“Sứ bất nhục quân mệnh, khả thi vị thiên cổ anh hùng”.
(Tức là: Đi sứ không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là bậc anh hùng ngàn thuở).

Có một sự trùng hợp lạ lùng: Giang Văn Minh quê ở Đường Lâm cũng lại là quê của
Ngô Vương Quyền, người đã lập chiến công đầu tiên trên Bạch Đằng Giang với lời thơ
hùng tráng của Phạm Sư Mạnh đời Trần:

Hung hung Bạch Đằng đào,
Tưởng tượng Ngô Vương thuyền

(Bạch Đằng cuồn cuộn sóng trào
Tưởng thuyền Ngô Chúa hôm nào trên sông).
*
Cuộc đô hộ của nhà Minh đối với nước Việt kéo dài 20 năm, nhưng thực sự chỉ có 5
năm hơi yên ổn từ 1413 cho đến năm 1418 là năm mà Bình Định Vương xướng nghĩa.
Giặc dù mạnh cũng khó ngồi yên ổn đặt ách cai trị lên đất nước Việt bởi vì:

“Nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng văn hiến đã lâu.
Cõi bờ cương vực đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập
Cùng Hán, Đuờng, Tống, Nguyên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có…”
(Bình Ngô đại cáo)

Hoàn cảnh của miền Nam sau 1975 có hơi khác hơn một chút. Miền Nam đã thực sự bị
xâm chiếm và đặt lên một ách cai trị hết sức hà khắc bởi chính những người cộng sản
cùng màu da, cùng dòng máu. Tám mươi bốn triệu dân cả nước bây giờ tuy không phải
chịu cảnh bị ngoại nhân trực tiếp đô hộ như thời Đông Hán, thời Minh, nhưng bị đô hộ
bởi một giai cấp bóc lột, phi nhân là đảng Cộng Sản. Cho đến giờ này, những quyền
tự do căn bản nhất của tám mươi bốn triệu người dân chỉ có trên giấy tờ và các ống
loa tuyên truyền của đảng. Các quyền tự do căn bản nhất ấy đối với người dân chỉ là
những giấc mơ chưa với tới.
Có người sẽ hỏi: Các người đã tranh đấu, đã kêu gào ba mươi lăm năm nay mà chế độ
Cộng sản Việt Nam có sụp đổ đâu?

Xin thưa rằng chưa. Chưa chứ chẳng phải là sẽ không bao giờ! Nếu những người
dân Đông Âu cứ chấp nhận rằng chế độ Cộng sản Đông Âu sẽ không bao giờ sụp đổ;
không có cuộc đấu tranh ở Ba Lan, không có những đợt sóng ngầm ở Đông Đức, Tiệp
Khắc, Hung Gia Lợi, Bảo Gia Lợi… Nếu thế giới cũng nghĩ như vậy và cũng ngồi yên
thì Cộng Sản Đông Âu sẽ không nối nhau sụp đổ trong năm 1989.
Đó là một tấm gương, xin những ai chủ bại cho rằng cuộc đấu tranh để giải trừ Cộng
Sản ở nước ta hiện nay là lỗi thời hoặc vô vọng. Đó chỉ là những lời xảo ngôn để che
dấu tinh thần cầu an, trốn tránh trách nhiệm.

Đố chúng tắc mộc chiết; Nghị đa tắc đê quyết.
Nhiều mọt sẽ làm đổ cây; Nhiều tổ kiến sẽ làm sụp đê!

Nhiều suối nhỏ sẽ thành sông lớn. Hàng ngàn sự chống đối đấu tranh, tưởng chừng vô
vọng từ mọi phía, góp lại sẽ thành cơn bão lớn đối với Cộng sản Hà Nội.


*
Những năm tháng đen tối của lịch sử đất nước đã qua đi vì chúng ta đã có Trần Bình
Trọng thà làm quỷ nước Nam, đã có Trùng Quang Đế, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị tử
tiết khi nước mất, có Tổng Đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết theo thành khi thành mất.
Những năm tháng đen tối của đất nước ta hiện nay cũng sẽ qua đi vì năm 1975 chúng ta
đã có Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ,
Hồ Ngọc Cẩn… Và sau năm 1975, chúng ta đã có Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân cùng
hàng ngàn anh hùng, liệt sĩ khác mà rồi một ngày không xa lịch sử sẽ tìm đến để ghi
tên.
Những năm tháng đen tối hiện nay rồi cũng sẽ qua đi vì hiện nay trong cũng như ngoài
nước vẫn còn những người âm thầm hy sinh cho đại cuộc bằng cách này hay cách khác.

Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới…
(Bình Ngô đại cáo).


*
Dân tộc nào, đất nước nào lại chẳng phải trải qua những tháng năm đen tối, đau buồn.
Dân tộc và đất nước Việt Nam cũng thế.
Đất nước ta lại bất hạnh nằm cạnh một nước Trung Hoa rộng lớn lúc nào cũng nuôi
giấc mộng cuồng rồ bành trướng lãnh thổ về phương Nam. Nhưng, với một quá khứ
“một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lê giặc Tây, 30 năm nội chiến từng
ngày”, dân tôc ta, đất nước ta vẫn kiên cường, bất khuất, ngẩng cao đầu không bao giờ
chịu khuất phục ngoại bang.
Đảng CSVN, qua việc làm của tên tội đồ của dân tộc là Hồ Chí Minh và những kẻ thừa
kế đã là “những con đĩ Mỵ Châu” - nói theo cách nói của nhà văn Dương Thu Hương
- đã hiến đất, dâng biển và đang “dạng háng” chờ những tên Trọng Thủy tân thời đem

quân xâm chiếm nước ta.
Cuộc biểu tình ngày 5 tháng 6 năm 2011 vừa qua do những lời kêu gọi của nhóm Nhật
Ký Yêu Nước trên mạng xã hội facebook đã xảy ra ở hai thành phố Hà Nội và Sàigòn
đã mở ra một phương thức tranh đấu mới cho công cuộc tranh đấu ĐÒI LẠI QUYỀN
LÀM NGƯỜI mà CSVN đã tước đoạt của toàn dân Việt Nam trong suốt hơn 60 năm
qua.
Hỡi các anh em Quân Đội Nhân Dân yêu nước, thương nòi; hỡi các anh em “Công an
Nhân dân là bạn của dân” hãy cùng hợp lực với toàn dân Việt Nam chém chết “những
con đĩ Mỵ Châu đang dạng háng chờ những tên Trọng Thủy đem quân đến xâm
chiếm nước ta!”
Hỡi 84 triệu người dân trong nước và 3 triệu người Việt tỵ nạn tại hải ngoại hãy hô to
lời hịch:

“NAM QUỐC SƠN HÀ NAM ĐẾ CƯ…”

Và xin noi gương sứ thần Giang Văn Minh khẳng khái trả lời bọn giặc bành trướng
phương Bắc tân thời:

ĐẰNG GIANG TỰ CỔ HUYẾT DO HỒNG!
*
“Hỡi quân Đại Hán cuồng rồ
Đằng giang máu vẫn đỏ bờ sông xưa!
Bọn bây chớ có nằm mơ
Đằng giang cọc nhọn đang chờ bọn bây!”

NGUYỄN THIẾU NHẪN

0 comments:

Powered By Blogger