Monday, September 12, 2011

Việt Nam, một chế độ bưng bít thông tin.

Tất cả đều bị kiểm duyệt buộc theo lề phải.














Trúc Giang MN

1* Nhà nước bưng bít thông tin

Điều 2 của Hiến pháp Việt Cộng năm 1992 có ghi: “Nhà nước CHXHCN/VN là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…”

Điều 53 của hiến pháp ghi rõ như sau: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội…”

Điều 69: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; “có quyền được thông tin”; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình…”

Nhân dân làm chủ đất nước thế mà nhà nước luôn luôn bưng bít thông tin đối với người dân, nhất là trong các vấn đề trọng đại có liên quan đến vận mạng của dân tộc và sự sinh tồn của đất nước.

2* Trí thức Hà Nội yêu cầu Bộ Ngoại giao cung cấp thông tin

Sáng ngày 2-7-2011, luật sư Trần Vũ Hải thay mặt giới nhân sĩ, trí thức, đem trực tiếp đến Bộ Ngoại giao Kiến Nghị, yêu cầu cung cấp thông tin có liên quan đến quan hệ với Trung Cộng.

Kiến nghị đề ngày 2-7-2011 gồm 3 điểm, được 18 nhân sĩ ký tên, gồm có: Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Huệ Chi, Hoàng Tụy, Chu Hảo, Phạm Duy Hiển, Lê Hiếu Đằng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang A, Ngô Đức Thọ, Trần Nhương, Nguyễn Xuân Diện, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Quang Thạch, Cao Thị Vũ Hương, Trần Vũ Hải, Trần Kim Anh, Hoàng Hồng Cẩm, Nguyễn Văn Phương.

Trong 18 nhân sĩ có 7 người là Giáo sư Đại học, 1 Thiếu tướng, 1 Chủ tịch Hội Nhà Văn, 2 Luật sư.

Trích Kiến Nghị:

“Chúng tôi, những công dân VN, ký tên dưới đây, căn cứ vào điều 53 Hiến pháp 1992, “Công dân có quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị cơ quan nhà nước…”

Căn cứ điều 69. “Công dân có quyền được thông tin…”

“Chúng tôi kiến nghị Bộ Ngoại giao như sau:

a) Yêu cầu ông Hồ Xuân Sơn cho biết, thông tin do Tân Hoa Xã đưa ra ở mục 2 (i) và 2 (ii) có đúng sự thật hay không?

Trích mục 2 (i):

“Cả hai nước đều phản đối những thế lực bên ngoài can dự vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam, và nguyện sẽ tích cực hướng dẫn công luận và ngăn chặn những lời bình luận hoặc hành động làm tổn hại đến tình hữu nghị và sự tin cậy giữa nhân dân hai nước”

Trích mục 2 (ii) mà Hồ Xuân Sơn đã nhất trí và đồng thuận với Trung Cộng:

“Những hồ sơ lịch sử của TQ cho thấy rằng năm 1958 chính phủ TQ đã khẳng định các hòn đảo trên biển Hoa Nam là những bộ phận thuộc về lãnh thổ quốc gia của TQ, và kế đó, thủ tướng VN Phạm Văn Đồng đã bày tỏ sự tán đồng trong bức thư ngoại giao của mình, gởi cho thủ tướng khi đó là ông Chu Ân Lai” (Hết trích)

Các trí thức Hà Nội nêu thắc mắc:

“Những thông tin trên chúng tôi không thấy đăng trên báo chí Việt Nam.

Yêu cầu ông Hồ Xuân Sơn cho biết, những thông tin của Tân Hoa Xã nêu trên có đúng sự thật hay không?

Yêu cầu cho công khai nội dung bản thoả thuận mà ông Hồ Xuân Sơn đã ký với người đối nhiệm phía Trung Quốc”.(Hết trích)

Bộ Ngoại giao VN đã tránh né và lờ đi bản Kiến Nghị của 18 nhân sĩ Hà Nội. Tiếp tục bưng bít.

Căn cứ vào nội dung mà Tân Hoa Xã công bố, thì Hồ Xuân Sơn, đặc phái viên của lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN đã nhất trí đồng thuận 3 điểm sau đây:

1. Đồng thuận giải quyết tranh chấp song phương về Biển Đông

2. Đồng thuận thi hành “định hướng dư luận”, cấm biểu tình chống TC.

3. Đồng thuận công nhận công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, cụ thể là công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Cộng.

Trí thức Hà Nội đã hiểu biết nội dung của việc “đồng thuận” là như thế nào, cho nên đã kiến nghị phản đối, không chỉ phản đối Bộ Ngoại giao, mà còn phản đối Đảng và nhà nước CSVN nữa, bởi vì, Hồ Xuân Sơn đã đại diện cho lãnh đạo đảng và nhà nước, chớ không chỉ là một thứ trưởng bình thường khi đi sứ sang Tàu ngày 25-6-2011.

3* Hồ Xuân Sơn công nhận vùng “Lưỡi bò” là của Trung Cộng

Căn cứ vào bản tin của Tân Hoa Xã, thì Hồ Xuân Sơn đã công nhận công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, cụ thể là tán thành hai quần đảo HS/TS là của Trung Cộng. Như vậy, từ lãnh thổ của Trung Cộng là HS và TS kéo dài ra 12 hải lý là lãnh hải của TC, kéo dài ra 200 hải lý là Vùng Đặc Quyền Kinh Tế (Exclusive Economic Zone=EEZ) của TC, nói chung, khu vực hình chữ U hay đường 9 đoạn, hoặc vùng Lưỡi bò là thuộc quyền của Trung Cộng.

