Thursday, June 8, 2017

TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM DƯỚI CÁI NHÌN CỦA CÁC LÃNH TỤ HOA KỲ, ĐÔNG NAM Á, VÀ CÁC QUAN SÁT VIÊN QUỐC TẾ


VietHai Tran added 7 new photos — with Việt Dương Nhân and 26 others.
19 hrs
TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM DƯỚI CÁI NHÌN CỦA CÁC LÃNH TỤ HOA KỲ, ĐÔNG NAM Á, VÀ CÁC QUAN SÁT VIÊN QUỐC TẾ 

TS. Nguyễn Anh Tuấn Political Scientist
- Trong sưốt 40 năm hải ngoại, tôi có dịp nghe rất nhiều người nói về TT Ngô Đình Diệm. Những người thù ghét ông, lên án ông là con người độc tài, gia đình trị, Công giáo trị và kỳ thị Phật giáo. Ngược lại những người thương tiếc và tôn sùng ông thì ca ngợi khơi khơi ông đủ điều.
Con người thật của nhân vật Ngô Đình Diệm, và Cuộc Cách Mạng Dân Chủ Mà Ông Thực Hiện Suốt 9 Năm (1954-1963) để xây nên Hòn Ngọc Viễn Đông cho Miền Nam Việt Nam (MNVN) thì không mấy ai biết đến nơi đến chốn.
Phần thưởng dành cho ông là những đòn thù đâm chém tơi bời lên lưng ông suốt 9 năm, đã dưa đến cái chết thảm khốc kinh hoàng cho ông và bào đệ ông là Ngô Đình Nhu. Vì thế, những bế tắc của lịch sử không làm sao khai thông được.
Cả hai sự khen chê của những người Việt Nam thường chủ quan và thiên kiến, chỉ nhận xét hời hợt ngoài da hay mặt nổi của những hiện tượng xảy ra cho đất nước, nên rất thiếu giá trị khách quan, thiếu công bình và giá trị vững chắc.
Tuyệt nhiên tôi không thấy ai đào sâu hơn, bằng cách sử dụng sử quan, tức là nhìn con người ấy sống ra sao, đã làm những gì trong một bối cảnh lịch sử VN ở thời điểm tăm tối nhất, đau thương nhất và hỗn loạn nhất như thế, để từ đó đưa ra nhận định và phán xét về một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng lớn lao, không chỉ trên đất nước Việt Nam mà cả toàn vùng Đông Nam Á cũng như Hoa Kỳ và thế giới. Một nhân vật lịch sử TT Diệm có tầm cỡ lớn lao, nếu chỉ khen chê theo cảm tính và bản năng sẽ không bao giờ thấy được Sự Thật Của Lịch Sử. Muốn thay đổi và chuyển hóa vận mệnh và sinh mệnh cho đất nước, phải tìm cho ra Sự Thật Của Lịch Sử.
1- Trong mấy chục năm mòn mỏi tìm kiếm mẫu người điển hình lý tưởng Việt Nam Cộng Hòa của MN, sau khi đã nhìn rõ chân dung man rợ mẫu người XHCN của cách mạng CS, tôi vẫn không biết tìm ở đâu? 40 năm sau, tôi chợt nhớ tới Con Người VNCH Điển Hình Nhất - Chính Là Người Cộng Hòa Đã Đặt Viên Đá Đầu Tiên Để Xây Nên Nền Đệ I Việt Nam Cộng Hòa ngày 16 tháng 7-1955, và chỉ sau 9 năm đã dựng nên Hòn Ngọc Viễn Đông cho dân cho nước của ông. Nhưng con người VNCH đầu tiên này đã bị gục ngã thảm thiết bởi chính bàn tay của những người VN cùng người bạn Mỹ của ông.
