
VRNs (18.06.2012) – Úc Đại Lợi – Chuyện phiếm đọc trong tuần Thứ 12 Thường niên Năm B 24.6.2012
“Tôi muốn mời em về,
Thăm lại phố phường xưa.
Những chiều trời mưa phủ,
Lời yêu nói sao vừa.”
(Việt Dzũng – Mời Em Về)
(1P 1: 6-7)
“Mời Em Về”, hôm nay hay ngày
mai, không phải để em thăm lại phố phường thời xưa cũ. Mà, còn để nói
với em và với tôi, đôi điều vẫn chưa nói cho hết. Hoặc, có nói em cũng
chưa kịp nhận ra.
Với bần đạo, lâu nay khá nhiều bầu bạn
vẫn cứ thư về gợi nhớ lời người xưa khuyên nhủ, chỉ đôi câu. Câu ấy nghe
khá giống ca từ người xưa, vẫn cứ hát:
“Tôi muốn mời em về
Thăm lại căn nhà xưa
Có mẹ ngồi đâu đó
Sợi tóc bạc đong đưa.”
Thăm lại căn nhà xưa
Có mẹ ngồi đâu đó
Sợi tóc bạc đong đưa.”
(Việt Dzũng – bđd)
Hát thế rồi, bầu bạn lại còn bảo:
“Bạn ra đi lâu ngày quá, cũng nên về
thăm quê một lần cho biết để thấy là quê mình giờ này đã đổi thay, cũng
khá nhiều. Đổi, về ngoại hình. Thay, cả về tâm tính lẫn tình hình và
chính kiến. Bạn về đi, bọn tôi đây bảo đảm là bạn sẽ thấy vui như ngày
Tết, để rồi mai ngày lại cứ đòi về mãi, không biết mệt. Duy, có điều là:
khi về, bạn đừng để quên người bạn đời ở đâu đó rất khó tìm. Bởi, rất
nhiều người khi về rồi đà thấy vui, bèn chẳng muốn trở lại chốn cũ những
quần quật chuyện cày bừa, đâu đấy nhé…”
Nghe rủ, bần đạo thấy cũng mê nhưng hơi mệt, bèn quay về nhạc bản có ca từ nghệ sĩ hát:
“Tôi muốn mời em về
Thăm lại Sài Gòn xưa
Duy Tân chiều say nắng
Uống môi nồng hương xưa.”
Thăm lại Sài Gòn xưa
Duy Tân chiều say nắng
Uống môi nồng hương xưa.”
(Việt Dzũng – bđd)
Vâng. Quả là, có về thăm nơi
nào rồi cũng thế. Thăm Hà Nội hoặc Sàigòn xưa, vẫn hằn ghi dấu vết của
bước chân âm thầm thời son trẻ. Về lại quê mình, bần đạo đây cũng rất
muốn, nhưng đôi lúc ngồi nghĩ quẩn lại đã nhận ra rằng: “thân này há xẻ
làm đôi, nửa bên nước Úc, nửa quê dặm buồn?”
Có thể là, bần đạo buồn, vì
không thực hiện được điều mình vẫn ước và vẫn muốn. Buồn nhiều hơn, khi
lại nghe thêm ca từ vừa mới hát:
“Tôi muốn mời em về,
Nhưng quê hương tôi quá xa.
Bên kia bờ Thái Bình bao la.
Tôi muốn mời em về,
Nhưng chim đã gãy cánh.
Nhưng mây đã ngừng bay.
Cho tôi còn lại nơi này.”
Nhưng quê hương tôi quá xa.
Bên kia bờ Thái Bình bao la.
Tôi muốn mời em về,
Nhưng chim đã gãy cánh.
Nhưng mây đã ngừng bay.
Cho tôi còn lại nơi này.”
(Việt Dzũng – bđd)
Tản mạn đôi lời thơ/ý nhạc
xong, nay bần đạo mời bạn và tôi, ta đi vào giòng chảy rất phiếm có
những truyện kể về nhiều thứ. Những thứ, vẫn đánh động cuộc sống của bạn
và của tôi như sau:
“Có một thời, khi mọi vật trên đời
đều biết nói, thì hôm đó, hai con sóng lớn nhỏ ở giòng sông đã cùng nhau
thủ thỉ những lời trần tình như sau:
-Kể ra cũng bực. Sao con sóng kia cứ to lớn, còn mình đây vẫn bé nhỏ có thế này?