Khi đã công nhận HS/TS là của Trung Cộng, công nhận hải phận 12 hải lý của HS/TS, thì mặc nhiên công nhận Vùng Đặc quyền kinh tế 200 hải lý, nói chung là công nhận vùng biển hình Lưỡi Bò trên Biển Đông, là của Trung Cộng.

Như vậy, đúng là đại diện của lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN đã đồng thuận vùng Lưỡi bò là của Trung Cộng. Vì thế, Trung Cộng lên tiếng hối thúc, nhắc nhở CSVN như sau:

“Chúng tôi đã thảo luận một cách kỹ lưỡng, hai bên nhất trí giải quyết tranh chấp thông qua hiệp thương hữu nghị. Chúng tôi hy vọng phía Việt Nam sẽ thực hiện đồng thuận chung”. (Hết trích)

4* Mục đích thật sự của Trung Cộng là gì?

Mục đích thật sự của Trung Cộng là, xử dụng công hàm của Phạm Văn Đồng để biến vùng biển thuộc chủ quyền của VN, thành ra vùng biển tranh chấp giữa 2 nước, từ đó, dùng sức mạnh của một cường quốc, áp lực lên tên tay sai lâu đời và hèn nhát của TC, là CSVN, để công khai vào vùng biển của VN mà khai thác tài nguyên cần thiết.

Chính đại diện TC là Tô Hào (Su Hao), trong cuộc Hội Thảo An Ninh về Biển Đông tại Trung tâm Nghiên Cứu Chiến lược Quốc tế (Center of Strategic and International Studies-CSIS) tại Washington ngày 20-6-2011, đã tuyên bố như sau:

“Có lẻ trong tương lai, chúng ta nên xét lại, bỏ vấn đề tranh chấp chủ quyền qua một bên, và tạo nên vùng biển hợp tác chung”.

Như vậy, vấn đề chủ quyền xem như thứ yếu, vì nó là khúc xương khó nuốt, bởi vì Hoa Kỳ đã khẳng định: “Hoa Kỳ không tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, nhưng cũng không chấp nhận bất cứ một chủ quyền nào trên hải lộ quốc tế nầy cả”.

Chỉ có giải quyết song phương thì Trung Cộng mới xử dụng được công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng được mà thôi. Đồng thời, có thể bóp chết được CSVN bởi vì, VN đã bị lệ thuôc vào TC về kinh tế, tài chánh, chiến lược quốc phòng, nghĩa là VN đã nằm trong lòng bàn tay thâm độc của TC, đã bị cấy sinh tử phù, bị đội cái vòng kim cô trên đầu, thì không còn cục cựa được nữa.

CSVN đã nhất trí giải quyết song phương theo chủ trương của Trung Cộng. Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Quốc phòng tuyên bố “VN không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống lại Trung Quốc. Nếu VN cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển, thì còn có ai hơn một nước TQ Xã Hội Chủ Nghĩa láng giềng”. Ông tướng nầy quên bọn Tàu khựa đã chửi các lãnh đạo đảng CSVN một cách thậm tệ, không còn lời lẻ nào nặng nề hơn nữa.

5* Định hướng dư luận

5.1. Hèn với giặc, ác với dân

Hồ Xuân Sơn đã đồng thuận với chủ trương của Trung Cộng về “định hướng dư luận”. Cụ thể là VN sẽ thi hành trấn áp, bắt giam những người phát biểu chống TC như luật sư đồng thời là nhà báo Tạ Phong Tần (cựu Đại úy công an) chẳng hạn.

Chính quyền CSVN đã ngăn chặn những ý kiến lên án bọn TC đã xâm phạm hải phận, bắt giữ, cướp bóc, tước đoạt tài sản của ngư dân, bắt cóc đòi tiền chuộc, đánh chìm tàu, phá hoại dụng cụ, ngăn cản hoạt động dò tìm mỏ...

Những hành động của công an CSVN khiến cho nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc phải than thở: “Sao bổng dưng họ lại hèn đến như vậy”. Hèn với giặc, ác với dân trở thành bản chất của đảng CSVN.

Ngày 30-6-2011, tướng Mã Hiếu Thiên, Phó Tổng tham mưu trưởng QĐ Trung Cộng đến VN, kêu gọi Hà Nội “xử lý một cách thích đáng và hướng dẫn công luận và tình cảm dân chúng một cách đúng đắn, không để biểu tình xảy ra, không để đa phương hoá và quốc tế hoá vấn đề Biển Đông”. Thế là CSVN tuân lệnh râm rấp.

5.2. Trung Cộng chửi Cộng Sản Việt Nam

Trong khi Hồ Xuân Sơn “đồng thuận” với TC là thi hành “định hướng dư luận”, thì báo chí TC chửi đảng CSVN tàu xà lúp chở không hết, không còn lời lẻ nào nặng hơn trong ngôn ngữ chửi, về bình dân lẫn có văn hoá. CSVN bị chửi te tua hơn cái mền rách nữa.

