Có
một số anh em Không Quân không hề biết chuyện tôi đăng bài VÀNG RƠI
KHÔNG TIẾC của anh Đào Vũ Anh Hùng trên Giai phẩm Lý Tưởng vào năm 1988,
mà bị Mặt Trận Hoàng Cơ Minh cho người đến khủng bố. Họ đòi tịch thu
báo. Tôi nhất định cự tuyệt, bởi vì đây là một bức thư tâm tình của
người Không Quân gửi cho người Không Quân, đòi hỏi bạn “đồng chí” phải
nói lên Sự Thật về việc làm kháng chiến mờ ám, khuất tất của Mặt Trận.
Tôi viết lời tòa soạn với lời hứa hẹn sẽ dành cho KQ Nguyễn Kim Huờn trả
lời trên số báo Lý Tưởng sắp tới.
Tôi
ứng xử rất công bằng, vô tư giống như một tờ báo có đạo đức, nghĩa là
không đứng về phe nào trước công luận. Thế mà Nguyễn Kim Huờn, Tổng Vụ
trưởng Quốc Ngoại của Mặt Trận, cho đoàn viên thuộc Thành bộ Houston gọi
điện thoại liên tục ngày đêm để đe dọa tính mạng bạn Trần văn Nghiêm
(Hội trưởng) và bản thân tôi (Chủ bút Lý Tưởng).
Tôi
nghĩ rằng chúng ta là những chiến sĩ hết lòng chiến đấu bảo vệ quê
hương. Chẳng may mất nước, phải tha hương sống đời tị nạn đã là nhục lắm
rồi. Còn có cái nhục nào bằng người vô Tổ Quốc? Nay lại có cái hạng
người cũng tị nạn như mình, bày trò kháng chiến bịp bợm để vơ vét tiền
mồ hôi nước mắt của những người còn thiết tha đến đất nước, dám hăm dọa
chúng ta thì không thể chấp nhận được. Hơn nữa Nguyễn Kim Huờn hãy là
đàn em của nhiều người trong Ban Biên tập Lý Tưởng?
Chẳng
những tôi không thu hồi tờ báo, tôi còn tự bỏ tiền túi ra để làm số báo
THẦN PHONG để chống lại hành động côn đồ của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh.
Cái
tồi bại của những con người mượn danh nghĩa Kháng Chiến là trò chụp mũ
cộng sản. Thiếu tá Phạm Đăng Cường, phi công Khu trục F-5 bị kẻ gian vào
nhà, không một thứ gì bị mất cắp, ngoài bức thư của cô em gái từ Việt
Nam gửi sang xin anh cho em một ít thuốc Tây mà ở Việt Nam không có.
Thế là chúng dùng phương pháp rỉ tai, phao vu cho Cường liên lạc với Việt Cộng! Cái trò anh chống chúng, đều bị chúng chụp cho cái nón cối Việt Cộng. Chẳng khác nào ai chống Cộng sản, đều bị Cộng sản chụp cho cái mũ Việt Gian. Tôi cũng bị chúng rỉ tai đồng bào rằng tôi là cộng sản vì có anh đi theo cộng sản!
Thế là chúng dùng phương pháp rỉ tai, phao vu cho Cường liên lạc với Việt Cộng! Cái trò anh chống chúng, đều bị chúng chụp cho cái nón cối Việt Cộng. Chẳng khác nào ai chống Cộng sản, đều bị Cộng sản chụp cho cái mũ Việt Gian. Tôi cũng bị chúng rỉ tai đồng bào rằng tôi là cộng sản vì có anh đi theo cộng sản!
Không
những đoàn viên Mặt Trận chụp mũ Cường, mà ngay cả những đảng viên của
Cường trong Liên Minh Dân Chủ của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy cũng tỏ ra
nghi ngờ về lập trường chính trị của Cường. Anh tỏ ra hết sức buồn bã,
thất vọng về tình đồng chí trong đảng của mình. Một hôm quá nản, Cường
đành lấy cái chết để minh oan. Tôi rất buồn và rất căm phẫn, vì mất một
người bạn tâm huyết.
Anh em KQ hết sức lo lắng cho tính mạng của tôi, nhưng cũng đành bó tay vì sợ liên lụy. Tôi biến thành một Lone Ranger!
Mới
đây cơ quan truyền thông ProPublica được Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả
(Committee to Protect Journalist) bảo trợ, gửi phóng viên điều tra đi
tìm ai là thủ phạm trong cái chết của 5 ký giả), có lẽ các anh đã biết
qua tin tức? Nếu ngày đó mà tôi cũng bị bắn chết, thì số ký giả bị chết
phải là con số 6!
Tôi
gửi kèm theo đây bài VÀNG RƠI KHÔNG TIẾC để quý anh biết nỗi lòng yêu
nước của nhà văn Đào Vũ Anh Hùng tha thiết đến vận mệnh đất nước và
tương lai dân tộc là dường nào. Anh Hùng đúng là một chiến binh VNCH
đích thực, luôn luôn sống theo tôn chỉ TỔ QUỐC - DANH DỰ - TRÁCH NHIỆM.
Vì
yêu nước, anh Hùng đã tham gia tổ chức kháng chiến phục quốc, nhưng khi
thấy sự dối trá lừa bịp của tổ chức là lên tiếng và khẳng khái bước ra;
chứ không giống như Nguyễn Kim Huờn cũng là một người Không Quân anh em
với chúng ta, lại đem côn đồ đến hăm doa anh em.