2- Theo cuộc điều tra tỉ mỉ của Tướng Thomas Lane, “âm mưu cạm bẫy đã được dàn dựng bởinhững người CS ngoại hạng và siêu quầnbạt chúng… Hồ Chí Minh đã vẽ ra một kế họach để sử dụng các nhà sư đội lốt tại MNVN, nơi đó họ có thể khuấy động tơibời liên tục sự xung đột tôn giáo… Cuộcvận động quá nhơ nhớp bẩn thỉu đầy âm mưu gian trá, tìm mọi cách che dấu con người thật của TT Diệm và che dấu luôncon người thật của HCM và những ngườiCSVN. Tổng Thống Diệm là một người có đặc tính mẫu mực điển hình của một con người xả kỷ vô ngã, tự quên thân mình để dâng hiến trọn đời ông cho quê hương xứ sở ông, một con người với giá trị nhân tính sâu thẳm” (trích từ cuốn The Last Of Mandarins Diệm Of Việt Nam của tác giảAnthony Trawick Boucarey, 1965, trongnhững trang 145 và 146).
Trong tập sách của Boucarey, trang 1 có đoạn như sau:
Ngày 16 tháng 11-1964, Đại Sứ Hoa Kỳ, Frederick E. Nolting đã viết một bức thơ cho tờ New York Times như sau:
“Tôi không thể chần chừ cho tháng ngày qua đi mà không nói lên sự kính trọng của tôi khi tưởng nhớ đến một con người can đảm phi thường đã gục chết vì quê hương của ông một năm trước đây, người đó chính là Ngô Đình Diệm, cựu TT VNCH.
Những biến cố xảy ra từ khi lật đổ và ám sát ông vào tháng 11, những tia sáng được bật lên để soi vào những vấn đề mà ông phải đối mặt đương đầu trong suốt 9 năm ông làm TT trong một xứ sở có quá nhiều thương đau.
Trong những hoàn cảnh khó khăn và phức tạp, chính quyền của ông đã gặt hái được những thành quả lớn lao, ở đó nhiều trường học đã được xây cất, nhiều bệnh viện đã mọc lên, nhiều đường bay đã được thiết kế, đáng kể nhất là cải cách ruộng đất, và thành quả lớn lao nhất là xây dựng được quân đội VNCH hùng mạnh để bảo vệ đất nước trong cơn dầu sôi lửa bỏng, và một ý chí mãnh liệt để đứng lên chống trả những đe dọa. Tất cả những thành đạt đó trở thành những trở ngại làm cho CSBV không thể nào chiến thắng được MN.
Cái chết quá đau thương của TT Diệm, tạo nên một hình ảnh não nề đè nặng lên một đất nước có quá nhiều đổ vỡ và đau thương -- đó là điều mà đất nước của ông không vượt qua được. Ông Diệm là một nhà ái quốc, và tôi bảo đảm chắc chắn là ước mơ của ông là phục vụ cho người dân của ông, điều đó đã thể hiện suốt những năm dài kể từ khi biết ông, đó là làm sao đi đến thành công trong cuộc tranh đấu cho sự sống còn của đất nước Việt Nam để tiến tới những tiến bộ về phương diện chính trị, và tiến bộ xây dựng những giá trị chân thật cho con người.
Bi kịch đã diễn ra tại vùng nhiệt đới xanh tươi của Đông Nam Á, nhưng bi kịch làm cho con người xót xa thương cảm, và kinh hoàng như thời điểm của Bi Kịch Hy lạp thủa xưa. Đó là vóc dáng của một vị anh hùng dân tộc (national hero), người đã chiến đấu bền bỉ một cách hết sức dũng cảm để chống đỡ biết bao khó khăn, nghịch cảnh vây hãm lao lung tứ bề, cuối cùng đã phải gục chết thảm thiết trước số phận, số phận trong trường hợp này đến từ những kẻ thù công khai, những người bạn cũ của ông, và lỗi lầm của riêng ông. Khi ông nắm quyền hành quốc gia trong 9 năm trước đây, ông đã nói với đồng bào của ông rằng, “Hãy bước theo tôi nếu tôi tiến lên. Hãy giết tôi đi nếu tôi rút lui tháo chạy. Hãy trả thù cho tôi nếu tôi bị giết”.