Trúc Giang xin trích đoạn do Giáo sư Vũ Cao Đàm dịch từ tài liệu của Trung Cộng, như sau:

“Nói về Nam Sa, quần đảo mà VN đang chiếm 29 đảo. VN là nước láng giềng nhưng không muốn cùng Trung Quốc phát triển phồn thịnh. Quan hệ giữa VN-TQ là quan hệ giữa người nông dân với con rắn độc. VN luôn luôn đóng vai thất tín, bội nghĩa. Trong tình hình hiện nay, VN đã chống lại sự khoan dung và lương thiện của TQ.

Việc dùng vũ lực đánh VN không thể chậm trễ hơn nữa.

Vì sao phải đánh CSVN bằng vũ lực?

Có hai khía cạnh sau đây:

1. VN là một quốc gia lòng lang dạ sói

Từ những năm 1960, TQ đã ủng hộ VN về quân sự, kỹ thuật, kinh tế với quy mô lớn, trong thời gian đó, bản thân TQ cũng khó khăn.

Với sự ủng hộ của TQ, VN đã đánh bại 560 nghìn quân Mỹ ở VN. TQ vô tư ủng hộ về nguồn lực và nhân lực trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đặt nền móng vững chắc cho việc phục hồi kinh tế cho VN.

Sự vô ơn của VN biểu hiện, một tay nhận viện trợ vô tư của TQ, một tay ngấm ngầm chìa ra cho Liên Xô. Dưới sự thao túng của Liên Xô, VN làm đủ trò quấy nhiễu biên giới Trung-Việt đến đổ máu người TQ.

Tại VN, VN sát hại và trục xuất Hoa kiều. VN đem quân sang chiếm Campuchia. Không thể nhẫn nại được nữa, tháng 2 năm 1979, TQ phát động chiến tranh phản kích tự vệ. VN bắt tay với Liên Xô, một đối thủ của TQ, cầm súng bắn lại ân nhân của mình.

Chúng ta hãy xem, bọn CSVN lòng lang dạ sói đến mức độ nào?

2. Cộng Sản Việt Nam là bọn tiểu nhân bỉ ổi không biết xấu hổ.

VN và TQ là hai nước láng giềng, uống chung một nguồn nước, nhiều chính trị gia đã đến học tập tại TQ, ngay cả đương kim thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng từng được huấn luyện, giáo dục ở TQ.

Trước đây, ngày 30-5-2008, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đột nhiên đến thăm nước ta, nói ra những điều cảm động lòng người, mồm bô bô “láng giềng tốt, bạn bè tốt, chiến hữu tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, tỏ ra rất thân thiết…sau nầy mới biết, vì lạm phát tăng cao, kinh tế nguy cơ bị khủng hoảng, nên mới chạy qua xin xỏ, cầu viện TQ. Đến khi vừa về tới nước thì tên Mạnh nầy liền trở mặt, liên kết với đối thủ cạnh tranh của TQ là công ty Mobil, để khai thác dầu khí ở Nam Sa (Trường Sa) mà VN cướp đoạt của TQ. Rõ là quân phản bội. CSVN thật là vô liêm sĩ, không biết hổ thẹn là gì.

Trong quá trình tranh chấp, VN âm mưu quốc tế hoá các đảo đã chiếm của TQ, với tâm địa độc ác, không biết xấu hổ. Đây là điển hình của hành vi “cường đạo biến thành quân tử”, thật là vô liêm sĩ.

Chính sách của VN đối với TQ thật là vô cùng nham hiểm, đó là toa rập với Hoa Kỳ ngăn chặn sự phát triển của TQ.

Xem ra, VN muốn đi theo vết xe cũ của năm 1979, vẫn còn muốn diễn vai bán đứng ân nhân đã từng giúp đở họ, để trở thành một kẻ tiểu nhân vô liêm sĩ thật thụ.

Năm 1979 chưa đủ dạy cho CSVN một bài học tơi bời, thì sắp tới đây, chúng ta cần phải làm triệt để, để VN có một bài học nhớ đời và cũng là lợi ích lâu dài của TQ.

TQ hiện nay đang theo chính sách “ẩn dấu tài năng”, “lâu dài mai phục” khiến cho bọn oắt tì VN xâm chiếm lãnh hải TQ và cứ nhâng nhâng thăm dò khai thác tài nguyên.

Đã đến lúc chúng ta cần phải dẹp bỏ thái độ khoan dung nhân nhượng, mà phải dùng vũ lực, chứng minh TQ là một đất nước anh hùng.

Để cho một nước lỏi con như VN xâm phạm lãnh thổ của mình, sự khoan dung thái quá là tự hủy diệt mình, cho nên phải dùng vũ lực tấn công VN một cách tàn nhẫn. Cần phải phá hủy triệt để các cơ sở quân sự, tất nhiên bao gồm tất cả hạ tầng dân sự của VN. Đối với một nước vô liêm sĩ như vậy, chúng ta không cần phải quan tâm đến vấn đề đạo đức, nhân đạo làm gì. Chỉ cần phù hợp với lợi ích quốc gia thì đó là chiến tranh chính nghĩa.” (Hết trích)

Giáo sư Vũ Cao Đàm dịch từ tài liệu Trung Quốc.

Ngày 25-6-2011, Thiếu tướng Bành Quang Khiêm, Phó Tổng Thư Ký Ủy Ban Chính sách Quốc gia TC tuyên bố: “Trung Quốc đã từng dạy VN một bài học và có thể cho VN một bài học lớn hơn, nếu VN tiếp tục diễu võ dương oai, múa trên lưỡi đao, sớm muộn gì có ngày VN sẽ ngã trên lưỡi đao đó”.