Sóng to nghe vậy bèn đáp:
-Đơn giản chỉ vì bạn không nhận ra gốc gác của mình nên mới bực, thế thôi!
-Thế tôi không là sóng, thì là cái quái gì đây cơ chứ?
-Không! Sóng chỉ là hình thức tạm bợ
nơi bản chất của bạn thôi. Kỳ thực, bản chất của bạn chính là nước. Một
khi đã nhận ra bản chất của mình là nước rồi, thì lúc đó bạn sẽ không
còn ấm ức với cái vỏ là sóng vỗ bên ngoài và từ đó sẽ không còn bực bõ
gì nữa hết.
Lúc ấy, con sóng nhỏ mới nhận ra được chân lý, bèn vui vẻ nói:
-À thì ra, giờ này tôi mới hiểu. Bạn
và tôi tuy hai mà một, không có gì khác hết phải không? Có khác chăng,
chỉ mỗi điều là: dù to/nhỏ, ai làm nên chuyện kỳ lạ mới là người đáng ta
nể vì, mà thôi!”
Đúng thế. Cuộc đời bạn và bản thân tôi,
tuy là hai nhưng lại giống như một. Một nguyên lý. Một tình tự của người
con Đức Chúa. Của quê hương, nước Trời.
Hôm nay đây, ở Nước Trời quê tạm này lại
vẫn có những vấn đề của nó, rất thời thượng. Vấn đề, là vấn nạn về đề
tài muôn thuở thời hôm nay. Bởi thế nên, nay mời bạn mời cả tôi, ta gia
nhập đoàn người vẫn thích “phiếm”. Phiếm nhè nhẹ. Sương sương, như mọi
lúc. Phiếm, là phiếm thế này:
Vừa qua, ở trời Tây nước bạn, có vị đã
nêu ra nhiều vấn nạn về nhiều chuyện như nhật báo có tên “Science Daily”
vừa đưa ra một phát giác “kinh khủng” mà báo ấy cho là vẫn rất mới, như
sau:
“Nghiên cứu mới nhất cho thấy: nhiều
cải thiện về khả năng xem xét sở thích của mọi người là tuỳ độ tuổi.
Nói khác đi, thì sở thích con người là tuỳ sự chín chắn/trưởng thành ở
trung khu thần kinh có liên quan đến việc tự kềm chế.
Khám phá trên, do cơ quan được gọi
là “Cell Press” phát hiện và đưa ra cho công chúng nhận thức hôm 8 tháng
3 năm 2012 qua nhật ký biên khảo mang tên “Neuron” nhằm giải thích lý
do khiến trẻ nhỏ phải phấn đấu tự chế để chống lại những thôi thúc vị
kỷ, cả vào khi chúng biết rõ điều tốt đẹp hơn. Điều này, đánh mạnh lên
chính sách giáo dục nhằm thăng tiến cung cách hành xử lành mạnh, trong
xã hội.
Khám phá, cho thấy đã có tiến bộ khá
quan trọng nhằm tìm hiểu rõ nguyên nhân phát triển hành xử xã hội hàm
ngụ chính sách giáo dục nói chung, hầu nhấn mạnh tầm quan trọng mà giúp
con trẻ hành xử theo cách quen thuộc chúng hiểu biết. Các chính sách như
thế sẽ tạo nền tảng cho hành xử của người biết nghĩ đến kẻ khác, trong
mai ngày.” (x.Mariette Ulrich, MercatorNet 26/3/2012)
Thật ra, theo Mariette Ulrich thì: khám
phá trên chỉ muốn nói lên điều này: sở dĩ trẻ bé thường ích kỷ vì chúng
không chín chắn đủ, để có thể hành xử cho phải phép. Nhưng biết được
điều này, đâu cần khoa học phải bỏ công ra mà tìm tòi/khảo sát khá kỹ
mới biết được. Điều nực cười, là: Khoa học vẫn tự nhận là mình đã khám
phá ra điều mới mẻ trong tương quan giữa tính ích kỷ với sự trưởng
thành, lại đề nghị chính phủ nên có giải pháp mình đề nghị chẳng liên
quan đến khoa học gì hết.
