Tác giả:Tuởng Năng Tiến
Có những phút ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy!
Phùng Quán
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy!
Phùng Quán
Tương tự như Phùng Quán, tôi cũng có làm thơ; và có vô số lúc (chứ
không phải “phút”) ngã lòng. Khác với Phùng Quán, thơ của tôi “chưa”
được ai tán thưởng; và vào những lúc ngã lòng – có lúc kéo dài đến chục
năm – tôi lục lọi mãi thơ mình mà không tìm ra được một câu, dù chỉ một
câu thôi, để…vịn!
Phùng Quán (1932–1995). Nguồn ảnh:luanhoan.net
Vịn câu thơ mà đứng dậy!
Thơ không còn là món trang điểm đua tranh sức chói lọi nơi
cung đình. Thơ không còn là món đưa cay trong những cuộc say túy lúy.
Thơ không còn là cái áo giáp cho ngươì ta phùng xòe trước đám đông và
che dấu những thân thể suy nhược. Thơ không còn là khẩu hiệu cho những
cuộc biểu dương lực lượng…Thơ là chiếc nạng vững chắc cho người gìa, là
chỗ dựa cho những người thất thế từ đó đứng lên làm lại cuộc đời…
Những giòng chữ in nghiêng mà bạn vừa đọc không phải do tôi viết
đâu nha. Ðó là lời giới thiệu của ông Nguyễn Mộng Giác về tập Thơ Khoa
Hữu, do tạp chí Văn Học xuất bản hồi cuối năm 97. Nếu không nhờ ông
Giác, ai mà dè thơ lại có nhiều công dụng dữ dằn (tới) cỡ đó!
Cũng cứ theo y như lời của ông Nguyễn Mộng Giác: “Khoa Hữu là Ðỗ
Phủ của thời hiện đại, ở một đất nước liên tiếp đau thương suốt nửa thế
kỷ nay. Những lời Phùng Quán viết về thơ Ðỗ Phủ rất đúng với thơ Khoa
Hữu (Thơ ai như thơ ông/ Mỗi chữ đều như róc/ Từ xương thịt cuộc đời/ Từ
bi thương phẫn uất).”
Nếu những điều ông Phùng Quán, ông Nguyễn Mộng Giác vừa lớn tiếng
nói về thơ đều đúng thì thiệt là kẹt cho tôi, và – không chừng – dám
kẹt… luôn cho bạn; nếu như, bạn không biết làm thơ hoặc (cũng như tôi)
bạn chỉ chuyên môn làm những câu thơ quặt quẹo, nghĩa là không thể vịn
được, dù là chỉ vịn để …ngồi thôi.
Như thế, vào “những phút ngã lòng” những kẻ lạng quạng như tôi và bạn phải làm sao?
Khi kẹt tiền chúng ta đi muợn; lúc kẹt thơ (e) cũng vậy thôi. Tính
chất tư hữu của thơ, nhờ Trời, rất mơ hồ và chưa bao giờ được luật pháp
thừa nhận một cách đàng hoàng nghiêm chỉnh. Thơ đã làm xong, đã in ra,
đã lỡ dại ngâm nga giữa chốn đông người … là kể như rồi. Chuyện tác
quyền hay bản quyền vớ vẩn gì đó coi như là chấm hết!Bạn có thể mượn thơ mà không cần credit, và cũng khỏi mất công điền đơn. Chúng ta cứ khơi khơi mang thơ của qúi vị thi sĩ tặng người này, cho người nọ; hoặc mượn thơ của họ để vịn mà đứng dậy khi ngã lòng, ngồi chơi khi rảnh rỗi, tán đào khi cao hứng, và …leo trèo khi hữu sự.
Không bằng luật nhưng theo lệ, bạn cần phải rõ ràng và sòng phẳng khi mượn thơ người khác à nha. Ngoài ra, cẩn trọng cũng là một yếu tố quan trọng khác nữa trong việc lựa thơ để mượn – nhất là khi bạn cần mượn câu thơ để vịn mà đứng dậy, trong những phút ngã lòng; nếu không, bạn sẽ tiếp tục té nữa, sẽ té đau, sẽ nằm lâu, và – không chừng – dám nằm luôn tới…chết (chớ đừng tuởng là tới sáng thôi đâu)!
Xin kể bạn nghe vài câu chuyện nhỏ để minh thị đôi điều tôi vừa ồn ào xác định. Trước hết là chuyện liên quan đến sự đàng hoàng và minh bạch.