Trúc Giang “Diễn Nôm”

Qua đoạn trích trên, TQ có những lời lẻ vô cùng nặng nề để chửi các lãnh đạo CSVN, trong đó có cả Trung tướng Vịnh, là người hết lời ca ngợi bọn bất lương Trung Cộng. Lãnh đạo từ Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười, Lê Đức Anh…. không một người nào ngoại lệ. Những lời lẻ nặng nề như: bọn tiểu nhân bỉ ổi, lòng lang dạ thú, vong ân bội nghĩa, phản bội, vô liêm sĩ, nham hiểm, thâm độc…thì trong ngôn ngữ chửi, từ bình dân tục tiểu cho đến chửi có văn hoá, thì không còn có từ ngữ nào nặng nề hơn nữa để chửi cả. Người bình dân ví những người bị chửi, te tua như cái mền rách là như vậy.

Bọn TC chửi bậy, nhưng cũng có những cái rất đúng, cụ thể là, nếu biết bọn Hán tộc lưu manh, bất hảo thì đừng có tôn nó lên làm thầy, đừng nhận vũ khí của chúng để giết đồng bào của mình. Bây giờ nghĩ lại, những cái khẩu hiệu thời VNCH thì thật là quá đúng. Đó là Hồ Chí Minh “cỏng rắn về cắn gà nhà”, “rước voi về vầy mồ mả tổ”, tức là rước cán bộ TC về chỉ đạo thực hiện Cải Cách Ruộng Đất.

Trung Cộng đã “Định hướng cho 1.3 tỷ bọn Tàu khựa như thế, trong khi CSVN định hướng ca ngợi 16 chữ Vàng và 4 tốt. Thật là không biết mắc cở, dịch ra hán ngữ là Vô liêm sĩ.

6* Tiếp tục tranh cãi về công hàm Phạm Văn Đồng

Gần đây, các nhà lý luận trong nước trở lại tranh cãi về giá trị của bức công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng, sau khi tờ Đại Đoàn Kết của Mặt Trận Tổ Quốc, lần đầu tiên lên tiếng về bức công hàm. Ngày 20-7-2011, báo nầy cho rằng Trung Cộng “đã xuyên tạc nội dung và ý nghĩa của bức công hàm”.

6.1. Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Cộng

Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải ngày 4 tháng 9 năm 1958

(Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội uỷ viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua)

Quyết nghị

Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:

* Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc

Bốn: …”những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc”.

6.2. Công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng

“Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.”(hết trích)

6.3. Đảng CSVN Công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Cộng

6.3.1. Ung Văn Khiêm tuyên bố

“Thứ trưởng ngoại giao Ung văn Khiêm nói rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là một bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc".

6.3.2. Ông Lê Lộc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao VN:

… "xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Tống"

6.3.3. Hoàng Tùng, Trưởng Ban Tư tưởng TW đảng CSVN đã tuyên bố:

“Thà giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, cùng phe xã hội chủ nghĩa anh em còn hơn để tụi Ngụy Sài Gòn quản lý”!

6.3.4. Năm 1960 và năm 1972 Hà Nội cho ấn hành hai cuốn Atlas.

Cuốn thứ nhất do Bộ Tổng Tham mưu Quân đội biên soạn.

Cuốn thứ hai do Phòng họa đồ của Phủ Thủ tướng biên soạn.

Trong cả hai cuốn này đều ghi Trường Sa và Hoàng Sa là của Trung Quốc.

6.3.5. Báo Nhân Dân của Việt Nam số xuất bản ngày 16/9/1958

“Ngày 14/9 Thủ tướng Phạm Văn Ðồng, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu An Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam "nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh hải".

6.3.6. Sách Địa lý năm 1974

“Các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Ðài Loan của Trung Quốc, hình thành một bức tường phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa.”

6.3.7. Tháng 2 năm 1972, Cục Đo đạc và Bản đồ, trực thuộc Phủ Thủ tướng phát hành Tập Bản đồ Thế giới, trong đó, Hoàng Sa và Trường Sa bị đổi tên là Tây Sa và Nam Sa.

6.3.8.Tháng 5 năm 1976, tờ Sài Gòn Giải Phóng loan tin “Trung Quốc vĩ đại, đối với chúng ta không những là đồng chí mà còn là người thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy, chủ quyền Hoàng Sa thuộc về VN hay thuộc về TQ thì cũng vậy thôi!”. (Hết trích)

Như trên cho thấy, không phải chỉ một Phạm Văn Đồng công nhận HS/TS là của Trung Cộng, mà cả đảng và Nhà nước CSVN đã có cùng một chủ trương bán nước cho Tàu Cộng.

Sự thật rành rành không thể chối cãi được. Do đó, cái câu “Các vua Hùng có công dựng nước, bác cháu ta phải giữ nước” chỉ là 1 câu bịp.

7* Bưng bít thông tin về xung đột biên giới 1975-1978.

Kẻ gian thường hay giấu giếm những hành động bất hảo của mình, vì hễ nói ra thì lòi cái gian manh xảo trá hoặc lừa bịp của mình, vì thế phải bưng bít, ngay cả những vụ việc trọng đại có ảnh hưởng tới sự tồn vong của đất nước, sự an nguy của dân tộc, cụ thể như vụ “xung đột biên giới năm 1975-1978.