Trong
khi anh em chúng ta đem sức cần lao kiếm ba cọc ba đồng để nuôi gia
đình và giúp bà con ở quê nhà, thì Nguyễn Kim Huờn lãnh lương Kháng
Chiến rất cao và không phải đóng thuế, các anh có thấy vui không? Vài
hàng tường trình để anh em rõ.
Nguyễn
Xuân Nghĩa, một lãnh tụ cao cấp của Mặt Trận mới viết một bài mắng Cộng
Đồng rất hay: "Trong một xứ của người câm thì người mù mắc bệnh điếc"
của nhà thơ người Bỉ tên là Louis Scutenaire.
Xin
tất cả quý anh đồng đội cũ của tôi hãy cùng nhau cất lên tiếng nói
trước sự dối trá, lừa đảo, gian ác để không bị Nguyễn Xuân Nghĩa không
dám bảo chúng ta vừa mù, vừa câm, vừa điếc.
Trân trọng kính chào quý anh Không Quân.
Bằng Phong Đặng Văn Âu,
Tái bút: Quý anh KQ nào có báo, có trang mạng, xin vui lòng phổ biến cái email này cùng với bài VÀNG RƠI KHÔNG TIẾC giùm. Xin chân thành cảm ơn
Vàng rơi không tiếc
Đào Vũ Anh Hùng
Tiền
nhận từ bàn tay khô héo của bà mẹ già nua sống buồn phiền lạc lõng nơi
đồng đất nước người muốn mau chóng trở về chết trong lòng đất quê nhà
yêu dấu. Của em bé thơ ngây nhịn miếng cơm chim mong về hưởng lại tình
thương nội ngoại. Của con mong gặp lại cha, vợ mong gặp lại chồng. Của
những người sầu héo nhớ thương người, bạn bè mong cứu bạn bè tù tội
trong gông cùm cộng sản…
Hinh minh hoạ: ông Hoàng Cơ Minh tại Đại hội Chính nghĩa, 1983, Washington, D.C.. Nguồn: ProPublica.
LỜI TÒA SOẠN TRÊN GIAI PHẨM LÝ TƯỞNG:
Thiết
tưởng người Không Quân có quyền bày tỏ tâm tình của mình với anh em
trên Giai Phẩm Lý Tưởng, nhất là trong những vấn đề liên quan đến Chính
Nghĩa đấu tranh của Người Việt Quốc Gia. Tòa soạn quyết định đăng tải
bức thư này và dành quyền trả lời cho anh Nguyễn Kim Huờn, một người anh
em của chúng ta.
(Ghi chú: Tác giả gửi thư này cho Lý Tưởng ngày 11 tháng 1 năm 1988).
******************
“…
Tôi lấy anh coi hai lá thư vừa nhận được. Một từ anh bạn cùng đơn vị
ngày xưa trên đường về khu chiến ghé Tokyo viết vài lời thăm và từ giã.
Ngạc nhiên và xúc động biết bao nhiêu – Người bạn đã cùng tôi chiến đấu
dưới cờ Quân Lực, cùng tôi sống chết trong một con tàu giữa mây cao gió
lộng trên vùng trời đỏ lửa quê hương, lang bạt khắp nẻo đường đất nước.
Người bạn mà tôi nghĩ chỉ biết có “sì già đầm bồi” cùng những nàng kiều
nữ!… Ngờ đâu anh đã trở về và trên bước phản hồi cố quốc còn nghĩ nhớ
đến tôi mà viết cho tôi lá thư đầu tiên từ mười mấy năm quen biết. Thư
anh cuối đoạn có lời chào và ghi dòng chữ “Mai này chúng ta cùng về Việt
Nam”. Lòng tôi choáng ngợp niềm hãnhh diện. Tôi không có địa chỉ hồi
âm. Tôi muốn viết cảm ơn anh. Tôi muốn nhờ anh chuyển đến các anh chị em
chiến sĩ lời thăm chúc, một câu thâm tạ ngô nghê tầm thường của ngôn
ngữ loài người. Nhưng thôi, tôi đợi.” (Giữ Lửa – Đất Mới, tháng 9, 1982)
Thư
đó, không bao giờ được viết và gửi đi như tôi bồi hồi tưởng sẽ có ngày.
