Friday, September 2, 2011

NGÀY 2 THÁNG 9 NĂM 1945 : BƯỚC ĐẦU LỪA ĐẢO CỦA HỒ CHÍ MINH, GÂY ĐẠI HỌA MẤT NƯỚC VỀ TAY GIẶC TÀU HÔM NAY .

MƯỜNG GIANG

Tính từ thời các Tổ Hùng dựng nước Văn Lang tới nay, dân tộc Việt đã trải qua hơn mấy ngàn năm lịch sử. Đó là một dân tộc anh hùng bất khuất, phi thường hiên ngang.. nên dù có sống trong hoàn cảnh nào chăng nữa vẫn không bao giờ chịu quì lụy, đầu hàng kẻ thù. Vì vậy hôm nay chúng ta mới hãnh diện có được những anh hùng liệt nữ Bà Trưng, Bà Triệu, Lữ Gia, Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu, Trương Định, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Ung Chiếm, Bùi Hàng, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học, Cô Giang, Phan Bội Châu..và không biết bao nhiêu chiến sĩ vô danh khác, đã hy sinh trong cuộc chiến chống giặc Tàu, Pháp và đế quốc cộng sản..

Từ trong 1000 nô lệ giặc phương Bắc, tối tăm ô nhục, dân tộc Việt đã gánh chịu không biết bao nhiêu điêu linh đói lạnh, đọa đày áp bức, lên rừng kiếm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai, làm tôi mọi cho bọn thái thú vơ vét mang về Tàu. Hơn bao giờ hết, VN ngày nay đang trong cơn đại họa mất nước và diệt vong như các nước Mãn Châu, Tây Tạng, Hồi Cương, Miêu Tộc.. vì Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng Sản VN, ngay khi cướp được chính quyền ngày 2 tháng 9 năm 1945 đến ngày nay cưỡng đoạt được cả nước, đã lừa đảo cả dân tộc Việt qua bao thế hệ, vì chúng chính là tay sai của Tàu nên đã bán nước cho giặc một cách công khai.. kể luôn hành động chó săn bỉ ổi, là xua công an ngăn cấm, khủng bố, bách hại và hăm dọa toàn dân cả nước khi đồng bào đứng dậy biểu tình chống giặc Tàu xâm lược cướp chiếm lãnh thổ của ta, cũng như phá vỡ ác mộng nô lệ đồng hóa, áp bức bóc lột, dã man tàn độc của giặc Tàu, đang lăm le cùm gông xiềng xích vào cổ của dân tộc Việt như 1000 năm trước, qua bàn tay thái thú bản xứ là ngụy quyền cộng sản VN.

Nhà Hậu Lý thời vua Lý Nhân Tôn, năm 1075 Đại Tướng Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân sang đánh Tống tại Khâm, Liêm và Ung Châu với mục đích làm suy yếu cuộc tấn công Đại Việt của giặc Tàu. Năm 1077, để trả thù Quách Quỳ xua 30 vạn quân tấn công nước ta nhưng đã bị Lý Thường Kiệt ngăn chận tại phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu). Tại đây Ông đã đọc một bài thơ tứ tuyệt có tựa đề “ Nam Quốc Sơn Hà “ để cổ võ tinh thần chiến đấu của tướng sĩ :

“ Sông núi Nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phân tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm ?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời ! “

Nghe được bài thơ, ba quân mới an lòng và cố thủ, bên kia sông giặc hoang mang hết lương cuối cùng bị quân Đại Việt đánh đuổi chạy về Tàu.

Theo nhận xét của các sử gia, thì bài thơ trên với nội dung xác quyết sự tồn tại của nước Nam là một nước độc lập với chủ quyền, lãnh thổ riêng biệt. Đồng thời cũng cảnh cáo giặc một cách đanh thép quyết liệt, là chúng sẽ bị đánh bại nếu có dã tâm xâm lấn Đại Việt. Tuy bài thơ chỉ có bốn câu đơn giản nhưng ý thơ lại minh bạch hùng hồn, được coi như là chân lý nền tảng của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của Đại Việt, từ khi nước ta được Ngô Vương Quyền giải ách nô lệ giặc Tàu vào năm 939 sau Tây Lịch (STL).