Cuộc xung đột làm mất mạng hàng ngàn người VN ở Tây Ninh, Phú Quốc, Rạch Giá mà người Việt ở Sài Gòn và cả nước không hay biết gì cả.

Ngày 4-5-1975, tức 3 ngày sau khi miền Nam mất về tay CSBV (30-4-1975), một toán quân Khmer Đỏ của Pol Pot đột kích đảo Phú Quốc. Sáu ngày sau, ngày 10-5-1975, bọn Cộng Sản Miên đánh chiếm đảo Thổ Châu, hành quyết 500 thường dân VN. Sự việc trọng đại như thế mà người Sài Gòn không hay biết gì cả. Báo, đài nhà nước im hơi lặng tiếng.

Sau trận Phú Quốc và đảo Thổ Châu, Khmer Đỏ thực hiện những cuộc tấn công lẻ tẻ giết hại thường dân VN.

Tháng 4 năm 1977

Quân chính quy Cộng Sản Miên tiến sâu 10 km vào lãnh thổ VN, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn thường dân.

Ngày 25-9-1977.

Khmer Đỏ đưa 4 sư đoàn đánh chiếm nhiều điểm ở các quận Tân Biên, (Châu Đốc), Bến Cầu, châu thành tỉnh Tây Ninh.

- Đốt phá 471 ngôi nhà

- giết chết hơn 800 thường dân VN.

Ngày 31-12-1977

6 sư đoàn CSBV đánh sâu vào Campuchia, đến tận Neak Luong rồi mới rút ra ngày 5-1-1978. (5 ngày) mang theo một số nhân vật quan trọng của Khmer Đỏ, trong đó có Hun Sen, hiện là thủ tướng nước Campuchia.

Phía VN đề nghị thiết lập một vùng phi quân sự dọc theo biên giới, nhưng Pol Pot từ chối, và giao tranh tiếp diễn.

Ngày 1-2-1978

Trung Ương đảng Cộng Sản Campuchia họp bàn kế hoạch chống VN. 15 sư đoàn được thành lập. Trong Nghị Quyết của Cộng Sản Miên có ghi “Chỉ cần mỗi ngày tiêu diệt vài chục người VN, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh tới 10, 15 hoặc 20 năm thì tiêu diệt hết người VN. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triêu người VN”

Pol Pot đã điều 13 trong 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công vào VN. Có nơi CS Miên đã vào sâu 15, 20 km. Trong những cuộc tấn công, CS Miên giết chết bất cứ người VN nào mà chúng gặp. Một điển hình là cuộc thảm sát ở Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 làm chết 3,157 người VN.

Từ tháng 12 năm 1977 đến 14-6-1978, một thống kê cho biết.

Tổn thất phía VN

- 30,642 người bị thương

- 6,902 người chết

- 30 vạn phải di tản ra phiá sau

- 6 vạn hecta đất bị bỏ hoang.

Ngày 13-12-1978

Được Trung Cộng trang bị và hậu thuẩn, Khmer Đỏ đã huy động 10 trong 19 sư đoàn (Khoảng 60,000 quân) tấn công xâm lược trên toàn biên giới Việt-Miên.

- 3 sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục đích chiếm thị xã tinh Tây Ninh.

- 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự, (Đồng Tháp)

- 2 sư đoàn đánh vào Bảy núi (Thất Sơn) An Giang

- 1 sư đoàn đánh vào Trà Phô, Trà Tiến, Kiên Giang

Tại những vùng chiếm đóng Khmer Đỏ thực hiện sách lược diệt chủng đối với người VN, như đã làm đối với người Khmer.

Quân đội CSBV đánh trả quyết liệt mới kềm chân được quân Cộng Sản Miên.

Thống kê VN ghi nhận, từ tháng 6 năm 1977 đến tháng 12 năm 1978 (18 tháng)

-38,563 quân Khmer Đỏ bị tiêu diệt.

5,800 bị bắt sống.

Trong cuộc chiến tranh biên giới nầy, đa số người VN không hay biết gì cả, vì CSVN vẫn nêu những khẩu hiệu “Tình hữu nghị Việt Miên Lào bất diệt”. Tinh thần vô sản quốc tế muôn năm.

Sở dĩ CSVN bưng bít tin tức vì đảng CSVN quyết đưa miền Nam cùng với miền Bắc XHCN tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH ưu việt, không còn cảnh người bốc lột người nữa.

** Nói thêm về Hun Sen

Tên đầy đủ là Samdec Akeakmohasenapadey Decho Hun Sen, sinh ngày 4-4-1951. Lãnh đạo đảng Nhân Dân Campuchia.

Quốc vương Sihamoni phong cấp Thống tướng (5 sao) cho ông năm 2009.

Hun Sen gia nhập đảng Khmer Đỏ của Pol Pot năm 1967.

Tháng 4 năm 1975, Hun Sen giữ chức Trung đoàn phó của QĐ Khmer Đỏ.

Tháng 5 năm 1977, Hun Sen sống ở Hà Nội. Đây là một bí mật có nhiều tranh cãi.

- Hun Sen tuyên bố, đào ngũ vì không thích Khmer Đỏ

- Dư luận cho rằng Pol Pot thanh trừng những cán bộ thân CSVN, cho nên Hun Sen sợ bị thanh trừng nên bỏ trốn.