Giấc mơ kháng chiến công thành, “về ôm lấy đất, hôn mê mẩn đất” đã vỡ
tan, nát vụn, làm tim chân thật của tôi cùng tim chân thật của biết bao
người đớn đau vô kể. Thật thương cho vận nước, tội nghiệp dân tôi…
Bạn xưa,
Từ
cái ngày ô nhục phơi bày phản phúc, tỏ lộ rõ ràng cái thủy chung đạo
nghĩa lọc lừa của tình chiến hữu đấu tranh, bạn xé bỏ lương tâm đem mảnh
linh hồn bán cho Vu Hích(*), tôi bàng hoàng và đau nhói. Không giận, mà
đau. Vì tôi hiểu bạn và vẫn thương mến bạn qua hình ảnh người phi công
lẫm liệt ngày xưa, ngày chúng ta còn khoác chung màu áo, nắm tay nhau
vào chốn đường mây sinh tử. Không Quân chúng ta tình thì vẫn nặng, không
phải thứ “tình bọ ngựa”, đang hoan hỉ cùng nhau bỗng dưng trở mặt vung
dao tiện đứt đầu bằng hữu. Nên tôi đau đớn thấy bạn nỡ bỏ anh em, nỡ bỏ
bạn bè, bỏ rơi liêm sỉ, vẽ mặt bôi râu cho người đẩy lên cái rạp phường
chèo đóng vai gã hề câm mang chức sắc triều đình Vu Hích làm trò riễu
dở…
Hình chụp ở Tokyo: Ô. Hoàng Cơ MInh (t). Ô. Nguyễn Kim (Huờn) (p). Nguồn Viettan.org
Bạn
được người ban chức lớn, đầu năm có lá thư xuân gửi đồng bào chiến hữu,
hô hào yểm trợ, phi lộ bằng câu tự giới thiệu mình vừa từ chiến khu
quốc nội trở ra nhận công tác mới… Tôi đã không giữ được trang nghiêm
khi đọc lá thư chúc Tết của ông tân Tổng Vụ. Tôi rất muốn tin quả thực
bạn vừa trở ra từ khu chiến và rằng quả thực chính tay bạn viết lá thư
thân mến gửi đồng bào bằng giọng văn lãnh tụ. Tôi rất muốn sống lại cái
giây phút bồi hồi rung động của lần trông thấy hình ảnh bạn trong cuốn
phim ngày Cương Lĩnh: Bạn đi dép râu, đội nón tai bèo, khăn rằn quanh cổ
chống gậy vào rừng đi làm kháng chiến. Ngày đó tôi dậy lòng ngưỡng mộ
và rưng rưng yêu mến bạn đã cho tôi niềm tin cùng nỗi chan hoà danh
diện. Nhưng bây giờ nghĩ nhớ về bạn cùng cái tên Nguyễn Kim vừa đủ lạ,
tôi thấy mình đắng cay thương tổn và xấu hổ như chính tôi gian dối. Bạn
béo trắng, vẽ râu trên mép, bảnh bao xuất hiện giữa chốn quan chiêm,
ngồi đứng đều khoanh tay nghiêm túc khiến tôi không nhịn nổi cơn cười,
nhớ lại ngày xưa bạn hay dùng chữ “giả dạng bần tăng” để chỉ những tên
bộ vó hiền lành nhưng gian và dối…
Chuyện
gian dối đời không hiếm thiếu. Nhưng tôi thực khó khăn chấp nhận những
dối gian lừa đảo đến từ người mình yêu mến và dốc lòng tin cậy. Dối gian
này lại quá lớn lao. Nên chi nhìn ảnh bạn phương phi nhân dáng trên tờ
Kháng Chiến và đọc lá thư Xuân, tôi như có con trùng tanh nhớt bò trong
cuống họng. Tôi phải tin rằng thật tất cả những điều Phượng nói cùng tôi
từ bấy lâu nay về bạn mà tôi bao giờ cũng tìm lời khoả lấp để dối lòng
đừng xao xuyến niềm tin. Những lúc đinh ninh bạn đang lội suối trèo non,
gian khổ trên đường kháng chiến, thì hỡi ơi bạn lại thong dong thả bước
hào hoa trong rực rỡ đèn màu, vẫn lại “sì già đầm bồi” cùng những nàng
kiều nữ! Tôi biết nói sao để lòng khỏi ngượng vì lỡ tuyên dương bằng hữu
với người vợ trẻ? Người vợ đã làm tôi cảm kích biết ơn, nhớ ghi mãi mãi
lời nói của nàng khi đọc lá thư bạn gửi,
“Em
biết tính anh, những gì thích muốn là làm cho bằng được nên em không
bao giờ dám cản ngăn, chỉ thầm lén khóc. Em thực tình không muốn anh dốc
đổ quá nhiều thì giờ và tim óc cho những việc chỉ mang thêm phiền bực.
Họ bội bạc với anh, vô ơn, đố kỵ, những con người phản phúc… Thế nhưng
Việc-Kháng-Chiến, anh không làm em cũng bắt anh phải làm!”
Ôi
thật tội thương người vợ trẻ. Tội thương người vợ lính đã chia xẻ cùng
chồng cả một quãng đời khăn khó, đã trải qua những truân chuyên hạnh
phúc với tôi và biết thương yêu, biết cảm thông đời lính, biết góp hy
sinh cho đời chiến sĩ của chồng, biết khổ đau và tức giận trước nỗi điêu
linh tang tóc của quê hương mình bất hạnh. Người vợ nhu mì thánh thiện
từ tấm bé sống trong êm ái tình thương của gia đình, nhởn nhơ hoa bướm
thanh xuân với bạn bè, sách vở cho đến ngày biết yêu tôi, biết làm vợ,
làm mẹ… có bao giờ thấy biết rõ ràng mức độ hãi hùng bi thảm của chiến
tranh, nhìn được tỏ tường mặt ngang mũi dọc một thằng Việt cộng? Thế mà
cuộc xảy đàn tan nghé 75 đã khiến vợ tôi biết đau hận, căm thù, biết
khuyến nghị chồng góp công cho đại nghĩa.
Vợ
tôi đã tin yêu thành khẩn, đóng góp kiên trì và thành khẩn. Cả những
đứa con cũng được mẹ dạy phải góp tiền yểm trợ, phải tiếp tay giúp bố
làm công tác để có ngày về thăm ông bà, nội, ngoại… Phần tôi, lá thư bạn
gửi đã cho tôi chan hoà rung động. Tôi hình dung ra toàn vẹn hình ảnh
bạn tếu vui linh hoạt ngày xưa chúng ta còn ở Phi đoàn. Những ngày đi
biệt đội, nằm chờ phi vụ tản thương đêm ở Pleiku, ở Ban Mê Thuột, hay ở
Kontum trong ngôi biệt điện bên bờ sông Dak-Bla ồn ào quấy nhộn với quân
bài xập xám… Xa hơn nữa, những ngày nắng bụi mưa dầm hành quân ở Tam
Quan, Bồng Sơn của 1966, 1967 – đêm về ăn nhậu rong chơi ở Quy Nhơn –
tôi còn là gã hoa tiêu mới ngỡ ngàng về nước, ngồi ghế copil cho bạn,
rông dài khắp ngả đường mây. Tôi đã làm hoa tiêu phó cho thầy Hườn một
thời gian dài đáng kể trong tổng số giờ bay trên chiếc H-34 kềnh càng
của Phi đoàn 215 Thần Tượng. Chúng ta đã có cùng nhau bao nhiêu kỷ niệm,
chia xẻ cùng nhau nhiều nỗi sướng vui cũng như hoạn nạn, những lần chới
với bên bờ sống chết, cạnh vực hiểm nguy… Nên tôi đã bằng vào tình
nghĩa ấy để đặt tin yêu nơi bạn, không so đo, không nghi ngại, cho mình
bổn phận phải tự giác đứng lên, vội vàng tìm đến, dơ cao tay xin nhập
cuộc.