Nói tóm lại, kế hoạch giáo dục dù đã cải
thiện tuổi ấu thơ/măng sữa đi nữa, cuối cùng rồi cũng đào tạo được đám
trẻ nay biết thực thi động thái vô-vị-lợi hầu trở thành công dân tốt, có
đạo đức/chức năng hợp lẽ đạo. Nhưng vấn đề, là: nếu con trẻ được giáo
dục theo cách nào đó để thành người cao sang/quyền quý và độ lượng vẫn
phải có sự hỗ trợ của các gia đình sang trọng/khá giả. Có làm thế, chúng
sẽ khá hơn, rất trăm bề.
Cuối cùng, là câu hỏi: về thể lý, trẻ bé
thuộc tuổi ấu thơ, khi não bộ thần kinh của chúng chưa phát triển đúng
cách, đã thấy phát sinh ra tính vị kỷ rồi, còn đám trẻ ở tuổi “teen” lâu
nay chỉ tập trung mọi sự vào chính mình, thì động thái này ta đổ lỗi
cho ai đây?” (xem thêm Mariette Ulrich, bđd)
Và, tuổi trẻ ở nhà Đạo thì
sao? Có gì cải thiện được cung cách giữ đạo và hành đạo không? Để trả
lời, tưởng cũng nên quay về với đấng bậc vị vọng ở Úc, từng bộc bạch như
sau:
“Sống phù hợp Đạo Chúa, người Công
giáo ta vẫn hay hát. Hát cả vào lúc vui, lẫn khi buồn. Bởi, “Hát là cầu
nguyện, những hai lần” mà! Và, người nhà Đạo cũng hát rất chăm. Suy tư
cũng rất nhiều. Vẫn có các bài ca làm tỉnh giấc mơ hoa, như bài “How
Great Thou Art”, nghe không được chuẩn cho lắm. Chí ít, là ở tiểu khúc
3. Như tác giả dẫn ý:
“Hân hoan tình Chúa rất bao la,
chẳng ngại hồn đau vẫn cứ là.
Là, Con Một Hiền lành theo cõi chết,
Ôm trọn tội người, trọn ý Cha.”
Vâng, tiểu khúc trên, dù mang cả một
truyền thống đầy ý nghĩa, vẫn coi cái chết của Đức Kitô, như một hành
động chuộc tội, do Cha muốn. Nhận định như thế, tức bảo rằng: khổ đau,
sự chết của Chúa là giá chuộc mạng mà Ngài đã thanh trả cho bọn xấu, để
ta có thể san sẻ sự sống với Chúa Cha. Như một chọn lựa, cái chết của
Đức Giêsu phải được coi như hành động duy nhất để Cha nguôi giận về tội
lỗi của con người. Vì thế nên, Cha vẫn tiếp tục thương yêu loài người
như khi trước.
Nghe điệu nhạc ướt át đầy cảm tính
như thế, đôi lúc cũng làm ta hãi sợ. Có lẽ, ta cũng nên kiểm tra lại lời
ca ý nhạc, xem nó có thích hợp với nền thần học ta được dạy bảo, hay
không. Một đằng, nền thần học của ta vẫn khẳng định: tình thương yêu đặc
biệt Chúa ban, rất cao sang, vời vợi. Tình yêu Ngài, vẫn kinh qua mọi
thăng trầm cuộc sống, cả lúc vui cũng như khi buồn. Đằng khác, nếu khi
hát, ta cứ hay kể nhiều về nỗi khó khăn, buồn phiền Chúa gánh chịu. Là
thế, tức là ta chủ trương: Đấng Hoá Công đầy lòng bao dung, vẫn đẩy
Người Con Thân Yêu của Ngài vào chỗ chết, có tủi nhục? Phải chăng ta coi
đây như phương cách duy nhất làm Ngài hài lòng, sao?