- Nguồn tin cho rằng Hun Sen bị CSVN bắt trên mặt trận, đánh với Khmer Đỏ.

Nhưng dù lý do nào, thì trên thực tế, Hun Sen được CSVN đào tạo, huấn luyện để lãnh đạo chính phủ bù nhìn do CSVN dựng lên trong thời gian chiếm đóng Campuchia.

Hun Sen bị thương 5 lần, bị hư một con mắt phải.

8* Giấu nhẹm trận đánh ở núi đất (Lão Sơn)

Xin trích lại bài đã đăng

Tại sao CSVN giấu nhẹm tin tức về trận đánh năm 1984 ở núi Lão Sơn?

Cuốn sách “Secret Records of Sino-Vietnamese War” do 3 tác gỉa Trung Cộng, Jin Hui, Zhang Hui Sheng và Zhang Wei Ming đã tiết lộ những tin tức động trời mà CSVN đã cố tình giấu nhẹm nhân dân VN, làm cho 3,700 bộ đội đã chiến đấu bảo vệ lãnh thổ VN bị quên lãng, phản bội, không được công nhận là liệt sĩ, và cuối cùng được dựng bia liệt sĩ chung với kẻ thù đã giết mình. Đó là một sĩ nhục đối với những chiến sĩ đã hy sinh để bảo vệ quê hương, đất nước.

Việc làm đó thật là mờ ám của đảng.

8.1. Trận Lão Sơn qua tường thuật của một Trung đoàn trưởng Pháo binh Trung Cộng

Trung đoàn trưởng Trung Cộng tường thuật như sau:

“Núi Lão Sơn cao 1422 m so với mặt nước biển, nằm trong lãnh thổ VN, gọi là Núi Đất hay cao điểm 1509 do quân đội VN trấn giữ.

Đầu năm 1984, trung đoàn của tôi được lịnh chiếm núi Lão Sơn.

Ngày 18-2-1984
Trung đoàn tiến tới Ei-Liang.

Ngày 20-2-1984
Tới đồi Ma-Sho Hill. Có 40 ngày chuẩn bị.

Ngày 1-4-1984
Tìm vị trí địch.
3 Đại đội ra quân. Họ bắn vài phát rồi rút lui, để buộc địch bắn trả, tự làm lộ vị trí. Chúng tôi dùng súng nặng để trấn áp. Địch mắc kế.

Ngày 26-4-1984
Đơn vị đặc nhiệm pháo binh 119 được thành lập.
Lập căn cứ hỏa lực.
Chúng tôi tiến quân ban đêm, tuyệt đối không gây một tiếng động nào. Pháo 85 ly được tháo rời ra, khi tới vị trí, ráp súng lại. Dùng những tấm trải giường màu trắng lót để thấy đường mà đi. Dàn hỏa lực cách địch (Bộ đội VN) 500 m. Đại đội 4 gần địch nhất, nên pháo binh bắn thẳng.

Ngày 28-4-1984
Tiền pháo hậu xung.

5 giờ 50 sáng, pháo binh bắt đầu khai hỏa. Sau 54 phút bắn dồn dập không ngừng, mặt đất rung chuyển.

6 giờ 24 phút. Khi ngừng pháo, bộ binh xông lên. Quân VN phản ứng liền trong 2 phút. Loạt súng đầu tiên bắn hạ một trung đội trưởng, một đồng chí đầu tiên hy sinh ở núi Lão Sơn. Pháo binh chúng tôi bắn hỗ trợ cho bộ binh. Bộ binh tiến lên, nhảy từ thùng đạn nầy đến thùng đạn khác. Sau 9 phút, bộ binh chiếm được cao điểm 662, và sau 54 phút, Lão Sơn rơi vào tay chúng tôi.

15 giờ 30, 20 cao điểm khác ở phía đông ngọn đồi 662 cũng bị chúng tôi chiếm. Chúng tôi đã bắn cháy xe tăng địch với 5 quả pháo bắn thẳng.” (Hết trích)

Cuộc chiến ở Lão Sơn kéo dài từ 1984 đến năm 1988, nhưng nhân dân VN hoàn toàn bị bưng bít, không ai biết gì về trận Lão Sơn cả. Lão Sơn mất, và Hà Nội không giành lại được.

Vì sao Hà Nội không vinh danh những anh hùng giữ gìn đất mẹ ở tỉnh Hà Giang? HN bưng bít đến nổi các hãng thông tấn AFP, AP, Reuters cũng không hề biết.

Vì sao mất đất, mất biển mà người dân không được quyền biết?

Trung đoàn trưởng Trung Cộng thuật tiếp:

“Ngày 11-6-1984

3 giờ sáng. Một phát đạn được bắn lên. Chúng tôi đang hỏi nhau, việc gì đã xảy ra. Trong suốt 30 phút, không liên lạc được với các đơn vị khác bằng điện thoại. Tiểu đoàn 2 thám thính cũng bị mất liên lạc. Duy nhất, một trung đội trưởng liên lạc được với tôi, yêu cầu pháo binh bắn yểm trợ. Tôi từ chối, với lý do là các đơn vị bạn đang ở trong vị trí đó. Tôi yêu cầu tiểu đoàn 2 thám thính cho 5 binh sĩ đến mặt trận, nhưng họ bị hỏa lực địch ngăn chận.

