
Đinh Tấn Lực -
Tám mươi năm trước, tháng 7/1936, ủy viên BCH Quốc Tế Cộng Sản Lê Hồng
Phong triệu tập một buổi họp tại HongKong, triển khai Nghị quyết của Đại
hội VII Quốc tế Cộng sản để thành lập Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản
đế Đông Dương, khởi động một phong trào quần chúng công khai đấu tranh
với thực dân Pháp, yêu sách đòi tự do dân chủ và đời sống áo cơm, lấy
tên là Phong Trào Đại Hội Đông Dương.
Đến tháng 9/1936, riêng Nam Kỳ thiết kế 600 ủy
ban hành động của nhiều thành phần quần chúng. Kết quả vào cuối năm 1936
là 361 cuộc bãi công, quy mô nhất là cuộc đình công của ba vạn công
nhân mỏ than Hồng Gai-Cảm Phả. Pháp phải trả tự do cho 1532 tù chính
trị.
Đầu năm 1937, hai vạn công nhân Sài Gòn-Chợ Lớn
biểu tình đón phái viên của Pháp sang thẩm định tình hình Đông Dương,
với những khẩu hiệu: Hoan nghênh Mặt trận nhân dân Pháp; đòi tự do dân
chủ, tự do lập hội, thi hành luật lao động, bỏ thuế thân, toàn xá chính
trị phạm… Mặt khác, bên trong, là việc thành lập những Công hội, Nông
hội, Đoàn thanh niên phản đế, Hội cứu tế bình dân… thậm chí, các Hội cấy
lúa, Hội lợp nhà… để đoàn ngũ hóa hàng triệu người vào những mục tiêu
phúc lợi cụ thể.
Tháng 3 năm 1938, Mặt Trận Phản Đế Đông Dương
đổi tên thành Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương, đẩy người ứng cử vào các Hội
đồng thành phố, các Viện dân biểu Trung kỳ, Bắc kỳ. Cuộc biểu dương lực
lượng quy mô đỉnh điểm là dịp kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 01-05-1938,
công khai quy tụ hai vạn rưỡi người. Song song là sự xuất hiện của các
tờ báo Notre voix, Le Travail, Le Peuple, Tin tức, Nhành lúa, Dân chúng,
Lao động, Mới… cùng các tác phẩm phản ảnh xã hội lầm than của Ngô Tất
Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Lan Khai v.v…
Tất nhiên, súng dài/súng ngắn/mã tấu/lưỡi lê có
đầy, và cũng đã có một số cán bộ bị bắt tù, nhưng không phải là những
cán bộ trụ từng được giữ kín. Dù vậy, tiến trình tập họp quần chúng
trong những năm này được đảng CSVN trang trọng đánh giá là cuộc Tổng
diễn tập thứ hai (sau cuộc tổng diễn tập Xô Viết-Nghệ Tĩnh 1930-1931),
với đặc điểm phối hợp đấu tranh công khai và không công khai để đạt
thắng lợi.
*
Cách nay 6 năm, 2006, một làn sóng đấu tranh
trực diện và có tính xuyên phá đã hình thành ở Việt Nam một số tổ chức
công khai hoạt động: Khối 8406, Đảng Thăng Tiến, Liên Minh Dân Chủ Nhân
Quyền Việt Nam, Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam, Liên đảng Lạc Hồng, Công
Đoàn Độc Lập Việt Nam, Hiệp Hội Đoàn Kết Công-Nông Việt Nam…
Bối cảnh lúc đó là một Hà Nội đang đứng trước
những thách đố của các quy chế CPC, cùng những điều kiện tổ chức APEC,
hay điều kiện gia nhập BTA, WTO… nghĩa là không thể mạnh tay trước ống
kính truyền hình quốc tế, và chấp nhận một bước lùi vào thế thủ trước áp
lực thế giới. Ngược lại, đối với những nhân vật chủ trương dân chủ hóa
Việt Nam bấy giờ thì đấu tranh công khai là một loại vỏ bọc/áo giáp cần
thiết một khi có được sự quan tâm/biết đến/hỗ trợ từ phía dư luận quốc
tế.
Thế nhưng thời khoảng thuận lợi đó không kéo
dài. Sau đó là một chiến dịch đàn áp kinh hoàng từ phía đảng cầm quyền.