Cách đây mấy mươi năm – vào năm 1978, một hôm – có thằng bạn chung tù với tôi vừa cầm tờ báo lên xem đã bực dọc chửi thề:
- Ð.M., sao “mâm” nào cũng có nó hết vậy cà?
Tôi quên tên tờ báo, chỉ nhớ trang đầu có in hình ông Hồ Chí Minh đang điều khiển một dàn nhạc. Chữ “nó” trong câu chửi thề của thằng bạn tôi vừa dùng để ám chỉ ông ta – một lãnh tụ anh minh lỗi lạc, một người quyền biến hùng biện, một nhà văn có tài, một thi sĩ ngoại hạng… Những điều mà thiên hạ đều biết và đều tán tụng. Thằng bạn tôi chợt biết thêm là ông Hồ còn có khả năng điều khiển (nguyên cả) một giàn nhạc giao hưởng nữa. Chuyện này, tự nhiên, khiến nó bị … quê ngang! Thay vì xuýt xoa tán thưởng sự đa dạng của một thiên tài, nó lại thốt ra một câu chửi thề bực dọc y như là đụng phải… thiên tai vậy!
Ảnh: Lâm Hồng Long
Không bao lâu sau thằng em tự dưng (cái) qua đời – lúc mới ngoài
hai mươi, trong một đêm học tập, mắt trợn trừng, máu trào thất khiếu –
ngay sau khi nghe quản giáo bình những câu thơ bất hủ của bác Hồ. Từ đó,
không ai bảo ai, từ cán bộ đến trại viên, chúng tôi “kiêng” nói đến thơ
của Bác.
Vài năm sau – khi đã ra khỏi trại, có dịp tìm đến nhà thằng bạn để
báo tin buồn – tôi mới hiểu tại sao bạn mình chết không nhắm mắt. Thân
phụ nó là một người tinh thâm Hán Học nên ngay từ khi còn nhỏ thằng em
đã được dậy thuộc lòng vô số thơ Tầu. Nó biết là ông Hồ đã mượn nhiều
câu thơ của thiên hạ để vịn mà leo trèo, và lỡ quên tên tác giả, thế
thôi.
Vài năm sau nữa, tôi lại biết thêm rằng ông Hồ không phải là người
anh minh lỗi lạc như đã tự viết sách – làm bộ đề tên người khác – để ca
tụng mình. Ổng chỉ sài bạc giả. Ông Hồ gạt được nhiều người, trong nhiều
năm, vì ông ta được sự đồng lõa bởi cả một băng đảng chuyên môn làm bạc
giả – Ðảng Lao Ðộng Việt Nam.
Tôi xin lỗi vừa đi hơi xa vấn đề. Như bất cứ một người Việt bình
thường nào khác, khi đề cập tới ông Hồ và cái đảng thổ tả của ông ta,
tôi khó giữ bình tĩnh nên đã có nói năng hơi lung tung chút đỉnh. Câu
chuyện vưà kể chỉ để nói lên tính chất quan trọng của sự lương thiện
trong việc mượn thơ thôi.
Ðiều cần thiết thứ hai, như đã thưa trước, là sự cẩn trọng. Vì quá
mến mộ một thi sĩ, và vì cái tật ba chớp ba nháng, tôi đã lựa lầm câu
thơ sau đây để vịn trong những lúc ngã lòng:
Ta làm gì cho hết nửa đời sau?
Ðây thiệt tình là một câu thơ quá đã, đã nhất là đọc hết luôn cả
bài, đọc trước mặt năm ba “tráng sĩ,” khi rượu sắp cạn chai, vào lúc
trời đã gần về sáng.
Sáng thức dậy miệng đắng, môi khô, đầu óc bần thần, váng vất, cơ
thể rã ruợi, mệt nhừ … Nắng len vào phòng từ lâu, chiếu một vệt dài vàng
xẫm trên thềm. Lại một ngày nữa bắt đầu, thêm một ngày lảng xẹt sắp
qua. Vào những lúc chán đời như chưa bao giờ chán thế, và như không thể
nào chán hơn được nữa, tôi hay vịn vào câu thơ “ta làm gì cho hết nửa
đời sau” để đi chậm chậm đến tủ rượu – hay tủ lạnh (nếu nhà hết rượu) –
tìm bia …uống nữa!
Tôi lại té, tất nhiên. Nhiều năm qua, tôi té hoài theo kiểu đó.
Lỗi, chắc chắn, không do tác giả – ông Cao Tần. Lỗi, đương nhiên, ở tôi –
kẻ chỉ vì vịn trật có mỗi một câu thơ nên…tha hồ té!