Trời sáng, cả đại đội thám thính bị đẩy lui. Tại thời điểm nầy, tôi được biết các đơn vị tiền phương của chúng tôi đã bị địch tràn ngập.

5 giờ 30 phút sáng. Với sự yểm trợ của tiểu đoàn pháo , bộ binh của chúng tôi mở cuộc tấn công, và trong vòng 30 phút, đã chiếm lại được những vị trí đã mất.

6 giờ. Địch lại mở cuộc tấn công mới. Các đơn vị bộ binh kêu chúng tôi pháo yểm trợ vì có khoảng 500, 600 địch quân tấn công vào phòng tuyến. Các dàn tên lửa của chúng tôi đồng loạt khai hỏa. Có khoảng 100 tên địch bỏ xác.

Tiểu đoàn pháo thứ hai cũng bắt đầu gia nhập mặt trận và tuồn đại pháo vào quân thù.

3 giờ chiều. Quân địch không thể nào tiến gần đến vị trí phòng thủ của chúng tôi.

Một lực lượng tiếp viện của địch đang cố gắn vượt qua sông để tấn công vào cạnh sườn của chúng tôi. Chúng tôi quay nòng súng 10 độ trái, 10 độ phải, khiến địch quân không tiến, không lùi được, đứng tại chỗ làm bia đở đạn và bị tiêu diệt.

Ngày 12-7-1984

Địch quân phản kích

Sau ngày 11-6-1984, chúng tôi học được bài học tại chiến trường. Phân công các đơn vị lai.

Các ống phóng hỏa tiễn do tôi (trung đoàn trưởng) chỉ huy. Pháo 82 do các tiểu đoàn chỉ huy. Đơn vị 100 ly được đào sâu thêm dưới mặt đất, do tôi trực tiếp chỉ huy.

12 trung đội pháo và 4 trung đội xe tăng được tăng cường và phân phối cho các đơn vị. Các đơn vị mới đến được hướng dẫn là phải bắn thẳng vào những khúc đường “độc đạo” chạy theo sườn núi mà chắc chắn là địch sẽ dùng để tiến quân. Các đơn vị thám báo được rải ra trên những khúc đường quanh co khả nghi. Hai trung đội pháo được lịnh bắn thẳng vào những đoạn đường đó để chận địch. 3 trung đội tên lửa đóng ở cao điểm 152 để yểm trợ cho chúng tôi.

Ngày 12-7-1984

Chúng tôi biết được tên của các đơn vị địch quân. Đó là 2 Trung đoàn của sư đoàn 356, 1 trung đoàn của SĐ 316 và 6 trung đoàn độc lập tham gia trận địa. Tổng cộng 9 trung đoàn.

Dự đoán địch quân sẽ tấn công vào lúc 5 giờ sáng, lúc nửa khuya, chúng tôi có gấp 2.5 lần số đạn bình thường, sẵn sàng cho các khẩu pháo.

3 giờ sáng ngày 12-7-1984, Tổng hành dinh cho biết 3 vị trí của địch và ra lịnh khai hoả. Sau tràn pháo dữ dội thứ nhất, tôi hội ý với cấp chỉ huy và cả hai chúng tôi đều đồng ý nhau là địch có thể ở cách chúng tôi khoảng 1,000m. Tôi trình lên Tư lịnh phó xin khai hoả và được chấp thuận. Tôi ra lịnh bắn từng loạt, cách nhau 10 phút. Sau loạt pháo thứ hai, không thấy có gì xảy ra. Tôi ra lịnh bắn hoả châu soi sang cả khu vực. Kết quả không thấy gì. Phí đạn thật.

Lúc đó 3 giờ sáng, nhiều binh lính lăn ra ngủ. Ngay lúc đó, tôi mới khám phá ra rằng địch chỉ cách chúng tôi khoảng 500m.

Chúng tôi lại bắn tối đa vào mục tiêu. Hai tiểu đoàn trưởng địch bị giết tại chỗ, dù không có chỉ huy, nhưng địch vẫn không bỏ vị trí. Những binh lính bị thương cũng không rên rĩ, họ tản thương ngay sau khi hỏa châu vừa tắt. Thật là có kỷ luật.

Ngày 13-7-1984

Lúc 3 giờ sáng, cả địa ngục rung chuyển. Trận đánh lại bùng nổ tại mọi phía. Chúng tôi bắt được một tù binh đầu tiên, qua tù binh, được biết những gì xảy ra trước đó. Đó là, địch quân rất giỏi che dấu tung tích, không dùng truyền tin trước khi tấn công.

Ngay khi bị tấn công, các đơn vị bộ binh xin pháo binh yểm trợ. Tôi lo lắng vì sợ bắn vào đầu quân bạn, nên không yểm trợ.

Bộ chỉ huy ra lịnh khoá phòng tuyến bằng cách bắn vào làn sóng tấn công thứ hai, có thể là những đơn vị lớn cấp trung đoàn.

Các dàn tên lửa của chúng tôi nhả 13 tràng liên tục, ngoài ra, pháo 85mm, 100mm và 152mm cũng tham gia phản kích. Chúng tôi bắn 200 m về phía trước tại 6 điểm hỏa lực, dựng lên một bức tường lửa dày đặc chung quanh tuyến phòng thủ. Rất nhiều địch quân bị giết. Các ống phóng đỏ rực. Trong ngày đó, chúng tôi bắn trên 10,000 quả pháo.