Nghị định 31/CP ngưng hiệu lực, nhưng thay vào đó là những điều luật
hình sự 79, 84 và 88 coi nhân dân như những tù nhân có thể bắt giam bất
cứ lúc nào. Không một ai có thể liệt kê đầy đủ danh tính những người bị
bắt, bị giam, ra tòa nhận án, hay giản đơn là bị hại trong thời gian
này, kể cả những quan chức của bộ công an.
Chiến dịch đàn áp kinh hoàng đó kéo dài suốt
nhiều năm liền, có thể nói là đến tận hôm nay, và những nạn nhân kế tiếp
của nó tăng cao, rất đông, với những người thường được dư luận nhắc đến
nhiều là các ông/bà Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê
Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Lê Thăng Long, Phạm Minh Hoàng, Cù Huy Hà
Vũ, Phan Thanh Hải, Tạ Phong Tần, Bùi Minh Hằng, Việt Khang, Nguyễn Quốc
Quân… cùng những thanh niên nam nữ và trí thức xuống đường phản đối
hành động xâm lấn của TQ (2007-2011), và khá đông những bloggers (dù
trong hay ngoài Câu lạc bộ Nhà Báo Tự Do) vẫn hằng đau đáu với vận mệnh
dân tộc.
Người ta chưa nhất thiết đặt tiêu chuẩn anh hùng
để đánh giá những nhà đấu tranh vừa nêu, nhưng hầu như mọi người đều
nhận rõ ở những người dũng cảm đó một mẫu số chung là chấp nhận tù tội
để nêu bật từng trọng điểm trong hàng loạt bài viết của họ cho cả nước
cùng thấy ra như nhau:
Nguyên nhân tình trạng khủng hoảng toàn diện của VN là do đảng CSVN:
1. Lấy chủ thuyết hoang đường và phá sản làm giải pháp;
2. Đặt quyền lợi đảng lên trên quyền lợi đất nước và tương lai dân tộc;
3. Đường lối ngoại giao hèn nhát là hệ quả tinh thần nô lệ các quan thầy;
4. Chính sách nội trị có nền móng là hận thù và bạo lực;
5. Kinh tế hoang dã, trục lợi, đục khoét tài nguyên và phá hủy môi trường;
6. Giáo dục đào tạo một tầng lớp cán bộ dốt, gian, tham và vô trách nhiệm;
7. Guồng máy cai trị cửa quyền, hành dân và khủng bố nhân dân;
8. Đảng viên dùng đảng làm phương tiện tiến thân và thi đua làm giàu bằng tham nhũng;
9. Gia tăng bất công và tê liệt hóa khả năng đóng góp của người dân.
2. Đặt quyền lợi đảng lên trên quyền lợi đất nước và tương lai dân tộc;
3. Đường lối ngoại giao hèn nhát là hệ quả tinh thần nô lệ các quan thầy;
4. Chính sách nội trị có nền móng là hận thù và bạo lực;
5. Kinh tế hoang dã, trục lợi, đục khoét tài nguyên và phá hủy môi trường;
6. Giáo dục đào tạo một tầng lớp cán bộ dốt, gian, tham và vô trách nhiệm;
7. Guồng máy cai trị cửa quyền, hành dân và khủng bố nhân dân;
8. Đảng viên dùng đảng làm phương tiện tiến thân và thi đua làm giàu bằng tham nhũng;
9. Gia tăng bất công và tê liệt hóa khả năng đóng góp của người dân.
Và, vận động áp lực nhiều phía để đòi hỏi đảng CSVN, từ thấp tới cao, buộc phải chấp nhận:
