Chuyện Biển Đông thành chuyện biển động, thật ra không lạ và cũng
không phải đến hôm nay mới có. Trái lại đã có từ thời Việt Nam lập quốc.
Tuy nhiên, mỗi thời có một cách động khác nhau. Vào thời Đức Ngô Quyền,
Trần Hưng Đạo, sóng vươn từ dòng Bạch Đằng đã làm rúng động cả biển
đông vì ở đó đã lấp ngập xác quân nhà Tống, Hán. Đến thời đức Quang
Trung, chỉ một lần Ngài chuyển binh qua sông Hồng, sóng vỡ Biển Đông để
Tôn Sĩ Nghị vỡ mật mà đề đốc Hứa Thế Hành tử trận, Sầm Nghi Đống treo cổ
tự vẫn.
Trải qua thời lặng sóng, máu và nước mắt người dân Việt lại tràn Biển
Đông khi Tàu cộng đưa chiến thuyền xuôi nam theo điềm chỉ của Việt cộng.
Lực tuy bất tòng tâm, Thiếu tá Ngụy Văn Thà và đoàn chiến binh miền Nam
đã lấy máu hồng viết trang sử nối tiếp của nhà Nam. Trong khi đó, vào
cùng ngày 17-1-1975, toàn bộ nhà nước và đoàn đảng viên, cán bộ Việt
gian cộng sản từ miền bắc, từ bưng biền đã reo hò mừng rỡ khi quân Tàu
cộng chiếm được Hoàng Sa từ trong tay của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ
reo mừng chung vui với TC vì bản công hàm do Phạm Văn Đồng, bí mật ký
giao bán chủ quyền Trương Sa và Hoàng Sa là máu thịt, đất đai của Việt
Nam cho Tàu cộng vào ngày 19-8-1958, mãi đến nay mới có cơ hội thực
hiện. Từ đó, đau thương luôn tràn xuống trên biển khổ, không vơi cạn.
Khởi đầu là chuyện người dân Việt chạy trốn những vùng đất vừa bị cộng
sản chiếm đóng từ Cao Nguyên đến Đông Hà, Quảng Trị, Đà Nẵng, Cam Ranh…
những tưởng gồng gánh, bế bồng con cháu ra đi là sẻ đến được bến bờ tự
do như chuyện người bắc di cư vào nam năm 1954. Ai ngờ, tàu về Nam chưa
cập bến, người đi chưa hết âu lo, hàng ngàn, hàng vạn đạn pháo của Việt
gian cộng sản đã ầm ầm “Thế Ma Gọi Hồn”. Sau trận mưa pháo, chen lấn
giữa tiếng khóc nghẹn trong đau thương xé lòng của cha già mất con, vợ
mất chồng rồi thân nhân... đi không áo quan, là những tiếng cười man rợ
rít qua khe hở của những hàm răng hô, lởm chởm như bồ cào trên khuôn mặt
gầy trơ xương của lớp người rừng mới tới. Tiếng cười rợn lạnh chưa dứt,
biển động mạnh, những cơn sóng đỏ vươn cao đem theo những thân xác
ngươi miền nam không toàn thây nhấp nhô đùa với sóng. Rồi sóng vỗ tạt
vào bờ là những em bé mất đầu, cụt chân tay vì mã tấu dép râu, tạo nên
một cảnh kinh hoàng chưa từng thấy bên bờ cát hiền hòa ở miền nam. Quả
thật, cuộc chiến “ta đánh chiếm miền nam là đánh cho Trung cộng, Liên
xô” (Lê Duẩn) do CS thực hiện, nên cũng có những công đoạn khác thường.
Tuy thế, câu chuyện chưa dừng ở đó.
Sau ngày 30-4-1975, ngày màu cờ Vàng của Tổ Quốc khuất bóng trên sông
nước Việt, những cơn đau ập đến không phải chỉ dành cho người, mà đá
cũng nhỏ lệ, tang thương. Bởi vì, dưới màu cờ đỏ Phúc Kiến lơ láo là
Biển Đông của nhà Nam chưa lúc nào yên. Hàng triệu đồng bào phải bỏ nước
ra đi. Sóng cao gió lớn kia đã vùi lấp bao nhiêu mạng người vào lòng
biển khổ? Rồi bao nhiêu thân xác em bé trơ mình trên bãi cạn? Phần nội
địa, đến cây cỏ cũng không ngừng bị dẫm đạp, tàn phá bởi gót chân của kẻ
thù từ phương bắc.