Tôi
nhập cuộc không đợi ai mời gọi. Lòng hớn hở mừng vì bạn và tôi lại
chung hàng ngũ cho tôi hối chuộc tội mình quá nặng đối với quê hương,
tẩy rửa niềm xấu hổ vì không ở lại để chết cùng vận số hẩm hiu đất nước.
Kiểm điểm phần đóng góp cho Mặt trận, Phong trào từ những ngày đầu chưa
mặc áo đoàn viên, tôi phải giật mình kinh ngạc vì những thành toàn và
những hăng say tích cực, đa năng, mẫn cán đổ ra không tiếc, không dè xẻn
nguồn năng lực cùng khối nhiệt tình dành cho kháng chiến. Tôi chau
chuốt niềm tin vững mạnh nơi mình và say sưa truyền giảng cho người như
kẻ thừa sai làm việc vinh danh Chúa. Tôi đã đi những bước rất tự tin, cố
dọn mình cao cả, khoan dung nhìn những sai lầm, khuyết điểm, những vụng
về, lơi lỏng là tất nhiên phải có nơi một tổ chức mới hình thành nhưng
lớn mạnh quá mau, lãnh đạo chưa tôi luyện, thời gian cần đủ lượng để đi
đến kiện toàn. Dầu gì thì ngọn lửa cũng đã được đốt lên, phải giữ cho đỏ
ngọn. Gió to góp lại sẽ thành bão tố, bột đem quấy mãi cũng thành hồ,
trăm cây chụm lại…
Người thành lập EDS, Ross Perot, lạnh lùng từ chối không tiếp ông Chủ tịch Mặt trận. Nguồn: Bettmann / Corbis (1984)
Lòng
tôi tin như thế và mong như thế. Nhưng cái tin mong thành khẩn dù lớn
mạnh bao nhiêu cũng không đủ lực mù quáng trái tim tôi và khoan lượng
rộng rãi đến ngần nào cũng không dung được những điều dối gạt với manh
tâm quá độ. Không phải mãi đến sau ngày tan vỡ tôi mới nhận ra hay nhìn
thấy những điều gian dối, những âm mưu…
Bạn xưa,
Tôi
đã hiểu thêm ra, trong trọn một buổi sáng đến mãi xế chiều ngồi nghe
tâm sự anh bạn trẻ nơi quán cà phê khu chợ Maubert dưới trời đẹp Paris
một ngày hiếm hoi nắng ấm. Để cũng rưng rưng đôi dòng nước mắt cảm
thông, chia xẻ cùng người chiến hữu nỗi mênh mang thống hận của khối tâm
thành hiến dâng lầm lẫn. Tôi đã cùng anh cạn chén cà phê như chia nhau
uống lượng bồ hòn. Lòng tôi dào dạt cảm thương anh và yêu và quý phục
người cán bộ đấu tranh sáng ngời phẩm chất cùng tác phong cách mạng. Anh
cũng đã như tôi – trong một cần thiết và giới hạn nào đó – đồng tình
chấp nhận những tô vẽ, những giả tạo, dấu che hay thủ đoạn… Thế nhưng
bao sự kiện phơi bày khiến tôi tung toé trong lòng hàng trăm câu hỏi,
hàng ngàn nghi vấn, không cần vận dụng đến khả năng suy luận cũng tìm
thấy những trả lời làm tôi chao đảo. Tại sao Vụ trưởng Vụ Tiền lại dựng lên K-9 nắm quá nhiều quyền, vượt trên Tổng vụ? Nguôn: Fronline/ProPublica
Những
câu hỏi “Tại sao…?” Tại sao Hải quân Trung tá Nguyễn Hữu Trọng đã không
cùng “phái đoàn quốc nội” trở lại chiến khu mà dứt bỏ ông Minh ngay sau
ngày đại hội vinh quang để về Thụy sĩ? Tại sao làm nổi chuyện thiên
nan, đưa người hải ngoại về lập ra khu chiến, lực lượng to lớn tới mười
ngàn, mà phải nhờ – mà tôi từ khước – lấy đem về tiền yểm trợ đồng bào
Âu châu đóng góp, chỉ vì một lý do “Pháp không cho chuyển tiền vàng ra
ngoại quốc!” Những người con cháu nào của họ Hoàng Cơ nắn giữ khối tiền
đồng bào dành cho kháng chiến từ bao năm qua, phần riêng cháu giữ, không
gửi về ông cậu? Tại sao cả một toa xe chất đầy quà tặng gồm thuốc tây
trị giá của đồng bào bên Ý gửi kháng chiến quân, trực tiếp qua Bangkok
bị trả về bởi không ai tiếp nhận? Tại sao Vụ trưởng Vụ Tiền lại dựng lên
K-9 nắm quá nhiều quyền, vượt trên Tổng vụ? Lý do nào ông Hoàng Cơ Định
cố tình quanh quẩn dựng lên lớp rào trở ngại để thoái thác đưa người
tình nguyện về chiến đấu dù họ đã bằng lòng điều kiện phải xuất tiền tự
túc?