1. Quyền tự do ngôn luận & ra báo tư nhân;
2. Quyền tự do lập hội & hoạt động đảng phái;
3. Quyền hành đạo & hoạt động giáo hội;
4. Công đoàn độc lập & quyền đình công;
5. Thả tù chính trị & quyền biểu tình;
6. Kinh tế thị trường & quyền tư hữu đất đai, phương tiện sản xuất;
7. Hủy bỏ điều 2 hiến pháp & giáo dục Mác-Lê;
8. Hủy bỏ điều 4 hiến pháp & cơ chế đảng trong QH, tòa án, quân đội, công an;
9. Tổ chức trưng cầu dân ý & tổng tuyển cử tự do.
2. Quyền tự do lập hội & hoạt động đảng phái;
3. Quyền hành đạo & hoạt động giáo hội;
4. Công đoàn độc lập & quyền đình công;
5. Thả tù chính trị & quyền biểu tình;
6. Kinh tế thị trường & quyền tư hữu đất đai, phương tiện sản xuất;
7. Hủy bỏ điều 2 hiến pháp & giáo dục Mác-Lê;
8. Hủy bỏ điều 4 hiến pháp & cơ chế đảng trong QH, tòa án, quân đội, công an;
9. Tổ chức trưng cầu dân ý & tổng tuyển cử tự do.
Đó là những người tiên phuông trong giới quan
tâm đã biến ý thức thành hành động và giúp cho quảng đại quần chúng cùng
hành động.
Những sự kiện Thái Hà, Tam Tòa, Đồng Chiêm, Bắc
Giang, Cồn Dầu, Tiên Lãng, Văn Giang, Vụ Bản…, và ngay cả tuyển tập “Thế
Hệ F”, hay một hệ thống truyền thông vượt mặt chính quy mà nhà nước
phải toàn tâm toàn lực be bờ, há chẳng phải là những kết quả đấu tranh
bền bỉ suốt sáu năm qua đó sao?
Nhìn chung thì phía đối kháng đã đạt một số điều cần đạt trên tiến trình nới xiềng/nong xích.
Song, dường như vẫn còn thấp thoáng đâu đó một
chút giằng vật giữa nỗi do dự của từng người và sự nung nấu kết hợp của
số đông quan tâm từng tự chọn cho mình chỗ đứng đầu sóng ngọn gió.
Những ưu tư đó hoàn toàn là có cơ sở. Ngay cả
khi mọi người đều thấy bảo toàn lực lượng không phải là mục tiêu đấu
tranh. Quả thật, mục tiêu là đấu tranh hiệu quả để đạt những yêu sách từ
lòng yêu nước, và điều kiện thiết yếu là đấu tranh công khai. Nhưng
ngược lại, yếu tố bảo toàn lực lượng cũng không kém quan trọng, vì nó
chính là điều kiện không thể thiếu để đấu tranh đường dài.
Vậy thì bài toán của chúng ta, phải chăng là liều lượng và phương cách đấu tranh công khai?
*
Đọc lại một đoạn có liên quan trong tập Từ Độc
Tài đến Dân Chủ, người ta có thể phần nào ngạc nhiên khi thấy tác giả
viết từ lâu, và không từng đến Việt Nam, nhưng có một số nhận định khá
gần gũi với chúng ta:
"Bí mật, ngụy trang, và lập mưu trong bóng tối
tạo thêm vấn đề rất khó khăn cho những phong trào đấu tranh bất bạo
động. Thường thì phía dân chủ khó giữ nổi các ý định hay kế hoạch khỏi
những cặp mắt tình báo hay công an chính trị của chế độ.
Nhìn từ góc cạnh của phong trào thì bí mật không
chỉ bắt nguồn từ sự sợ hãi mà còn làm góp phần gia tăng sự sợ hãi. Và
chính sợ hãi sẽ làm suy giảm tinh thần kháng cự và làm giảm số người có
thể tham gia vào hành động.
Bí mật, một khi bị lộ, sẽ góp phần tạo nên những
ngờ vực và cáo buộc trong nội bộ phong trào (mà thường là oan uổng) về
việc ai là nội gián cho đối phương. Bí mật cũng có thể ảnh hưởng trên
khả năng duy trì chủ trương bất bạo động của phong trào. Ngược lại, sự
công khai về chủ trương và đường lối không những tạo được ảnh hưởng
ngược với các hậu quả nêu trên, mà còn góp phần tạo hình ảnh là phong
trào đối kháng thực sự rất mạnh.
Vấn đề dĩ nhiên phức tạp hơn nhiều so với vài
giòng vắn tắt này, và có những lãnh vực hệ trọng trong hoạt động đối
kháng cần phải giữ bí mật. Quyết định có nên giữ mật một việc nào đó hay
không cần phải được lượng giá với đầy đủ dữ kiện bởi những người hiểu
rõ cả về sự vận hành của đấu tranh bất bạo động và những phương tiện dọ
thám của bạo quyền trong từng trường hợp cá biệt.