Năm 1406, lấy cớ Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, giặc Minh ồ ạt xâm lăng nước ta. Nhà Hồ bị diệt vong vì mất lòng dân, đất nước lại đắm chìm trong nô lệ. Giặc Minh tàn ác dã man, bốc lột đầy đọa đồng bào. Để Hán hóa dân tộc Việt, giặc Minh phá huỷ tất cả nền văn hiến Đại Việt được xây dựng qua hai triều đại Lý Trần, tịch thu hết những sách vở của ta đem về nước, quyết tâm biến nước ta thành một quận huyện, đem văn hóa Tống Nho vào thay thế tư tưởng Việt, biến người Việt thành nô dịch của Tàu từ ấy đến nay vẫn không thay đổi.

Mười năm kháng chiến chống giặc Minh, mãi tới năm Đinh Mùi (1428), Bình Định Vương Lê Lợi mới đánh đuổi giặc Tàu chạy về phương Bắc. Cũng chính vào thời điểm đó, Nguyễn Trãi thay thế quân dân Đại Việt viết “ Bình Ngô đại cáo “ dài 345 câu, được các sử gia coi đó là “ Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Lần Thứ 2 “ của Đại Việt.

Nguyễn Trãi viết :

“ việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
quân điếu phạt trước lo trừ bạo
nướng con đen trên ngọn lửa hung tàn
vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế
gây binh kết oán, trải hai mươi năm
bại nhân nghĩa nát cả đất trời
nặng thuế khóa, sạch không đầm núi
người bị ép xuống biển, dùng lưng mò ngọc
ngán thay cá mập thuồng luồng
…nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng “

Từ ba cuộc chống Nguyên Mông cứu nước (1254, 1285, 1287) của quân dân nhà Trần, đến mười năm kháng chiến của Bình Đinh Vương Lê Lợi và Nghĩa Quân Lam Sơn từ năm 1406 chống giặc Minh xâm lược nước ta. Chiến thắng được kẻ thù qua các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trên, đều nhờ vào sức mạnh của Toàn Dân và sự Đoàn Kết của Quân Dân cả nước. Tóm lại, qua Bản Tuyên Ngôn Độc Lập lần thứ 2 của Đại Việt, Nguyễn Trãi ngoài việc nói lên tư tưởng nhân bản, vốn được đánh giá là đỉnh cao của xã hội VN vào thế kỷ XV, ông còn nói đến sự mâu thuẩn của “ đại nghĩa và hung tàn “ :

“ Đem Đại Nghĩa Để Thắng Hung Tàn
Lấy Trí Nhân Để Thay Cường Bạo ..”

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Hồ Chí Minh trong vai trò Chủ Tịch, có đọc một bài diễn văn mà đảng gọi đó là “ Bản Tuyên Ngôn Độc Lập “trong đó có nêu ra khẩu hiệu “ Độc Lập Hay là Chết ! “ . Sự linh ứng của lời phát biểu trên, từ cửa miệng của một tên Đại Phản Quốc Hồ Chí Minh, ngày nay đã trở thành sự thực “ VN không bao giờ có Độc Lập, nên đất nước và dân tộc chúng ta ngày nay phải Chết ! Đó là một chân lý “ . Ngoài ra từ ngày 2 tháng 9 năm 1945 tới nay, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, đã lã có lần nào đoàn kết được dân tộc ? hay tất cả chỉ dựa vào súng đạn, bạo lực và sự lừa dối để bắt ép mọi người tuân phục.

Tại Ðông Kinh ngày 16-8-1945, Nhật Hoàng đầu hàng Ðồng Minh vô điều kiện. Tin trên được công bố, làm cho người Việt khắp ba kỳ hân hoan phấn khởi. Ai cũng ngỡ, thế là từ đây đất nước sẽ thoát khỏi vũng bùn ô uế của hơn 80 năm bị thực dân Pháp chà đạp đô hộ. Việt Nam sẽ ngẩng mặt nhìn trời cao đất rộng, như cha ông ta một thời ngang dọc khắp trời Ðông Nam Á. Nhưng than ôi, đó chỉ là mộng mị trăng sao, vì vận mệnh của các dân tộc nhược tiểu, thời nào cũng do bọn thực dân da trắng da vàng quyết định. Có thoát được hay không đều do sự khôn ngoan, tài trí và lòng ái quốc của cấp lãnh đạo.