Trước tiên là cuộc tràn bờ biên giới vào năm 1979. Đây phải được kể là
một mối nguy báo trước. Tuy nhiên, tập đoàn bán nước này như không có
mắt. Hàng chục ngàn người lính chiến đã chết oan khiên, chúng vẫn thi
nhau ngủ vùi trong u mê, tìm hoan lạc trong làn thuốc độc từ phương bắc
để níu kéo, giữ lấy cái đảng cộng bất lương. Bất lương vì trong lúc
chiến binh Việt Nam đi giữ biên cương, người chết không có chỗ chôn
thây. Kẻ sống thì lê lếch “đầu đường đại tá vá (lốp) xe, cuối thôn thiếu
tá cụt, què xin ăn”, thì hàng quan cán lãnh đạo của nhà nước VC lại thi
nhau lập công dâng đất, bỏ tiền xây đài, dựng tượng làm nghĩa trang
hoành tráng cho “liệt sĩ” Trung cộng ngay trên đất nước mình. Đã thế,
còn chia phiên nhau giữ phận cúng tế hương khói đủ bốn mùa.
Với cái tài quỳ lạy đó, việc có 64 người con biên phòng Việt Nam giữ đảo
Gạc Ma bị chết tức tưởi với cái lệnh cấm nổ súng của những “thiên tài
mù” theo gót Hồ chí Minh như Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng, Nguyễn
Văn Linh... vào tháng 3-1988 là điều buộc phải đến. Có khóc, có thương
là khóc thương cho người chiến binh Việt Nam đã sinh ra trong thời cộng
sản! Binh lính là thế, nói chi đến phận dân đen. Tàu thuyền ra khơi theo
con nước tầm sinh nhai, chẳng mấy ngày không có máu đổ lệ rơi vì hải
tặc bắc phương. Bạn tôi bảo: Xem ra, trong thời Việt cộng, máu xương
người dân Việt quá rẻ, nên chỉ được dùng để lót đường cho cán cộng vui
mùa đục nước, lập công dâng Mãn thôi!
Ở một chiều khác, có người ví von cho rằng câu chuyện biển đông là rất
lớn với dân ta, với người yêu dân nước Việt, nhưng với đôi mắt của một
con chuột đói, đã bị con mèo hoang vờn cho nhừ tử, đang nằm thoi thóp
trong vòng tay của nó trên cái sân kia thì cũng chẳng có ý nghĩa gì. Bởi
vì, dù nó mở mắt ra hay khép lại thì cũng chỉ thấy một mảnh trời không
sáng! Nên chúng phải chọn giải pháp. “Nó” để cho sống ngày nào thì im
mồm đi mà sống cho qua ngày đó! Nếu được “nó” cho bám vào mà kiếm ăn thì
bám cho chặt, kẻo thằng khác nó dành mất chỗ. Khi ấy, đã chẳng được gì,
mà cái mạng cũng khó giữ! Theo đó, chuyện bám vào TC, thành một triết
lý của nhà Chuột! Lạ! Nói lạ!
Lạ gì? Bạn không tin ư? Hãy nhìn con chuột nhắt ướt sũng nước đang co ro
trong vòng tay của con mèo trước sân kia, bạn sẽ thấy được toàn cảnh bĩ
cực không ngày thái lai của nó. Này nhá, sau cơn mê hoảng, nó bàng
hoàng mở mắt ra. Đôi mắt của con chuột sắp chết chẳng thấy gì ngoài cảnh
trời đất quay cuồng. Khi trước nó đã thề không cha, không mẹ, không bạn
bè, không người thân, chỉ có đông chí theo lời đảng, lời “bác”. Nay
nhìn đâu cũng ra kẻ thù. Thấy gió lay cành lá lại tưởng là những oan hồn
đến đòi nợ. Nghe tiếng động nhỏ mà ngỡ là giáo mác của đồng chí đến trả
thù hay xin tý huyết của vợ con. Mở mắt ra trời vẫn tối, nhắm lại càng
thêm đen. Muốn nhấc cánh tay lên cho đỡ mỏi, đưa lên không nổi. Muốn
trợn mắt, há mồm ra thét dọa, ta còn sống, ta còn quyền lực đây, cũng
đều bị chúng nhìn khinh bạc, mỉa mai. Không bám lạy “nó” là chết, phải
chết! Nó biết thân làm nô lệ còn khốn nạn hơn là chết, mà không dám
chết!