“Tiền
bạc đồng bào đóng góp bên này chúng ta nhìn thấy quả nhiều nhưng đối
với nhu cầu trong nội địa chỉ như muối đem bỏ biển. Dấn thân này đáng
quý nhưng bây giờ Mặt trận chua cần thiết một người với khả năng như
vậy. Về, chỉ thêm gánh nặng cho anh em.”
Tôi
chưng hửng và nhanh chóng hiểu ngay. Hiểu thêm một sự cười ra nước mắt,
rằng ông Vụ trưởng xuất thân từ trưởng giả, học trường tây, đến tuổi
được cho xuất ngoại tìm bằng cấp về ngồi cao trong bóng mát, chưa hề có
lấy một ngày khoác ba lô súng đạn, mang đôi giày lính đi vào nơi rừng
bụi sình lầy, sống lấy một ngày trong binh lửa quê hương… Thì làm sao rõ
được giá trị hiếm hoi của người lính bộ binh thám báo có trên mười năm
quân vụ? Bảo sao không đặt bày ra thứ Bản Tin như “Bản Tin Quốc Nội” ca
ngợi công lao phá địch của chị cầm đầu tổ phụ nữ và thiếu nhi kháng
chiến tại một làng ghi rõ địa danh thuộc tỉnh Tuy Hòa có chồng Thiếu tá
đang trong tù cải tạo. Thân danh ông Thiếu tá ở một làng quê, nếu sự này
có thật, thì quả tình giá trị bản tin là lời chỉ điểm cho Việt cộng bắt
người vợ đi tù không lầm lẫn!
Tôi
phập phồng chờ đợi… Nhưng có bao giờ ngờ được và đợi chờ giây phút ngẩn
ngơ chết lặng trước cơn đá nát vàng tan của cuộc biểu dương thô bạo
Tình-Nghĩa-Lý-Thông và hoảng kinh chứng kiến gã lang băm học làm thầy
thuốc cầm con dao cùn, bẩn, nhiễm trùng, vụng về cắt bỏ cái gọi là ung
nhọt trên phần yếu nhược của Đứa Con Kháng Chiến! Đứa con chung cưng quý
của bao người chắt chiu kỳ vọng đã trở thành hoại thể vì thứ lang chết
tiệt, thủy chung nhân nghĩa tài năng đều nhẹ hẩng nhưng túi tham thì quá
nặng.
Đọc
truyện xưa nói đến những cơn tức uất thổ ra từng ngụm máu rồi thét lên
chết ngất, tôi cho người kể chỉ đặt bày. Nhưng tôi, chính tôi đã quặn
cơn đau của tội-lỗi-người-làm-mà-ta-phải-chịu. Đã sôi hừng hực từng cơn
bi phẫn bốc tận đỉnh đầu, mồ hôi vã đổ, run rẩy và nghe được từng cơn
lại từng cơn nhộn nhạo nong nóng chảy râm ran trong bụng. Tôi đã đổ ra
từng lượng máu trong bao tử và giật mình kinh sợ. Tôi nhủ lòng mình, tôi
hãy quên tất cả, hãy coi như bất hạnh này là điều may mắn vì xảy ra quá
sớm và tham vọng xấu xa kia dầu sao cũng đã lộ bày cho người người rõ
mặt. Vợ tôi đã ứa ra những giọt nước mắt hiền lành thương tủi và thở dài
nhẫn nhịn khi nghe tin đổ vỡ. Nàng quá đỗi thương tôi, chỉ buông câu
hỏi sao anh nỡ dấu, không cho em biết sớm? Câu hỏi sẽ sàng nhưng tôi
nghe váng động và từng lượng máu lại râm ran đổ tràn trong bao tử. Trời
hỡi làm sao tôi nỡ xé tan hay vò nát nuột nà mảnh lụa niềm tin vợ tôi đã
dệt bằng thứ tơ óng đẹp và vô cùng bền chắc của tấc lòng đôn hậu gửi
trao cho kháng chiến? Tôi biết biện giải thế nào cùng tất cả những người
đã tín cẩn mến thương tôi, góp phần không tiếc không dè dặt như tôi đã
mến yêu tin cậy bạn, dơ tay xin nhập cuộc?
“Đây là những đồng tiền thẫm sũng mồ hôi khó nhọc của đời cầu thực tha phương.” Nguồn: Nắng Mới, số 25/7/1990, trang 18
Tôi
đã trải qua những giây phút bồi hồi, sướng vui phơi phới của kẻ đi reo
rắc niềm tin và đón nhận niềm tin từ những tâm hồn chân phác biết yêu
quý quê hương chung một cách. Tôi đã đi không biết mệt trên những đoạn
đường gai góc để vén thu góp nhặt từng mảnh tin yêu chắp lại làm nên sức
mạnh cho Mặt Trận và những đồng tiền cảm kích dưỡng nuôi hoa kháng
chiến nở tươi trong vườn hồng dân tộc. Những đồng tiền, cả vòng vàng
nhẫn cưới gửi trao cùng cầu mong tâm ước một mai kháng chiến công thành,
quê hương giải phóng… Đây là những đồng tiền thẫm sũng mồ hôi khó nhọc
của đời cầu thực tha phương. Tiền nhận từ bàn tay khô héo của bà mẹ già
nua sống buồn phiền lạc lõng nơi đồng đất nước người muốn mau chóng trở
về chết trong lòng đất quê nhà yêu dấu. Của em bé thơ ngây nhịn miếng
cơm chim mong về hưởng lại tình thương nội ngoại. Của con mong gặp lại
cha, vợ mong gặp lại chồng. Của những người sầu héo nhớ thương người,
bạn bè mong cứu bạn bè tù tội trong gông cùm cộng sản… Những đồng tiền
mồ hôi nước mắt đã mất oan khiên không ai đòi lại nhưng niềm tin tội
nghiệp bị phỉnh lừa phải coi như nợ và nợ này phải trả. Nợ truyền tử lưu
tôn, không trả đời này thì đời con, đời cháu. Ôi biết làm sao nói cho
cùng cạn nỗi mênh mang thống hận của kẻ cầm vàng tiếc uổng công lao, nửa
đường rơi mất?