Những việc như soạn thảo, in ấn và phổ biến các
tài liệu chui, sử dụng đài phát thanh bất hợp pháp trong nội địa quốc
gia, cũng như việc thu thập dữ kiện tình báo về các hoạt động của bạo
quyền là loại việc đòi hỏi độ bảo mật cao.
Trong suốt tiến trình đấu tranh bất bạo động,
việc duy trì tiêu chuẩn gắt gao trong hành động ở mọi giai đoạn là điều
cần thiết. Trong số những tiêu chuẩn này, yếu tố không sợ hãi và duy trì
kỷ luật bất bạo động là những điều kiện luôn luôn phải có. Ðiều quan
trọng cần nhớ là phải có số đông dân chúng thì mới đủ áp lực để tạo thay
đổi, nhưng số đông đó chỉ trở thành những người tham gia đáng trông cậy
khi những tiêu chuẩn gắt gao được duy trì trong phong trào…”. - Gene
Sharp
*
Từ ba kinh nghiệm trên, chúng ta có thể rút tỉa được gì?
Thứ nhất, Ý niệm đấu tranh công khai cần được
khai triển, bởi người Việt Nam khắp nơi đã ra mặt tranh đấu với nhà cầm
quyền cho từng thước đất, từng gánh rau, từng rá gạo… và nỗ lực đấu
tranh công khai đó cần được nhân rộng/phối hợp/tung hứng/nhồi sóng/liên
hoàn/đẩy mạnh/nâng tầm… bằng một Phong Trào (viết hoa) có danh xưng, có
chủ trương, có kế hoạch phối hợp, có nhân sự thực hiện kế hoạch và có
một hệ cán bộ tham mưu/chỉ huy liên tục trong mọi tình huống. Có thủ
lĩnh lại càng là một điểm son nhưng không nhất thiết bắt buộc (ví dụ
Otpor của Serbia hay các cuộc cách mạng hoa/màu gần đây).
Thứ hai, Ý niệm đấu tranh công khai đó nên được
công khai. Chủ trương trong sáng đó, công khai. Đường lối khả thi đó,
công khai. Những lời kêu gọi chân tình đó, công khai. Nỗ lực kết hợp tạo
số đông từ nhiều thành phần quần chúng đó, công khai. Nhưng, kế hoạch
chiến lược và chiến thuật của phong trào cần được suy xét kỹ từng trường
hợp trước khi công khai. Nhân sự lõi của phong trào cũng sẽ được giữ
kín. Ngay cả dàn nhân sự trung tầng, được coi như bộ phận (hộp số)
chuyển lực, cũng không công khai, ít ra là trong giai đoạn tranh tối
tranh sáng của tiến trình xây lực quần chúng đang có nhiều thuận lợi
này. Cho tới khi Ban Lãnh Đạo của Phong Trào đồng thuận về một thời điểm
thích hợp nhất và có lợi nhất để tự công khai hóa, từng người hay toàn
bộ, trung tầng hay cốt lõi, và thường là chỉ cận kề hoặc ngay trước thời
thời điểm phối hợp toàn quốc, hoặc ít là phối hợp nhiều tỉnh thành lớn
với nhau.
Liệu rằng những điều rút tỉa sơ khởi và cô đọng
đó có giúp gì cho chúng ta chọn lựa phương cách xây lực phong trào và
xây lực quần chúng, sao cho quân bình được cái thế khá lớn với cái lực
chưa đủ rộng hiện giờ, đồng thời, cân bằng cái nhu cầu đấu tranh hiệu
quả với nhu cầu bảo toàn lực lượng đang có được chút nào chăng?
Blogger Đinh Tấn Lực
17-06-2012 - nhân dịp kỷ niệm 93 năm bản Yêu Sách 8 Điều được gửi đến Hội Nghị Versailles.
17-06-2012 - nhân dịp kỷ niệm 93 năm bản Yêu Sách 8 Điều được gửi đến Hội Nghị Versailles.
Nguồn: Blog Đinh Tấn Lực

0 comments:
Post a Comment