Áp dụng chuyện xử án, đôi lúc cũng
nên hỏi: quan án có để cho đương can vô tội chết lặng lẽ trong lỗi phạm
không? Và như thế, Chúa là vị Quan Án Tối Cao, Ngài có quyền lực gì trên
sự dữ/ác thần, không? Đây là cách duy nhất để Ngài kiểm nghiệm sự hy
sinh cao cả nơi Người Con Yêu Dấu của Ngài, ư? Các vấn nạn trên, gây ảnh
hưởng lên đời sống đức tin của người đi Đạo. Đôi lúc, điều này lại làm
ta xa vời niềm tin đích thực, lâu nay ta thường được nhắc nhớ, rằng: Đức
Chúa trên cao vẫn thương mọi người, dù con người có lầm lỡ, lỗi phạm
rất nhiều sự.
Ngày nay, ta nghe nhiều về các nạn
nhân, không còn chọn lựa nào khác, đã rơi vào bẫy cạm của tội lỗi. Thật
ra, trong nhiều trường hợp, việc ấy không do họ làm. Mà, do người khác
đối xử không được tử tế theo lẽ Đạo. Người khác, là người có tự do trong
đối xử một cách “khác người”, rất lạ kỳ, và buồn bã. Người khác, vẫn là
người biết nhiều, hiểu nhiều. Nhưng, đứng ở góc cạnh nào đó, ta sẽ cùng
với họ biểu đồng tình mà cho rằng: Đức Kitô là nạn nhân của thánh ý
Cha, khi Ngài chấp nhận khổ đau, và nỗi chết. Hiểu thế, tức cho rằng:
Cha vẫn muốn Ngài hy sinh, chuộc mạng để đổi chác chuộc lấy tội của con
người, mà thứ tha? Hiểu như thế, sẽ kéo theo ngộ nhận bảo rằng: mình là
nạn nhân của Chúa, cũng không chừng. Nếu ý Cha muốn Đức Kitô phải chịu
khổ và chết nhục, thì sao ta lại buồn khi lĩnh nhận thánh giá
tưởng-chừng-như-quá-nặng?
Suy tư theo hướng này, ta sẽ càng
thêm ngờ vực, rằng: sự Thương khó của Đức kitô có thể đã quá đặt nặng
vào điểm nhấn trên tính miễn cưỡng của Chúa khi chấp nhận khổ ải. Quả
thật, các thánh sử có nhắc đến việc Chúa ngồi cùng bàn với phường giá
áo, túi cơm. Kết bạn với bọn phản phé. Làm thầy kẻ chối bỏ sự thật, bỏ
của chạy lấy người…
Nhưng không nên hiểu Kinh thánh theo
khuynh hướng này. Bởi, nếu không, sẽ có người ngờ rằng: thánh Mác-cô ám
chỉ Chúa hoảng sợ trước cái chết khổ nhục, vẫn gần kề. Và, trong chiều
hướng ấy, lại sẽ nghĩ: khi Ngài cất tiếng kêu “Lạy Cha”, tức Ngài kêu
lên lời ai oán để tự cứu mình khỏi cơn buồn phiền, phải thế không? Cuối
cùng, hiểu theo hướng này, sẽ có người lại cứ nghĩ: Đức Kitô nhận “theo ý
Cha”, nhưng phút cuối, vẫn thấy như mình bị bỏ rơi trên thập giá? Quả
thật, đó không phải là thần học đích thực. Suy cho cùng, hiểu theo hướng
này, chắc chắn có sai sót. Bởi đọc kỹ chương đoạn nói rõ Chúa chấp nhận
thánh ý của Cha ở Vườn Cây Dầu, thay vì hiểu theo hướng xấu, lại đổ
riệt mọi lỗi tội cho Chúa Cha, có lẽ nên coi đây như một khẳng định, bảo
rằng: Đức Kitô đã một lòng chung thuỷ với đường lối Ngài tuân theo,
trong hành xử với Cha và loài người. Ngài vẫn một mực tuân phục Cha cho
đến chết. Vẫn thương yêu con người đến hơi thở cuối cùng.