“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng…”
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng…”
Biết
bao người cũng như tôi đã mất? Mà chao ơi lại mất quá nhiều. Tôi đã mất
bạn, và coi như mất, người lính Nhảy dù Lê Hồng của độ nào còn bôn ba
khắp nẻo chiến trường đỏ lửa quê hương. Tôi vẫn hằng ôm giữ hình ảnh
Trung tá Lê Hồng một buổi trưa nắng cháy trên bãi đậu phi trường Trảng
Lớn mịt mù bụi đỏ. Người sĩ quan trong bộ hoa dù chiến trận, đeo giây ba
chạc, lom khom trải tấm bản đồ trên mui chiếc jeep, thuyết trình cho tư
lệnh Lữ đoàn… Giờ này Lê Hồng đang ở nơi nào cùng vợ và con? Có bao giờ
gặp lại ông Bùi Đức Lạc và những anh em Nhảy dù “đánh thuê cho Mỹ”? Sao
ông Thi không nói? Sao ông Tuyển không nói Lê Hồng đang ở nơi đâu?
Bạn xưa,
Đã
mấy năm qua tôi bưng tai nhắm mắt, cố giữ mình mù điếc nhưng vẫn kinh
động bởi tiếng phèng la chập choẽ của đám người Vu-Hích-Kháng-Chiến làm
cuộc rước đèn ồn ào và khó chịu. Đám rước của những ông đồng bà bóng với
đầy đủ trống chiêng cờ quạt diễn ra dưới đường hầm tăm tối, mỗi người
cầm một bó đuốc dơ trước mặt, mê muội bước đi, miệng không ngớt hò reo
mừng rỡ đã trông thấy mặt trời chính nghĩa từ ánh lửa lù mù ngọn đuốc và
cứ thế đi quanh quẩn quẩn quanh rồi lại quẩn quanh quanh quẩn trong cái
đường hầm tăm tối. Tôi đã tình cờ được người nài ép phải xem cái gọi là
“Thông điệp” của ông Chủ tịch “gửi anh em chiến hữu” kỳ đại hội năm kia
ở Los, nội dung có hai điều chú ý:
XXXXX (hình K9 không hiển thị)
Báo Kháng Chiên” ông Chủ tịch lại đem con số mười ngàn quân nhảm nhí ấy nghiêm trang tuyên bố trong đại hội! Nguồn Mặt Trận HCM
Tôi
thương tội những người yêu nước thành tâm cho đến giờ phút này vẫn còn
hăm hở nhập bầy cùng đệ tử Tinh Tú phái, bước theo thầy mà chẳng rõ sẽ
về đâu trên con đường tà khuất, bảo sao nghe vậy, đi ngược hướng đi dân
tộc, kể cả bảo phải vui mừng nhảy múa trên nỗi đau thương tang tóc của
toàn dân, coi Tháng Tư Đen bi thảm là ngày “Quốc Khánh” để ăn mừng và
bày đặt đưa ra giải thưởng tặng Phan Nhật Nam đang hấp hối trong trại tù
Việt cộng. Hãy nhìn bìa sau cuốn sách in cưỡng đoạt tác quyền để thấy
ẩn ý rập khuôn trò tiểu xảo cộng sản đã trâng tráo bày ra trước mặt
người dân Saigon ở lại. Dân Saigon đã thờ ơ trước những ngày lễ lạc của
bạo quyền nhưng bảo nhau đổ xô ra đường phố trong những ngày lễ lớn thực
của mình như Giáng Sinh, Nguyên Đán, hoa đăng tấp nập như thời vàng đã
mất. Lũ gian manh đã lợi dụng dịp này để phô trương lường gạt người
ngoài, đem biểu ngữ căng trên các đường phố tưng bừng náo nhiệt Saigon.
Biểu ngữ “Mừng Kỷ Niệm Ngày Thành Lập Quân Đội Nhân Dân Anh Hùng” của
chúng thực sự đã qua cả tháng trước trong sự lạnh nhạt của dân chúng
miền Nam. Thành ra, nước Văn Lang không có ngày Tổ chết nhằm Tháng Tư
Đen để bầy con hiếu thảo ăn mừng – và không có một ngày lịch sử nào khác
nằm trong tháng Việt cộng tổ chức ăn mừng Đại Thắng Mùa Xuân – thì
người ta cũng phải đẻ ra một ngày, như ngày Cá Tháng Tư chẳng hạn, để
làm Ngày Quốc Khánh! Còn như cái phần thưởng cho Phan Nhật Nam đã khiến
nhiều người nóng mặt, hãy làm ơn nói dùm Mười Cúc thả ngay người tù khí
phách và cho đi đoàn tụ – để xem Nam phản ứng thế nào về cái giải thưởng
mỉa mai dơ dáng đó?