Ấn Ðộ, Miến Ðiện, Mã Lai, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân lúc đó may mắn, vì người Anh và Mỹ khôn ngoan, nên theo thời cho các nước trên độc lập. Riêng Ðông Dương, dù Pháp đã bị Nhật hất chân từ tháng 3-1945 nhưng lòng tham của thực dân không dời đổi, nhất là với De Gaulle, lúc đó đang lãnh đạo chính phủ lâm thời Pháp, cộng với dã tâm của Hồ Chí Minh và cộng đảng đệ tam quốc tế muốn có chiến tranh với Pháp, để lãnh đạo tranh quyền, khiến cho non sông Hồng Lạc, tưởng rằng được hòa bình hạnh phúc, lại biến thành chiến trường lửa máu, huynh đệ tương tàn, rước giặc về giầy mả tổ, gây hận thù suốt 30 năm, cho tới nay vẫn còn nguyên vẹn.

Ðể giải giới quân Nhật tại Ðông Dương, các nước thắng trận quyết định giao cho quân Anh-Ấn và Trung Hoa quốc gia, trách nhiệm hai bên làn ranh vĩ tuyến 16. VN lúc đó do Quốc trưởng Bảo Ðại cầm đầu với nội các của chính phủ Trần Trọng Kim.

Nhưng Bảo Ðại trước sau cũng chỉ là một người tầm thường nói không ai nghe. Còn chính phủ quốc gia lại loạn xà ngầu vì thành viên đa số là bọn khoa bảng học ở bên Tây về, hám danh chỉ biết có tư lợi và cá nhân. Rốt cục, quyền lực quốc gia bị tan vỡ, thủ tướng Trần Trọng Kim phải từ chức, cả nước như rắn không đầu, đã tạo nên “ cơ hội ngàn vàng “ cho Việt Cộng, trong tay có vài ba chục khẩu súng dễ dàng cướp giựt chính quyền. Sự mai mỉa nhất của lịch sử VN cứ quanh đi quẩn lại trùng hợp, như năm 1945, trong lúc Hồ Chí Minh và bộ hạ đang bù đầu tính kế chuẩn bị “ tổng khởi nghĩa “ tận khu rừng già Tân Trào, Kim Lộng, thì tại Hà Nội các đảng viên CS Nguyễn Quyết, Nguyễn Khang.. với vài ba chục súng, dao găm, mã tấu, hù ép Nguyễn Xuân Chữ giao chính quyền. Tình trạng cướp giựt này lại lan tới Huế, Phan Thiết và Nam Kỳ.

Tóm lại chỉ không đầy hai tuần lễ, lá cờ “ máu đỏ sao vàng “ được sao chép từ lá cờ mẹ tại Nga-Tàu và cái tên Hồ Chí Minh lạ hoắc, mới bắt đầu được thấy nhắc trong dư luận quần chúng thời bấy giờ.

Theo sử liệu, thì đúng 2 giờ chiều ngày 2-9-1945, nhằm ngày 26 tháng 7 năm Ất Dậu, lễ ký kết đầu hàng của Nhật đã diễn ra trên soái hạm Missouri ngoài khơi Ðông Kinh, thì cũng là lúc Hồ Chí Minh lần đầu tiên xuất hiện, cùng với đám bộ hạ trên khán đài tại Hà Nội.

Cũng qua câu chuyện này, báo chí VC trước đây đã đưa ra nhiều tình tiết quảng cáo đầy mâu thuẫn về thời gian đầu tiên Hồ có mặt tại VN. Mới đây theo báo đảng, thì sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại, năm 1940 lúc đó Hồ đang ở Tĩnh Tây (Trung quốc), cùng với Phạm văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp, Ðặng văn Cáp.. quyết định dời về hang Pắc Pó trong tỉnh Cao Bằng, ngay tại cột mốc số 108 biên giới Việt-Trung. Ngày 6-2-1941, Hồ phân công cho Ðồng và Giáp ở lại Tĩnh Tâm, còn những người khác như Phùng chí Kiên, Lê Quảng Ba, Hoàng văn Hoan, Thế Am, Ðặng văn Cáp.. từ Nậm Quang về ở trong hang Pắc Pó.