Lỡ có lần nó lén nghểnh cổ nhìn ra ngoài nắng, xa xa như có cánh phượng
hoàng bay lượn giữa trời, hay thấy con chó kiểu thông thả vô tư lự đi
lại trên sân làm nó thèm. Máu chuột nổi lên. Trong cơn uất, nó hít lấy
một làn hơi mạnh rồi chụm bốn chân lại, cố rướn cái thân mềm nhũn lên
khỏi mặt đất. Phen này tao nhất định bỏ đảng, bỏ Tàu. Chết cũng bỏ! Hỡi
ơi, cái đầu nó nặng làm sao! Kế đến là toàn thân ê ẩm với ánh mắt thất
thần, và cõi lòng hoảng loạn. Chợt, có tiếng meo meo, nó run rẩy, qùy
phục xuống theo cái thân phận nhà Chuột, làm Chuột. Một đời lấp ló trong
hang, chui rúc trong bóng tối, rình rập kiếm sống, nay chỉ vì dăm ba
hột gạo mà giờ thân tàn ma dại trong vòng tay của con mèo ác độc. Sống
không ra sống, chết không chết. Nó hận nó? Nó hận kiếp chuột?
Trong toan tính, nó ngửa mặt lên. Không thấy nắng, chỉ thấy cái cổ con
mèo hoang đè gần xát mặt và cái đầu của nó che lấp khung trời. Vỡ mật, ý
chí của loài chuột tiêu tán. Nó xoay mặt vào trong, trời tối như mực,
ngay cái màu của con mèo hoang nó cũng không nhận ra được. Cố trở mình,
lén nhìn ra ngoài lần nữa. Lạ, sáng ở đâu tràn vào đây? Nó chợt hiểu, đó
là chút sáng từ bên ngoài hắt vào theo khe hở giữa khoảng cách từ cái
đầu của con mèo đang nằm rửa mặt, đến cái cánh tay của nó vươn dài như
dãi núi sải ra trước mặt. Với khoảng cách nhỏ bé này, làm sao nó có thể
thoát ra ngoài cái bóng cao nhớn kia? Nó ngao ngán với chính nó, một kẻ
vẫn tự hào là có tay nghề xảo trá và tồi bại nhất trên đời, nay xem ra
không tìm được phương cách để lừa con mèo cho nó ra ngoài dạo chơi vài
phút! Cùng khổ, nó đánh rơi thân xác trở lại, nằm co dúm thân hình trên
mặt đất, bất động.
Thế đấy, nó nhắm nghiền đôi mắt lại. Nó nghĩ đến con đường hầm Củ Chi
hoang tưởng lừa dối xưa kia. Nó muốn giả chết để tìm cách đào ngạch chui
ra ngoài. Nó ước được ngắm nhìn, được đến gần đàn chó kiểu. Nó ước được
nhìn thấy cánh chim giang rộng giữa trời. Nó hăm hở nghĩ tới con đường
hầm. Khốn nạn chưa, khi vừa nghĩ đến chuyện đào hầm tìm lối thoát, nó
lại rơi vào tuyệt vọng. Bởi, nó mà đào đường hầm ở dưới cánh tay kia để
đi ra ngoài, là nguy. Đại nguy! Hầm đào chưa xong, đã sập. Hầm bị xập,
một phần vì sức nặng từ cánh tay con mèo đè xuống, phần vì cái thói tráo
trở chuyên làm cột chống bằng xi măng cốt chuối của nó! Ấy là chưa kể
đến chuyện cái tai con mèo rất thính. Chưa đào hầm nó đã biết trước ngày
khởi công. Nếu thế là chết không toàn thây. Kế đào hầm không có ánh
sáng, nó run rẩy, sợ hãi, nằm gục mặt xuống nghĩ quẩn đến cái chết của
vợ con nó. Thôi, đã vậy, nó chấp nhận nằm chờ từng cái vả mạnh, nhẹ, của
con mèo để có được miếng ăn mà sống, còn hơn là nghĩ đến việc bỏ bám,
trốn đi!