Có
một câu trong Cổ Ngữ, xem như gương soi tỏ dung nhan người lãnh tụ,
“Tâm có chính thì hành vi mới khỏi tà khúc. Chưa có người nào hành vi
phẩm hạnh không đoan chính mà họ có thể yêu nước được”! Những người anh
em không muốn nhận chân sự thật, đã dối lòng chỉ vì tự ái, vì muốn tỏ
bày rằng ta tranh đấu kiên trì, lập trường vững chãi, cao vợi tinh thần,
hay đã trúng phải thứ sinh tử phù âm độc của Thiên Sơn Đồng Mỗ? Những
người được vồn vã tuyên dương, tán tụng là thành phần cán bộ trẻ trung
có tinh thần cách mạng đấu tranh mới. Như Võ T., như Kh., như cô bé T.
Nh., tuổi trẻ, nhiệt thành và giàu năng lực, tôi đã hết sức yêu vì biết
nhìn ra bổn phận, náo nức muốn dự phần bởi chưa từng đóng góp máu xương
cho cuộc chiến đấu thảm sầu trên đất nước. Giờ đây những người em tôi
thương mến và đã dắt dìu, coi tôi như kẻ lạ – hay nói cho rõ ràng, như
họ đã được dạy cho định nghĩa rõ ràng – những người đã ly khai hay không
theo hoặc chống đối “Mặt Trận”, đều là những Việt gian, phản động! Ai
đã rập khuôn đường lối luyện người của cộng sản, đem những mầm dân tộc
tươi xanh đó đi nhuộm thành hung đỏ, nhét nhồi những giáo điều sắt máu
để biến họ thành những con thiêu thân cuồng tín, một chiều, vô tình
nghĩa, biết nói trơn tru những từ ngữ cách mạng, đấu tranh, hy sinh, yêu
nước và học thuộc lòng cái châm ngôn “cứu cánh biện minh phương tiện”
để hồn nhiên và hãnh diện trước tất cả những hành vi sai trái?
Họ
đã được dạy phải tôn vinh lãnh tụ như viên ngọc trân quý của cách mạng,
linh hồn của tổ chức, cần hết sức giữ gìn, “không thể hy sinh phí phạm
và vô ích như những Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Võ Đại Tôn… làm vỡ
đổ công trình cách mạng!” Đồng thời cũng học loanh quanh lý luận “Chủ
tịch Hoàng Cơ Minh cũng chỉ là một nhân sự trong Mặt Trận. Cá nhân không
đáng kể và có thể thay thế được. Nhưng lý tưởng cách mạng theo đuổi
cuộc đấu tranh cứu nước mới là tối thượng, phải duy trì và quyết tâm đi
tới…” Do đó tôi không lạ khi có đoàn viên nghe tin Hoàng Cơ Minh bị
chết, đã nhảy dựng lên hậm hực. Và tôi cũng chẳng ngạc nhiên nếu mai kia
cục diện Đông Duơng biến chuyển, Việt cộng bị áp lực phải thương thảo
với thành phần kháng chiến Việt Nam, sẽ chỉ nhìn nhận và đòi cho bằng
được MTQGTNGPVN vào bàn hội nghị, có hay không có Hoàng Cơ Minh cũng
chẳng phiền. Ngày đó tới, đoàn viên phải vô cùng hoan hỉ bởi Mặt trận
mình được Việt cộng xem là chính thống, nhưng tôi thì khiếp sợ cho cái
tương lai nhìn thấy hồn ma xưa – Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam – đội mồ
sống dậy!
Những
người cán bộ trẻ, thành phần cách mạng tươi mới đó, như Võ T., đã được
đài thọ vào tận chiến khu học tập, thấy mình quá đỗi trưởng thành, được
dạy cho ăn nói, tập tành những tác phong cách mạng, thuộc lòng chủ
trương và đường lối Mặt Trận vẽ tô ra, trở về làm việc toàn thời, được
trả tiền công tác, được đi đó đi đây, họp hành, diễn thuyết, được đặt
ngồi cao trên sân khấu cho mọi người vỗ tay, đề cao, tán tụng, hoan hô
vinh dự… Đến ai kia cũng còn đắm đuối thứ men say mê mẩn ấy, thì “giai
cấp trẻ” nào cưỡng nổi lòng không xao động trước những vinh quang to lớn
đặt vào tay? Làm sao Võ T. dám khước từ như tôi đã giữ mình tỉnh táo
khước từ những việc làm đồng loã, không bằng lòng can dự những mưu toan,
những liên quan tiền bạc, kinh tài, những đẩy đưa ngon ngọt bằng bạc
tiền và chức vụ khi còn trong K-9…?