Có như thế, Đức Kitô mới trấn át
giới chức đạo-đời, thời bấy giờ. Ngài khẳng định việc chấp nhận cái chết
trong tuân phục, đến phút cuối. Ngõ hầu chứng tỏ cho mọi người
thấy:Ngài thương yêu loài người đến tận cùng. Điều này cho thấy: Chúa
sống đích thực tư cách rất “người” của Ngài. Chính vì thế, Ngài mới bị
quyền lực đen tối dẫn đến cái chết. Và là, cái chết rất nhục. Hôm nay,
suy tư về sự thống khổ của thập giá và chết cho chính mình, ta nhận ra
được cái giá phải trả, khi giáp mặt với thực trạng của người phạm lỗi,
trái luật. Và có thế, mới sống đúng yêu cầu của Vương Quốc Nước Trời có
bình an, công chính.
Suy tư như thế, ta mới dõi bước được
chân mềm của Chúa. Biết rập khuôn bắt chước lối sống thuỷ chung, trong
hành xử giữa Cha và Con. Bởi, sự việc có xảy ra đến thế nào, đi nữa.
Hoặc, đường đời còn lắm gian nan, khổ ải đi nữa, thì Đức Kitô là mẫu mực
cho sự thủy chung, tuân phục, sẽ giúp ta cứ đầu cao mắt sáng, hiên
ngang mà chúc tụng Ngài, cả vào lúc cộng đoàn còn đang sầu buồn, than
khóc. Và, với những người dõi bước theo chân Chúa, sẽ chẳng có gì là
tang tóc, khóc than hết. Tất cả, vẫn là yêu thương, đồng cảm. Xem như
thế, chẳng có gì để ta cứ phải ỉ ôi than vãn cả khi nguyện cầu và hát
lễ.” (x. Lm Richard Leonards sj, Suy niệm CN Lễ Lá năm B 01/4/2012)
Suy niệm về lề lối nguyện cầu theo cách ỉ ôi, sầu não lại sẽ dẫn ta về với câu hát, khá ý nghĩa:
“Tôi muốn mời em về
Thăm lại Hà Nội xưa
Cổ Ngư chiều đổ lá
Trong mưa buồn lưa thưa.”
Thăm lại Hà Nội xưa
Cổ Ngư chiều đổ lá
Trong mưa buồn lưa thưa.”
(Việt Dzũng, bđd)
Dĩ nhiên, nghệ sĩ trên không
cố ý mời bạn và mời tôi về với cố đô hay thành cổ có nỗi buồn lưa thưa,
nhiều lá đổ. Mà, chỉ nói với mọi người: hãy về với người xưa chốn cũ, dù
họ có tình tự không dễ ưa, để người người sẽ nhận ra rằng: tính tình
của mỗi người dù có vị kỷ hoặc sống riêng tư, như khoa học gia nói trên
đổ rền cho tuổi nhỏ, vẫn nên hiểu theo cách khác.
Nói và hiểu theo cách trên, bần đạo
nghĩ: chắc nhiều người cũng tự hỏi: có nhất thiết phải nhấn mạnh nhiều
như thế không? Và, sao ta cứ lập đi lập lại đến day dứt nỗi thống khổ ở
Tuần Thánh? Mà quên rằng điểm nhấn chính yếu vẫn là Phục sinh quang vinh
của Chúa. Đó chính là truyền thống chắc nịch để thánh hội của ta cần
duy trì.
Nói và hiểu, theo kiểu ỉ ôi, lôi thôi
theo cảm tính và cảm tình của nhiều người, lại cũng đưa ta về với nhận
định rất chân chính, như sau:
“Tính ích kỷ làm ta mù, không thấy nhu cầu của tha nhân.
Tính vô cảm làm ta mù, không thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân.
Tính tự phụ làm ta mù, không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình.
Tính kiêu căng làm ta mù, không thấy khuyết điểm của mình.
Những thành kiến làm ta mù, không thấy sự thật.
Sự hối hả làm ta mù, không thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh.
Khuynh hướng duy vật làm ta mù, không thấy những giá trị thiêng liêng.
Sự hời hợt làm ta mù, không thấy giá trị thật của con người
và khiến ta hay lên án.”
Tính vô cảm làm ta mù, không thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân.
Tính tự phụ làm ta mù, không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình.
Tính kiêu căng làm ta mù, không thấy khuyết điểm của mình.
Những thành kiến làm ta mù, không thấy sự thật.
Sự hối hả làm ta mù, không thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh.
Khuynh hướng duy vật làm ta mù, không thấy những giá trị thiêng liêng.