- Chuyện bi đát như thế ư?
- Tôi sợ còn tệ hơn thế!
Thật vậy, đây là bức tranh toàn cảnh của họ nhà Chuột đối với chuyện
biển đông của Việt Nam. Nghĩa là tất cả mọi cấp, dù là chuột cống, chuột
chù, chuột hôi, chuột nhắt, chuột đồng, chuột bố, chuột con... thảy đều
có đôi mắt giống nhau. Vô trách nhiệm, lấp ló, thập thò trong cái hang
để kiếm sống, không một kẻ nào trong chúng có trách nhiệm với hai chữ
Việt Nam. Theo đó, con nào lên cũng nhìn sự việc bằng đôi mắt chuột và
tính toán bằng bấy nhiêu lý lẽ để hại người, tìm sống cho mình. Nó không
thể nào có đôi mắt của người có nhân bản, có hiểu biết trong xử thế để
nói chuyện về Biển Đông, về Việt Nam.
Nếu bảo rằng tôi viết theo kiểu “mục nhĩ vô nhân” và đầy khinh mạn với
tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh thì tôi cũng xin trả lời thật. Không chỉ
riêng tôi, nhưng người Việt Nam đều có đánh giá như thế. Tuy nhiên, tôi
dám thách đố tập đoàn này, hay ai đó chứng minh được cái nhìn của tôi về
họ là sai, là nặng thành kiến. Hoặc giả, tôi thách đố bản thân họ chứng
minh được bằng những phản chứng qua cách nhìn, cách hiểu biết và thực
tế trong hành động để thoát ra ngoài vòng tay mèo hoang như Myanmar. Khi
đó, tôi sẵn sàng đính chính. Ở trường hợp ngược lại, nếu như họ không
thể chứng minh bằng lý lẽ thiện hảo và nhân bản, thì dù ngôn từ có xuất
phát từ bất cứ cấp bậc, vị thế nào, miệng lưỡi nào thì đó cũng chi là
câu chuyện chuột đục, khoét thúng gạo! Bởi lẽ, chẳng ai xa lạ gì với
cộng sản. Nếu họ không biết bỏ đi đôi mắt ti tiện, kém cỏi, vô văn hóa
của đảng CS, rồi học tìm lại đôi mắt của người và cái tâm nhân bản thì
làm nô lệ đã khó, nói chi đến chuyện giữ lặng sóng biển Đông!
Thật vậy, những hoạt cảnh của biển Đông hôm nay như chuyện Mỹ cho tàu
thuyền vào thám thính một vài hòn đảo bồi đắp của Tàu cộng ở Hoàng Sa,
cũng chỉ là chuyện bình thường. Nó hoàn toàn không phải là vì Việt Nam,
nhưng vì quyền lợi đích thực của Hoa Kỳ. Quyền lợi này tựa trên hai
điểm. Trước hết là Hoa Kỳ phải đắp đập be bờ, tạo niềm tin với các nước
Asian (sau khi bỏ chạy 1975) để củng cố thế lực và thu lợi nhuận về sau,
nếu không Tàu cộng sẽ tận thu hết lợi nhuận trong khu vực này. Kế đến
là chuyện Trung Đông đã qúa mệt mỏi mà xem ra mức lợi nhuận khó tăng, nó
như cái gân gà, bỏ thì tiếc, có gặm thêm thì cũng chỉ có thể thu lợi
như hôm nay đã là nhiều, khó có cơ hội kiếm thêm. Trong khi đó miếng ăn
của Á châu xem ra rất ngọt!