Vẫn cứ theo như lời ông Nguyễn Mộng Giác khi viết tựa cho tập Thơ Khoa Hữu thì thơ “là lời mẹ ru dành cho đứa con ốm đau, là lời cầu kinh cho người sắp từ giã cõi đời…” Nói
cách khác, tôi xin “diễn giảng” như sau: thơ khi dùng đúng câu, hợp
cách, trúng chỗ, và phảilúc thì công dụng kể như là…hết xẩy!
Bạn vừa nhíu mày, phải không ? Bạn có quyền không tin tôi, không
tin ông Giác – một người làm thơ dở và một người chưa hề làm được một
câu thơ nào, dù dở. Bạn nghi ngờ là phải. Chuyện đó không có gì đáng
trách.
Tuy nhiên, bạn sẽ trở nên đáng trách – hoặc đáng chết luôn nữa,
không chừng – nếu như vẫn còn bán tin bán nghi vào sự vạn năng của thơ
phú, sau khi đã đọc qua câu chuyện sau đây, về một câu thơ :”Cổ lai
chinh chiến kỷ nhân hồi.” Chuyện này tôi đã đọc (lóm) được trong cuốn Thư Về Bloomington, Illinois của ông Lê Tất Ðiều:
Phi tuần khu trục vừa xuất hiện thì cả một bầu trời biến thành
biển lửa. Số lượng phòng không không biết là bao nhiêu cây, nhưng dòm
hướng nào cũng chỉ thấy lửa và lửa. Trời đã về chiều nên những viên đạn
lửa bay vút lên cao càng được thấy rõ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên
nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được mấy cây pháo vì phòng
không và trời quá xấu. Những đám mây …phản quốc vẫn chình ình khắp nơi.
Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những loạt đạn
phòng không trùng điệp để tới mục tiêu, bấm rớt bom rồi kéo lên. Còn
hai trái cuối cùng, người phi công A-1 ‘để’ vào ngay trên ổ súng chính
xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng
nổ phụ. cha con nó đang đền tội. Xong một cây. Anh Ngọc hướng dẫn phi
tuần thứ hai đánh cây thứ nhì.
Phi tuần đang làm ăn thì tôi nghe tiếng gọi:
“Bạch Ưng đây Thanh Trị.”
“Nghe năm bạn.”
“Báo bạn biết hầm chỉ huy tôi xập rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.”
“Bạn nhớ giữ liên lạc với tôi nghe bạn…”
Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. “Ra giao thông hào với mấy đứa con”, vậy là bi đát lắm rồi.
Anh Ngọc bảo tôi:
“Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng trung tâm
hành quân xin gấp cho anh ít nhất là hai phi tuần nữa lên liền lập tức.
Nếu không kịp tụi nó sẽ ‘over run’ Daksaeng trong vòng nửa tiếng đồng
hồ.
Tôi đổi tần số FM… Tôi gọi máy và có kết quả ngay. Anh Ngọc
mừng rú khi được thông báo có một phi tuần F-4 của Hải Quân Mỹ sẽ cất
cánh ngay từ hàng không mẫu hạm bay vào làm việc.
Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:
“Bạch Ưng đây Thanh Trị.”
“Nghe bạn năm.”
“Bạn cho mấy con chim sắt về đánh quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó đang ‘à lát sô’ lên.”
*
Ðang đánh ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưới đất: Bạch
Ưng đây Thanh Trị. Giọng nói lúc này không còn vẻ hốt hoảng mà bình tĩnh
lạ thường. Anh Ngọc bấm máy:
“Nghe bạn năm. cho biết tình hình đi bạn.”
“Tôi yêu cầu Bạch Ưng đánh bom ngay vào trong đồn”
Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng rằng mình nghe…
lộn. Chúng tôi sững sờ không trả lời được. Người chỉ huy phía dưới xác
nhận lại:
“Bạch Ưng, tôi xác nhận lại tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi”
“Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn?”
” Ðúng năn. Hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi”
“Bạn suy nghĩ kỹ chưa?”
Giọng dưới đất lúc này nghe đã có vẻ hết kiên nhẫn:
“Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may mắn. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà bạn…”
Ðó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.”
Chỉ có vậy thôi là đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai
đợt bom salvo của mấy chiếc Phantom… Những thịt, nhũng xương, những máu
của các anh hùng Dakseang đã tung bay khắp nơi rồi rớt xuống lẫn lộn
với những bụi, những sắt để nằm yên trên mặt đất. Cũng trên mặt đất này
của quê hương, ở một nơi nào đó, những vợ, những con, những bà con thân
bằng quyến thuộc của các anh đâu có biết người thân mình vừa anh dũng
đền xong nợ nước…
(Ðất Khách Trời Quê – Trường Sơn Lê Xuân Nhị)
Mà không phải chỉ có thơ mới vịn được đâu nha. Văn, khi ngã lòng hay đứt ruột, vịn cũng đỡ lắm.