Đến trưa.

Chúng tôi hết đạn. tin nầy làm cho Tư lịnh Yo-Hop không vui, vì 6 trung đoàn địch đang chờ tấn công.

Tôi gọi xin tiếp viện đạn.

Lúc 1 giờ chiều, 470 chiếc xe chở đạn tới.

Quân VN đã chiếm được cao điểm 164, một trong những tiểu đoàn của họ chỉ còn lại 6 người. Sau đợt tấn công 15 phút, chúng tôi chiếm lại được cao điểm 164. Quân VN từ chối rút lui, hết làn sóng nầy đến làn sóng khác tiến lên chiếm lại ngọn đồi. Khi tàn cuộc chiến, đếm được 3,700 xác địch.

Tư lịnh sư đoàn chúng tôi, cựu chiến binh thời nội chiến, phải nói rằng ông chưa bao giờ thấy nhiều xác chết như thế.

Chúng tôi đi thu vũ khí và thắt lưng trên xác địch phát cho binh sĩ. Đêm đó, Bộ chỉ huy trung đoàn hút hết 4 bao thuốc lá và uống hết 4 bình rượu.

Ngày 14-7-1984

Chúng tôi thông báo, cho phép địch quân đi thu xác chết, với những điều kiện:

- Họ phải mang cờ Hồng Thập Tự

- Mỗi toán không được quá 50 người.

- Không được phép mang vũ khí.

Sau đó, một toán khoảng 60, 70 người VN, không có cờ Hồng Thập Tự mà còn mang theo vũ khí, khi biết chúng không tuân theo chỉ thị, chúng tôi khai hỏa giết sạch.

Chúng tôi không quan tâm gì đến sinh mạng của chúng. Không một người nào trong bọn họ còn sống sót.

Trời đang mùa hè, nắng rồi lại mưa, không ai có thể chịu đựng nổi mùi hôi thúi của xác chết, tôi yêu cầu các đơn vị hoá chất đến đốt hết các xác chết bằng súng phun lửa”.

(Trần Trung Đạo dịch từ văn bản tiếng Anh trên trang Web China Defense)

Hiệp định ngừng chiến năm 1990, CSVN đã ký nhượng 600 km2 phần đất Tổ quốc, trong đó có núi Bạc, núi Lão Sơn cho Trung Cộng.

8.2. Tổn thất

Trong Chiến dịch Biên giới 1984-1989, tổn thất hai bên như sau:

Phía Trung Cộng.

- Bị giết: 939

- Bị thương: 3,884

Phía Việt Nam

- Bị giết: 11,700

- Bị thương: 21,144

- Bị bắt: 61

· Đây là tài liệu của Trung Cộng. Vì CSVN giấu nhẹm tin tức về chiến dịch Biên giới 1984-1989.

Nghĩa trang “Liệt Sĩ Việt-Trung”

Ngày 19-2-2009.

Trích:

“Việt gian Cộng Sản hoàn toàn quy phục Tàu Cộng. Các “Nghĩa Trang Liệt Sĩ Trung Cộng” trong chiến tranh Biên giới Việt-Trung được đổi thành “Nghĩa Trang Liệt Sĩ Việt-Trung”. Việc sát nhập lãnh thổ VN vào Trung Cộng quá rõ ràng”. Thật là quá tủi nhục cho các liệt sĩ VN, vì phải ngồi chung bàn thờ với kẻ đã giết chết mình không thương tiếc!.

9* Kết

Cộng Sản VN đã chấp nhận đàm phán song phương tức là chấp nhận thân phận nô lệ cho Trung Cộng, trực tiếp và công khai dâng tài nguyên quốc gia cho ngoại bang, và vận mệnh của đất nước không tránh khỏi một khu tự trị của TC.

Tố Hữu đã nêu cái ý nầy của Đảng CSVN:

“Bên nây biên giới là nhà

Bên kia biên giới cũng là quê hương” (Tố Hữu)

Ngày 24-8-2011, Thượng Nghị Sĩ Jim Webb từ Hoa Kỳ sang VN để cảnh cáo một câu: “Việc tiếp cận song phương sẽ không bao giờ giải quyết được những vấn đề cơ bản về chủ quyền, bởi vì cán cân lực lượng chênh lệch”. Có nghĩa là VN yếu thì phải phục tùng kẻ mạnh. Đó là một sai lầm của VN. Nếu VN chọn giải pháp đa phương, quốc tế hoá, thì VN không còn ở thế yếu nữa.

Nhưng cái máu làm tay sai di truyền cho Trung Cộng khó có thể gột rửa được. Vận mệnh đen tối của dân tộc VN vẫn tồn tại đều do cái đảng mắc dịch nầy cả.

Trung Cộng đã đạt được mục đích, là dùng công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng để biến vùng biển thuộc chủ quyền của VN trở thành vùng biển tranh chấp, từ đó, dùng sức mạnh áp chế tên tay sai hèn nhát, để ngang nhiên vào vùng biển của VN mà khai thác tài nguyên.

Một Hiệp ước bất bình đẳng sẽ được ký kết để hợp thức hoá hành động ăn cướp nầy. Và nhà nước CSVN vẫn tiếp tục bưng bít tin tức để che dấu hành động bán nước di truyền nầy.

Trúc Giang

Minnesota ngày 12-9-2011

0 comments:

Powered By Blogger