Năm 1941, Hồ Chí Minh chưa đặt chân trong nội địa VN mà chỉ sống quanh quẩn tại biên giới, trong địa phận Quảng Tây (Trung quốc). Pắc Pó gồm có hai hang ngoài và trong, theo sử liệu Hồ ở hang trong, do trên ngày nay còn thấy hình và tên núi Các-Mác, suối Lê-Nin.. Pắc Pó nằm cách thị xã Cao Bằng chừng 40 km. Riêng Bộ Ðội Cộng sản, được thành lập ngày 22-12-1944 tại rừng Trần Hưng Ðạo, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, với tên gọi lúc đầu là “ Ðội tuyên truyền giải phóng quân “, vỏn vẹn chỉ có 34 người là Trần văn Kỳ (tức Hoàng Sâm-Ðội trưởng), Dương Mạc Thạch (Xích Thằng-Chính trị viên), Ngô Quốc Bình (Hoàng văn Thái-tình báo), Lâm Cẩm Như (Lâm Kính), Lộc văn Lùng, Hoàng Thịnh, Ðàm quốc Chủng, Ðức Cường, Bế văn Sắt, Luân Mông, Phúc Thơ, Nguyễn văn Kiểm, Ma văn Phiêu, Chu văn Ðế, Bế văn Vạn, Nông văn Bê, Hồng Cô, Nguyễn văn Phán, Ðặng Dần Quý, Hoàng căn Nhung, Trung Ðắc, Dương Ðại Long, La Thanh và Ngọc Trinh. Tất cả do Võ Nguyên Giáp chỉ huy.

Khai mạc buổi lễ cướp chính quyền, Hồ Chí Minh mượn nguyên văn bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và bản tuyên ngôn nhân quyền của Pháp năm 1791, để làm tài liệu phát biểu, cùng với những lời dao to búa lớn, khích động nhân tâm và sau rốt là rủ nhau đi đập phá các pho tượng Paul Bert, Jean Dupuis.. tại các công viên khắp thành phố Hà Nội.. như báo trước cảnh núi xương sông máu sắp tới, trong đó hầu hết là của những người yêu nước và nạn nhân chiến cuộc. Tất cả đều làm vật lót đường để Hồ Chí Minh cùng một thiểu số bộ hạ thân tín trong đảng cộng sản, toàn thắng vinh quang.

Sau khi theo chân quân Anh-Ấn vào Sài Gòn, cưỡng chiếm Nam va Trung Phần, đồng thời được Hồ Chí Minh cho nhập đất Bắc, thực dân Pháp và cộng sản “ đồng diễn một màn kịch “ qua cái gọi là “ chín năm kháng chiến “, thực chất là không cần thiết nếu lúc đó không có sự hiện hữu của Việt Cộng. Ngày 9-12-1946, ngay khi cuộc chiến bùng nổ, tờ Le Monde của Pháp đã viết :’ tất cả hai phía đã châm lửa vào lò thuốc súng . Nếu VN là tia lửa, thì địa ngục khổ đau là do guồng máy chính quyền Pháp lúc đó. Tóm lại trách nhiệm đều do hai phía “.

Cái nhìn đó phải chăng là tiếng nấc nghẹn ngào của chúng ta hôm nay, trước những sự thật điếng hồn của lịch sử, càng lúc càng bi phanh phui ra ánh sáng. Ai cũng biết De Gaulle là tên đại thực dân của thế kỷ XX, thay vì vừa thoát được ách nô lệ của Ðức, người Pháp sẽ thức tỉnh, xét lại những quả báo vừa mang. Nhưng qua quyền lãnh đạo chính phủ lâm thời nước Pháp lúc đó, De Gaulle đã vội nuôi ảo vọng tái chiếm lại cái thuộc địa giàu có béo bở nhất trong khối Liên Hiệp Pháp lúc bấy giờ.

Dù không ăn nhập gì tới việc giải giới quân viễn chinh Nhật tại bán đảo Ðông Dương, nhưng qua sự phản bội của chính phủ Anh và Thống chế Tưởng Giới Thạch, đã giúp Pháp quay về VN một cách chính thức. Ðể thực hiện cuộc cưỡng chiếm VN lần thứ hai (1945-1954), De Gaulle đã vội bổ ngay đô đốc Thierry d’Argenlieu làm Cao Uỷ Ðông Dương, để khôi phục lại chủ quyền nước Pháp tại đây. Ðiều này đã gây nên nhiều sự bàn cãi tại thủ đô Ba Lê, kể cả viên phụ tá của Cao Uỷ Ðông Dương là tướng Leclere de Hautelocque , cũng gọi đó là một hành động điên rồ. Rồi cơ hội hiếm có giúp cho phe thực dân đạt được ý nguyện, khi tình hình nước Pháp đầy xáo trộn, phải thay đổi liên tiếp bốn lần thủ tướng như DE Gaulle, Félix Gouin, Georges Bidault và Léon Blum, đã tạo nên một khoảng trống quyền lực, để phe chủ chiến tự do tự tác mà không bị ngăn cản.