Sự hời hợt làm ta mù, không thấy giá trị thật của con người
và khiến ta hay lên án.”
Nói cho cùng, thì giá
trị đích thật nơi tâm tính mỗi người, không ai có thể “lên án” hoặc dèm
pha rồi đổ vấy cho người khác, chí ít là người trẻ hoặc ấu thơ. Hơn
nữa, hãy cùng với thánh nhân nhà Đạo, ta cũng nên có nhận định thật rất
khác. Khác, như sau:
“Anh em sẽ được hân hoan vui mừng,
mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu
giữa trăm chiều thử thách.
Những thử thách đó
nhằm tinh luyện đức tin của anh em
là thứ quý hơn vàng gấp bội”
(1P 1:6-7)
Lập trường của thánh nhân nhà
Đạo trích ở trên, không hẳn đã diễn tả: sự thật ở đời, là như thế. Như
thế và như thể, mọi người trong Đạo cùng hoàn cảnh mang nhiều thử thách,
giống thánh nhân. Nhưng, sống ở đời theo lẽ đạo cho đúng đạo lý làm
người, đôi khi còn có tâm tình như tình thư bố mẹ gửi người con dấu yêu,
như sau:
“Các con thân yêu,
“Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng
kiên nhẫn và hiểu cho bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống rớt vung vãi… Nếu như
bố mẹ gặp khó khăn ngay cả đến cái ăn cái mặc… Xin con hãy bao dung!
Con hãy nhớ những ngày, giờ mà bố mẹ đã trải qua với con, để dạy cho con bao điều lúc thuở bé.
-Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì đừng bao giờ cắt đứt lời bố mẹ… mà hãy lắng nghe!
-Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố
mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm cho đến khi con đi vào
trong giấc ngủ… và bố mẹ đã làm vì con.
-Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên cho đó là điều xấu hổ.
Con hãy nhớ: lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải viện cớ bao lần để vỗ về con trước khi tắm.
Khi con thấy sự ít hiểu biết của bố
mẹ trong đời sống văn minh hiện đại ngày hôm nay, đừng thất vọng mà hãy
để bố mẹ thời gian để tìm hiểu.
Bố mẹ đã dạy dỗ con bao điều… từ cái ăn, cái mặc cho đến bản thân và phải biết đương đầu với bao thử thách trong cuộc sống.
-Nếu như bố mẹ có đãng trí hay không
nhớ hết những gì con nói… hãy để bố mẹ đôi chút thời gian để suy ngẫm
lại và nhỡ như bố mẹ không tài nào nhớ nổi, đừng vì thế mà con bực mình
mà tức giận… vì điều quan trọng nhất đối với bố mẹ là được nhìn con,
đưọc gần bên con và được nghe con nói, thế thôi!
-Nếu như bố mẹ không muốn ăn, đừng ép bố mẹ!… vì bố mẹ biết khi nào bố mẹ đói hay không.
-Khi đôi chân của bố mẹ không còn
đứng vững như xưa nữa… hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày
nào bố mẹ đã tập tành con trẻ những bước đi đầu đời.
-Và một ngày như một ngày sẽ đến, bố mẹ sẽ nói với con rằng… bố mẹ không muốn sống, bố mẹ muốn từ biệt ra đi.
Con đừng oán giận và buồn khổ… vì con sẽ hiểu và thông cảm cho bố mẹ khi thời gian sẽ tới với con.
-Hãy cố hiểu và chấp nhận, đến khi
về già, sống mà không còn hữu ích cho xã hội mà chỉ là gánh nặng cho gia
đình!… và sống chỉ là vỏn vẹn hai chữ “sinh tồn”.
-Một ngày con lớn khôn, con sẽ hiểu
rằng, với bao sai lầm ai chẳng vướng phải, bố mẹ vẫn bỏ công xây dựng
cho con một con đường đi đầy an lành.
Con đừng nên cảm thấy xót xa buồn đau, đừng cho rằng con bất lực trước sự già nua của bố mẹ.
-Con chỉ cần hiện diện bên bố mẹ để
chia sẻ những gì bố mẹ đang sống và cảm thông cho bố mẹ, như bố mẹ đã
làm cho con tự khi lúc con chào đời.
Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi vào chiều…
Hãy giúp bố mẹ trong phút sống còn lại trong yêu thương và nhẫn nại…
Cách duy nhất còn lại mà bố mẹ muốn cảm ơn con là nụ cười và cả tình thương để lại trong con.
Thương con thật nhiều…
Bố mẹ.”
(Tác giả thư trên là của Pierre Antoine, một Việt kiều ở Pháp)
Thư tâm tình bố mẹ gửi người
con thân yêu của chính mình khi gần tới cõi, trích ra đây là để phô diễn
tình tự rất “trần” về cuộc sống ở đời có những điều mà đàn con chưa thể
hiểu, nhưng vẫn biết nghĩ suy. Suy, về đời thường. Nghĩ, về đạo làm
người có lý lẽ tuy không khó hiểu, nhưng diễn biến theo thời gian và
không gian. Tựa hồ như suy tư/nhận định của Thiền sư Nan In như sau:
“Có giáo sư đại học nọ đến
gặp thiền sư Nan In để học hỏi thêm về “Thiền”. Thiền sư Nan In mời ông
vừa uống trà vừa đàm đạo. Nan In rót đầy chén trà rồi vẫn cứ thế rót
thêm. Vị giáo chức đại học thấy thế bèn nhắc nhở:
-Bạch thày! Kìa, chung trà đã tràn đầy rồi mà sao thày vẫn rót mãi?
-Cũng như chung trà này,
đầu óc của ông cũng đầy ắp những quan niệm tư riêng của ông thôi. Nếu
như việc trước tiên ông không cạn chén trà này đi đã, thì tôi đây làm
sao bày tỏ cho ông biết về Thiên được?”
Chuyện về “Thiền” cộng thêm lời bình của
người kể, có thể diễn nghĩa như sau: những người chứa đầy những kiến
thức trong đầu đều có động thái tương tự kẻ tham gia cuộc tranh luận
trong đó có người hay đưa nhận thức của riêng mình vào cuộc biện tranh,
rất lý luận. Thế nên, rút cục chỉ nghe mỗi tiếng của mình mà không học
được gì thêm cho mình hết.
Về tính vị kỷ hay tật xấu/thói quen của
cá nhân hoặc nhóm hội nào đi nữa, vẫn chỉ là tâm tính hoặc tâm tình cụ
thể của một người, ở vào hoàn cảnh nào đó, thế thôi. Dù người kia, nhóm
nọ có ra thế nào đi nữa, ta vẫn hy vọng rằng ngày nào đó người ấy sẽ đổi
thay. Giả như họ vẫn chưa thay đổi được, chẳng qua cũng chỉ vì họ chưa
gặp thời hoặc gặp được bạn hiền nào chỉ cho mình cách thức để cải thiện
hoặc sửa đổi chính mình, thế thôi. Ngay như câu truyện ở trên, vị giáo
sư đại-học kia kiến thức đầy mình là thế, nhưng vẫn cần đến ý kiến của
thiền-sư với kiến thức cũng như học vị chẳng bằng ai. Thế nhưng, kiến
thức văn hoá về con người và về sự biến hoá của vũ trụ, thì chưa chắc là
ai bằng người thày ấy.
Và, đó cũng là ao ước của nghệ sĩ lâu nay vẫn thường hát:
“Tôi muốn mời em về,”
“Thăm lại phố phường xưa.
Những chiều trời mưa phủ ,
Lời yêu nói sao vừa.”
(Việt Dzũng – bđd)
Mời em hay mời tôi, ta vẫn cứ
mời. Mời, là để tôi và em, ta không chỉ thăm lại phố phường xưa, thôi.
Nhưng, còn để bảo rằng: “lời yêu, nói sao vừa?” Sao vừa được,
bởi lời ấy không là lời yêu thương mỗi chính mình, khá vị kỷ. Mà là, lời
thương yêu hết mọi người dù ở trong Đạo hay ngoài đời. Khắp muôn nơi.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ mời bạn và tôi
ta về với người xưa, chốn cũ
có sự thật rất không phai và không cũ.
Như tình yêu vô vị kỷ,
ở Nước Trời.
Nguồn : http://www.chuacuuthe.com/archives/32863

0 comments:
Post a Comment