Làm
sao Võ T. dám đưa tay gỡ bỏ cái vòng hoa mỹ lệ tròng quanh cổ để thành
tâm thú nhận về những cuốn băng Việt Nam Kháng Chiến sau này xuất xứ từ
đâu? Tôi nghĩ bạn là người phải biết rõ hơn tôi về số phần non yểu của
cái đài phát thanh thuê mượn ấy. Cái phương tiện có thì quý hoá, không
thì cũng chẳng ai kỳ kèo đòi hỏi cho bằng được. Đồng bào chỉ cần thấy
thực tâm, thấy cố sức làm và làm chuyện thật. Việc gì phải đôn đáo gọi
tôi nhờ cậy làm dùm những cuộn băng kháng chiến, “Làm trọn mỗi kỳ từ A
đến Z để anh em bên ấy chỉ việc cho vào máy phát. Anh em mình không ai
có khả năng viết lách cùng kỹ thuật dựng một chương trình. Lại thêm vấn
đề sinh tử là địch lùng tìm, anh em phải di chuyển luôn luôn, một ngày
phát thanh được vài mươi phút cũng là một kỳ công đáng kể…”
Tôi
từ chối. Từ cái ngày nào xa lúc lắc, mà mãi tới bây giờ người ta vẫn
rao lên, vẫn ăn mừng ngày thành lập được ba năm, rồi được năm năm đài
Phát thanh Việt Nam Kháng Chiến, “phát thanh đều đặn và liên tục không
một ngày ngưng nghỉ. Ngày phát 8 lần, mỗi lần một tiếng với bài viết dài
25 trang giấy” và đưa ra những con số gớm ghê chính xác tính ra bao
nhiêu ngày, bao nhiêu giờ, bao nhiêu phút và bao nhiêu triệu chữ trên
bao nhiêu dặm dài giấy viết! Tôi thực thà khâm phục những con người
kháng chiến toàn năng đã làm nên những việc phi thường trong những điều
kiện cực cùng vất vả và khăn khó. Còn tôi, phải thú thật rằng mặc dầu ở
trên đất Mỹ dồi dào phương tiện, có khả năng, đã từng thực hiện những
chương trình phát thanh tiếng Việt tại địa phương mỗi tuần lễ một lần,
mỗi lần chỉ một giờ thôi, không một tên Việt cộng nào lùng bắt, thế mà
cũng không sao giữ được cho Tiếng Nói Việt Nam phát thanh đều đặn và
liên tục…
Bạn
xưa ơi, tôi thật quả có mừng vì đã không ở lại nhận phần chia cháo lú
trộn với đường ngon mật ngọt đưa lên miệng sì sụp khen ngon cùng đám
người Vu-Hích. Tôi coi lời thoá mạ cái “dư luận vô tư cách” mà ông Hoàng
Cơ Minh khinh mạn nhắm vào tuyệt đại đa số người Quốc gia đầy lòng độ
lượng, như tiếng la rồ dại của kẻ cầm đầu đám rước quanh quẩn rồi lại
quẩn quanh đi mãi dưới đường hầm tăm tối. Tôi hiểu được cái tâm trạng
nao núng tuyệt vọng của một con người xa đồng loại, tự mình đánh mất tự
do cao quý của mình, không dám thảnh thơi đi lại, thong dong hít thở khí
trời trong mát, đã hoảng kinh kích thích khi nghe tiếng người cười nói
bên ngoài mà mình không thấy lối ra nhập cuộc, điên cuồng thoá mạ để
nghe chính tiếng mình cho được an tâm trước cái hoang vu rùng rợn của kẻ
sợ ma đi lạc giữa vùng mộ địa.
Bạn xưa,
Bây
giờ đã sắp mùa Xuân, lại thêm một Tết tủi buồn đời lưu lạc. Tôi ngồi
chiêu niệm quê hương và buồn ủ dột nghĩ đến dặm đường thăm thẳm đưa ta
về quê cũ. Tôi nhớ những ngày xưa. Nhớ anh em, người thân, bằng hữu. Nhớ
những cánh chim ta đã họp đoàn. Những ngày óng ả Nha Trang bạn dắt dìu
tôi bay tập… Tự nhiên tôi nhớ bạn lao đao cùng tất cả những gì mình có
cùng nhau trên mảnh quê xưa mù mù khuất nẻo. Và tôi dạt dào ao ước một
ngày ta gặp lại nhau trong tay bắt mặt mừng bằng tình cũ nghĩa xưa đẹp
đẽ chắc còn đủ lượng cho ta đừng thấy ngỡ ngàng xem nhau như kẻ lạ. Tôi
thiết tha nhớ và mong gặp bạn. Chúng ta sẽ ngồi đối diện nhau cho tôi
được dịp nhìn sâu vào mắt bạn. Và bạn sẽ nói một lời đầm ấm nhưng là lời
thầm lặng không phải nói cùng tôi. Mà nói với lương tâm bạn bằng lời
trong trắng. Nói thật thà với các anh em mình chết cho đất nước. Như
Vượng, như Sinh, như Cung, như Tích… Nói nghiêm trang cùng những bạn
chúng mình đang tù ngục thảm thương vẫn hao mòn ngóng đợi anh em về giải
phóng. Nói hết sức thành tâm cùng những linh hồn u uất của anh em đã
trở về và chết hẩm hiu nơi đất nước người như cái chết của Phùng Tấn
Hiệp, của Đại tá Tư. Nói một lời lương thiện với Ngô Chí Dũng, với Trần
Thiện Khải, với những anh em bị bỏ rơi phũ phàng trên đất Thái.
Và
nếu như tình nghĩa anh em, bạn bè, đồng đội không làm bạn quan hoài,
thì bạn ơi hãy thì thầm mà nói lời riêng dốc cạn tình phu phụ cùng vợ và
con yêu dấu đầy thương tội đã vùi thân nơi biển cả trên bước đường khổ
nạn kiếm tìm chồng, tìm kiếm tự do. Bạn hãy thiết tha, thành khẩn, trang
nghiêm như bạn đã thề nguyền cùng đất nước, với tất cả thiêng liêng
trong sâu thẳm đáy lòng, rằng bạn thật tâm kháng chiến, bạn không biết
dối lừa và đồng loã dối lừa. Kháng chiến này có thực.
Đào Vũ Anh Hùng
(*) Vu-Hích: Bọn đồng cốt đàn ông và đàn bà thời cổ đại Trung hoa, dựa vào sự mê tín dị đoan của dân gian để gieo rắc những tà thuyết và tà thuật gây rối loạn, làm xáo trộn xã hội. Bọn này lộng hành khắp nơi, xúi dục tạo loạn. Sau triều đình phải dùng quan binh đánh dẹp mới yên lũ giặc.
0 comments:
Post a Comment