Tại Hà Nội, hai đại bịp Hồ Chí Minh và Sainteny đem vận mệnh của đất nước và dân tộc VN ra chiếu bạc tranh hùng. Ðiều này ngày nay đã được chứng minh bằng một bức điện mật, do Sainteny viết ngày 8-12-1946, được lưu trữ trong văn khố Pháp, vừa cho giải mã. Theo đó, “ Pháp để cho Hồ Chí Minh phát động lệnh tổng khởi nghĩa, có như vậy Hồ và Ðảng cộng sản mới danh chánh ngôn thuận, đứng lên lãnh đạo đất nước qua Mặt Trận Việt Minh. Có như vậy, thực dân Pháp mới biện minh lý do tại sao lại có chiến tranh tại VN, trong lúc cả thế giới đang cổ xuý phong trào giải phóng các dân tộc nhược tiểu bị áp bức. Như thế, rõ ràng qua hai áp lực, quốc dân VN không còn sự lựa chọn nào khác hơn, lúc đó là phải đứng chung với Việt Cộng, do chúng lèo lái, để đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước của mình “. Trong tác phẩm ‘ Nền đệ tứ cộng hòa’ xuất bản năm 1959, sử gia Pháp là Jacques Fauvet, gọi chiến tranh Ðông Dương 1946-1954 được đề ra do bọn lãnh đạo ngu dốt, không phân minh và đầy lừa đảo. Nó có thể tránh được, nếu hai phía thực lòng. Rốt cục đã cướp đi hằng vạn mạng sống con người và tạo cơ hội để Hồ Chí Minh đem chủ thuyết và cùm xích Mác-Lê-Mao về giầy xéo đất nước và dân tộc mình, tới nay vẫn không ngoi lên khỏi vũng bùn ô uế của cái gọi là thiên đàng xã nghĩa, đang đứng trước nguy cơ bị diệt vong và làm nô lệ cho giặc Tàu.

Nhưng có một điều dù muốn hay không muốn nhìn nhận, đó là trùm cộng sản đệ tam quốc tế, qua cái tên cuối cùng ‘HỒ CHÍ MINH’ thật sự đã thao túng một phần lịch sử VN cận đại, trong hơn nửa thế kỷ. Ðây là một nhân vật ảo, mà mãi tới ngày cướp chính quyền tại Hà Nội, người ta mới thấy qua nhân dạng của một người đàn ông trạc ngũ tuần gầy gò bé nhỏ, phát âm trọ trẹ giọng Thanh Nghệ, mặc đại trào theo kiểu Mao Xếch Sáng, bốn túi, thế thôi.

Từ năm 1983, hai sử gia VN cận đại là tiến sĩ Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu đã may mắn khai quật được trong nấm mộ thời gian, tại kho lưu trữ hồ sơ mật Pháp, ba lá thư viết tay của Nguyễn Tất Thành, viết sau khi tới Pháp vào năm 1911. Tất cả viết bằng chữ Pháp, hai lá xin được nhập học E’cole Coloniale (Trường thuộc địa), lá thứ ba xin chính quyền thực dân can thiệp, hồi chức cho bố. Tất cả đều viết vào tháng 9-1911 với hộ tịch rõ ràng. Qua nội dung ta biết Nguyễn Tất Thành hay Nguyễn Sinh Côn, sinh năm 1892 tại Kim Liên, Nghệ An. Con ông Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy.

Thư viết với tâm nguyện “ Muốn được hữu dụng cho nước Pháp, để khai hóa người Việt “. Tất cả nội dung ba lá thư được công bố, đã làm sụp đổ hoàn toàn HUYỀN THOẠI xuất dương cứu nước của “ BÁC “ mà mấy chục năm qua, tai người Việt cả nước bị đau khổ vì bị nhồi nhét liên tục. Xui thêm “ BÁC “ còn bị tố cáo là không phải là TRAI TRINH như đảng nói, vì có nhiều vợ con rơi rớt khắp nơi, trong đó chính Nông Ðức Mạnh cũng là con NGƯỜI.