Có những phút ngã lòng
Tôi vịn câu “văn” mà đứng dậy!
Tôi vịn câu “văn” mà đứng dậy!
Sở dĩ Phùng Quán không viết như thế chỉ vì ổng có lòng đố kỵ với
văn xuôi, hoặc chỉ vì chưa có dịp đọc đoạn văn sau đây của ông Võ Phiến:
“Và một hôm, cạnh cái khách sạn ở bãi Kapaa trên đảo Kauai tôi
thấy một cảnh ấm áp đau lòng. Ở một góc tường bên ngoài khách sạn có bụi
chuối nhỏ, dăm sáu cây gì đó. Một bên là tường, một bên là sân cỏ, chia
cách bằng một lối đi đúc xi- măng. Người qua kẻ lại rần rần. Thế mà vào
khoảng tám giờ tối, đi ngang qua đó tôi chợt để ý đến một đôi cu giữa
các gốc chuối. Bước chân có khua động giấc ngủ bất an, có làm chim cựa
quậy vu vơ, có lẽ vì thế mà làm tôi chú ý. Ơ kìa, chim sao lại ngủ gốc
chuối, ngủ bên lối đi của người ta ?
Lát sau, tôi chợt nhớ ra vào một lúc nào đó trong ngày có trông
thấy một con cu mất đuôi kiếm ăn giữa sân cỏ. Lần hồi tôi dựng lên một
giả thuyết: đó là một con chim cu bị mèo vồ hụt. Nó tàn tật, mất thăng
bằng, mất phương hướng, không bay được. Bạn đời không rời bỏ nó trong
hoạn nạn, cho nên đêm đêm cả hai kề nhau nép vào gốc chuối sát mặt đất,
bất chấp hiểm nguy.
Chim chóc không có thói ái ân lén lút về đêm. Chim ngủ chay.
Vậy thì sự cận kề đầy hi sinh mạo hiểm ở đây …không phải vì sinh lý, chỉ
cần sự “hiện diện”.
Chao ôi, vì một sự hiện diện bên nhau con chim nọ liều mình vì
con chim kia. Hai con chim, chỉ còn một cái đuôi. Ngủ nghê như thế, nội
đêm nay hay đêm mai một chú mèo tình cờ dạo ngang qua, rất có thể đi đứt
luôn cái đuôi nữa. Ấy là may mắn. Không may, dám mất toi cả hai tính
mệnh lắm.
Mất đuôi, mất mạng gì cũng được, quí hồ hiện diện bên nhau. Con cu Hạ- uy – di như thế, không thương nó được sao?”
(Cái Lạnh Nửa Người – Võ Phiến)
Khoa Hữu (1938-2012). Ảnh:sangtao.org
Nếu bạn cũng đang có một cuộc sống lứa đôi hơi lọng cọng, và nếu
bạn cũng chỉ vì sự bất ổn cỏn con đó mà phải dựa vào thơ Cao Tần để lê
đến tủ rượu cả ngàn lần trong gần mười năm qua – hy vọng – bạn cũng sẽ
vịn được vào hình ảnh cảm động của đôi chim cu Hạ Uy Di để mà gượng dậy,
như tôi đang lom khom đứng dậy đây.
Tôi cảm ơn ông Võ Phiến biết mấy. Tôi cũng cảm ơn ông Lê Tất Ðiều vô cùng. Bằng tác phẩm Thư Về Bloomington, Illinois
ông ấy đã cho tôi có dịp đọc lóm nhiều đoạn văn “chấn động sâu xa đến
tận đáy tâm hồn”. Ông ấy cũng chỉ tôi thấy được sự hùng vĩ của thiên
nhiên qua Grand Canyon; và sự cao cả thầm lặng của con người qua những
chiến binh anh dũng của đồn Dakseang – hay qua những nhân vật bình
thường như ông ông Lưu, ông Phan, ông Nguyễn…Tất cả đã giúp tôi nhận ra
nỗi bận tâm nhỏ nhen của mình trong nhiều năm qua. Tôi cũng vừa đọc xong
tập Thơ Khoa Hữu với cùng tâm trạng ấy. Tâm trạng của một kẻ chợt nhận ra là mình ti tiểu khi cảm được nỗi bất hạnh cùng cực của tha nhân.
0 comments:
Post a Comment