Tuy thế, việc đến gần các đảo nhân tạo kia không phải là việc liều lĩnh
thách đố quyền lực với Tàu cộng, lại càng không cần đến cái chuyện “có
phép” hay “đi đêm” với Việt cộng. Nó chỉ đơn giản là sử dụng hữu hiệu
quyền hạn của một thành viên đã ký tên trong luật biển năm 1982 để bảo
vệ an ninh hàng hải cho quốc gia của mình. Bởi lẽ, đã có nhiều chứng cứ,
nhiều chuyên viên về biển đã khẳng định việc nhân tạo, xây dựng tại các
bãi, đá ở biển Đông của Tàu cộng là vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc
tế. Nó đang làm suy yếu tính pháp lý của Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển năm 1982. Nó cũng đe dọa hủy hoại tài nguyên, môi trường sinh
thái biển và gây ra những hệ lụy nguy hiểm đối với hòa bình, ổn định, an
ninh, an toàn hàng hải.
Theo nguyên tắc, Tàu cộng cũng phải tuân thủ và bảo vệ công ước này.
Nhưng thay vì bảo vệ, TC đã bất chấp luật lệ về tái tạo, bồi lấp mặt
bằng trên biển để chiếm cứ. Trước những hành động này của TC, bất cứ một
thành viên nào đã ký tên vào luật biển cũng đều có tư cách đến xem xét,
thu thập tài liệu hình ảnh để đưa vụ việc ra tài phán quốc tế. Hoa Kỳ
không là ngoại lệ. Dựa vào lý do an ninh hàng hải, họ đương nhiên có
quyền đi đến để quan sát những điểm mà họ cho là quan ngại. Nếu có kéo
cả đống tầu bè vào mà không có mưu đồ gây hấn, chiếm cứ thì chẳng có gì
là trái với công ước. Dĩ nhiên, cũng chẳng có chuyện đánh trả “sẽ đánh
vùi dập” nó xuống đáy biển, hoặc phải “xin phép” Việt cộng. Bởi lẽ, chỉ
cần một cái Tàu của Mỹ bị “tự nổ” và chìm xuống thì Tàu cộng sẽ bị cả
thế giới tấn công chứ chẳng riêng gì một mình Hoa Kỳ. Nên chuyện Mỹ đến
và đi chỉ là việc biểu lộ khả năng sử dụng quyền hạn của một thành viên
của luật biển mà thôi. Chuyến đi là vì minh nhưng lại cũng được tiếng là
vì người!
Đại ý, chuyện Biển Đông hiện đang diễn ra như thế, cũng chẳng có gì đáng
gọi là qúa phức tạp. Tuy nhiên, Việt Nam, nếu biết nhìn sẽ là người
hưởng lợi nhiều nhất trong cuộc tranh chấp này. Lợi dụng anh hùng tính
của Hoa Kỳ và thế giới để tống cổ Tàu cộng ra khỏi biển đông và Việt
Nam. Có thể nói đây là cơ hội tốt nhất cho Việt Nam thoát cảnh nô lệ
phương bắc. Nhưng xem ra ngoài vị thế của Việt Nam Cộng Hòa, những đôi
mắt “đảng chuột” sẽ không bao giờ có khả năng nhìn thấy và làm nổi
chuyện này. Tại sao”
Trước hết, bản công hàm do Phạm Văn Đồng ký vào ngày 19-8-1958 là bản án
tử hình, hay ít ra là cái thòng lọng đã buộc chặt vào cổ của Việt cộng
mà người cầm đầu giây là Tàu cộng. Việt cộng không có bất cứ một khả
năng nào để có thể có được một bản văn đồng cấp để tiêu hủy, hay vô hiệu
hóa giá trị bản công hàm của Phạm Văn Đồng. Tại sao? Chuột nào cũng là
chuột, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ Nguyên
Giáp... đã là những kẻ nô tài của Tàu, mở ra con đường phản dân hại
nước. Theo đó, những kẻ đi sau, ngoài phương cách cúi sâu, qùy lâu hơn
trước quan thầy Bắc Kinh để được hưởng ơn mưa móc thì không có một
phương cách nào khác. Theo đó, người Việt Nam muốn cứu quê hương thì
đừng trông chờ bất cứ điều gì từ thành phần này. Bởi lẽ, cho đến nay,
không một kẻ nào trong hàng ngũ này có nổi cái nhìn của Thein Sein của
Myanmar, nói chi đến Boris Yelsin.