Góp phần xác quyết lý lịch các tên Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Tất Thành rồi Hồ Chí Minh cũng chỉ một người, còn có bức điện số 1229 do chính Hồ viết ngày 9-11-1950 gởi cho Uy Ban Nhân Dân xã Kim Liên, phân ưu cái chết của người Anh ruột kế là Nguyễn Tất Ðạt hay Nguyễn Sinh Khiêm, mất tại làng nhà vào ngày 15-10-1950. Trong thư còn nhắc tới bà chị cả là Nguyễn Thị Thanh, có ra Hà Nội thăm Hồ vào cuối năm 1946.

Ðứng trên phương diện sử quan, chúng ta hôm nay giống như người kể lại những chuyện xưa tích cũ, cho người đời sau biết, cho nên không hề thêm bớt hoặc mao tôn cương, theo kiểu viết sử của xã nghĩa thời trung cổ, chỉ biết nhắm mắt ca tụng lãnh tụ, mà không sợ người đọc mỉa mai khinh ói. Huống chi trên con đường đi tìm tung tích thật của ‘ bác hồ’, vô vàn kính yêu, sống mãi trong quần, chúng ta, đã có hằng núi tài liệu sách vở, đâu ai dám thêm bớt hay tự kể chuyện NGƯỜI như Trần Dân Tiên đã làm hay ngay trong cửa miệng của Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Việt Thường, Trần Ðộ, Nguyễn văn Trấn.. Tóm lại cuộc đời Hồ quả thật không biết đâu mà mò. Ðã thế còn dinh líu tới nhiều nhân vật lịch sử như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phan văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang và con cháu Nguyễn Thông ở Phan Thiết. Nhưng nay thì tất cả lịch sử bi thảm đẫm máu của đệ tam cộng sản quốc tế, do Hồ mang từ Nga-Tàu về đàn áp và gây khổ đau cho đất nước VN, đã lộ nguyên hình dưới ánh sáng mặt trời, từ năm 1930-2011 và chẳng biết chừng nào mới chấm dứt và chấm dứt như thế nào khi “ CSVN công khai tuyên bố theo Tàu “ qua miệng Nguyễn Chí Vịnh, cho dù Đại Họa Mất Nước VN về tay giặc Tàu đang xảy ra trên quê hương Hồng Lạc.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh từ hang Pắc Pó về Hà Nội, thực hiện Bước Đầu Lừa Đảo “ Bán Nước và Bán Dân Tộc Việt “ cho giặc Tàu. Giấc mộng “ Mãi Quốc Cầu Vinh “ của tên đại phản quốc tới ngày nay, coi như sắp hoàn thành trong ảo giác. Gọi là giấc mộng bởi vì người VN bây giờ không phải là những con bù nhìn chỉ biết cúi đầu nhận “ chỉ đạo “ của những con vẹt, qua cái gọi “ ủy ban nhân dân “. Họ cũng không còn sợ bị bắt bớ, tù đầy, bị thủ tiêu hay trù dập của công an, cán bộ vì “ bộ mặt bán nước “ của đảng đã làm thức tỉnh lòng yêu nước của mọi người, qua điển hình Hai Tháng Xuống Đường Biểu Tình Chống Giặc Cướp Trung Cộng, tại Hà Nội, Sài Gòn và Hải Ngoại.

Ngày tàn của đế quốc đỏ Trung Cộng sắp tới trước sự thù ghét khinh bỉ và xa lánh của nhân loại. Ngày chết của bọn bạo chúa, độc tài, tham ác và bán nước đang diễn ra dồn dập khắp Châu Phi và Trung Công. Sau khi Libye cáo chung, kế tiếp sẽ là Sirya và CSVN. Chạy đâu cũng không khỏi nắng.

“ Độc Lập hay là Chết ! “. Đó là một Chân Lý nên toàn dân Việt trong và ngoài nước đang liều chết, chống lại kẻ Nội Thù Bán Nước là Việt Cộng, dành quyền Chống Xâm Lăng Trung Cộng, để được Quyền Làm Người, Làm Chủ Thực Sự Đất Nước riêng của mình .

Vui mừng biết bao khi nhìn thấy thế hệ cha anh của chúng tôi, hôm nay đã có Thế Hệ Con Em cả nước, đứng dậy ngẩng mặt Nối Tiếp “ Sự Nghiệp Cứu Nước “ của Tổ Tiên ngày trước, không hổ danh là Con Lạc Cháu Hồng. Chết vinh hơn sống nhục, sống để mang tiếng là Việt Gian bán nước, thì sống để làm gì ?

Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di

Cuối tháng 8 -2011

Mường Giang

(lính già 143 – kbc 4424)

0 comments:

Powered By Blogger