Trong khi đó, vị thế của Việt Nam Cộng Hòa tiếp nối với những tên tuổi
như Dương Nguyệt Ánh, Lương xuân Việt, Lê Bá Hùng... lại hoàn toàn khác
và đứng ở trên đỉnh cao thắng lợi. Nghĩa là, vị thế của Việt Nam Cộng
Hòa có đủ tư cánh, năng tính trên trường Quốc Tế để phủ nhận hoàn toàn
giá trị của bản văn này. Lý do, vào thời gian Phạm văn Đồng ký bản công
hàm, chủ quyền và việc thi hành nền hành chánh toàn diện trên những quần
đảo này hoàn toàn nằm trong nền hành chánh và cai trị của Việt Nam Cộng
Hòa theo hiệp định Geneve 1954. Từ đó, có thừa khả năng chứng minh Phạm
Văn Đồng ký bán cái không có, bán cái đồ vật của nhà người khác, không
thuộc quyền sở hữu của mình. Và phủ nhận luôn khả năng chiếm hữu hay
được thủ đắc của đối tác. Bởi vì đối tác của bản văn đã biết rõ đó là đồ
gian, đồ ăn cắp hay là tài vật của người khác. Đối chiếu, lịch sử Việt
Nam cũng đã có một tiền lệ như thế. Đức Ngô Quyền chém Kiều công Tiễn
trước khi làm sóng nổi trên Bạch Đằng Giang để diệt quân Nam Hán! Đây
xem ra là một hướng đi duy nhất và phải đến!
Riêng việc Tàu cộng cho rằng nó thuộc về Tàu từ thời “bành tổ” thì chỉ
là câu chuyện của ruồi bu. Bởi lẽ, gần nhất là hội nghị San Francisco
ngày 7/9/1951, Hội nghị đã tách riêng Đài Loan, Bành Hồ và hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa thành hai khoản riêng biệt (b, f) khẳng định không
công nhận chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Tàu
cộng. Trong khi đó, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu đã ra
tuyên bố xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa trước 51 phái đoàn ngoại giao của các nước thành viên Liên
hiệp quốc. Ông nói: “để dập tắt những mầm mống bất hòa, chúng tôi
khẳng định chủ quyền của chúng tôi trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực Việt Nam.” Lời tuyên bố đó đã
được Hội nghị San Francisco ghi vào biên bản và trong tất cả 51 phái
đoàn tham dự hội nghị, không có một phái đoàn nào phản đối thể hiện bằng
văn bản. Mới mấy chục năm trước đây, Tàu cộng còn không dám nói nửa lời
trước hội nghị. TC phải cậy nhờ Kossigin của Nga bảo trợ, nói giúp. Kết
quả bỏ phiếu của hội nghị đã là một bằng chứng rõ ràng, còn tranh cãi
vào đâu.
Theo đó, muốn giải quyết toàn bộ chuyện Biển Đông, Việt Nam buộc phải
giải tán chế độ nô lệ của cộng sản tại đây. Sau đó, lập lại thể chế Cộng
Hòa. Từ đây chính phủ mới sẽ có đủ tư cách pháp lý để đưa chuyện Biển
Đông vào cuộc tài phán của Quốc tế. Từ giải pháp này, chúng ta mới khả
dĩ tìm được tiếng nói, lấy lại những gì đã mất cũng như đủ thẩm quyền để
xóa bỏ mọi hiệp ước bất tương xứng về biên giới, vịnh bắc bộ, chuyện
thuê biển, rừng đầu nguồn hay xét lại tất cả các dự thầu, mà chế độ nô
lệ Việt cộng đã ký với Trung cộng. Nếu không có thay đổi toàn diện này,
chuyện biển đông chỉ là chuyện đầu môi, và Việt Nam không chỉ mất Trường
Sa, Hoàng Sa Nam Quan, Bản Giốc, Lão Sơn, Tục Lãm, vịnh Bắc Bộ vì
tình... đồng chí! Nhưng còn là cả giang sơn nữa!
11-2015
0 comments:
Post a Comment