Thủ phạm chính về cái chết của con người VNCH đầu tiên ấy chính là Hồ Chí Minh và đảng CSVN, còn lại tất cả, dù người Việt Nam hay Mỹ dính líu đến cái chết của TT Diệm, dù vô tình hay cố tình cũng đều là phương tiện hữu hiệu, là những con người tự nguyện để cho con sói già sỏ mũi dắt vào những âm mưu thần sầu quỉ khóc của họ Hồ ở Bắc Bộ Phủ. Con sói già quỉ quyệt này ném đá dấu tay tài tình tới mức độ dư luận nước Mỹ và Âu Châu tỏ ra rất kiêng nể ông ta, vì họ chỉ nhìn thấy chiếc mặt nạ mà không một ai biết bộ mặt thật của con sói già Hồ ly tinh này, nên chỉ chĩa mũi dùi phê phán tôn giáo này hay tôn giáo khác, phe này phe kia mà quên mất kẻ chủ mưu giết TT Diệm, một đối thủ hơn HCM tất cả mọi phương diện, tài năng cũng như đức độ, là người nếu còn sống thì ông ta và Đảng CSVN không bao giờ chiếm được được MN. Con sói già này và Đảng CSVN tự biết không làm gì được TT Diệm và quân dân MN, nên đã mượn tay những con người ngây thơ nhẹ dạ, mù quáng thiển cận tiếp tay với ông ta, không phải chỉ giết một vị anh hùng dân tộc của VN mà giết cả một quốc gia, phá hủy tan tành Hòn Ngọc Viễn Đông, giết luôn nền Đệ I Cộng Hòa Việt Nam ổn định, lương thiện và trong sạch nhất vùng Á Châu như Giáo Sư Wesley Fishel đã nhận thấy. Tội lỗi của con sói già này đúng là: Đẵn hết trúc Nam Sơn chẳng đủ để biênghi tội ác. Múc cạn nước Đông Hải không đủ để rửa sạch tanh nhơ (Nguyễn Trãi).
Tự nguyện tiếp tay và trở thành phương tiện hữu hiệu cho con sói già và CSVN âm mưu giết giết hại một con người VNCH của MNVN, những người Việt Nam và người Mỹ ngây thơ nhẹ dạ, mù quáng thiển cận trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã thuyết phục TT Kennedy cúp viện trợ và không ủng hộ TT Diệm nữa.
3- Ngược lại, Chủ Tịch Quốc Hội Hoa Kỳ là John Mac Comick và Dân Biểu Edna Kelly đã sáng suốt cảnh giác TT Kennedy rằng:
“Gần như không có ai ưu tư tới một điểm là, Ông Diệm và chính quyền MN đang phải đối đầu với rất nhiều trở ngại khó khăn, xứ sở quê hương của ông đang đổ vỡ tan hoang mọi bề, với sự tràn ngập của CS, băng đảng, và các giáo phái võ trang xung đột khắp nơi, TT Diệm không chỉ làm sao sống còn tồn tại được trong 9 năm, và đưa đến nhiều tiến bộ tốt đẹp trong việc tái lập lại trật tự quốc gia, bảo vệ quyền tự do cho dân, thi hành công lý xã hội để làm đời sống toàn dân tốt đẹp hơn.
Thế mà tại sao không thấy ai để tâm tới điểm là, không có ông Diệm không làm sao ổn định được Việt Nam và cả Đông Dương đang trong những cơn lốc và hỗn loạn tơi bời, rồi sau đó chỗ đứng của Hoa Kỳ trong chiến lược toàn cầu sẽ gãy đổ suy vong”.
Chính quyền Kennedy và những người trong Bộ Ngoại Giao Hoa kỳ đã bỏ ngoài tai những lời cảnh giác đầy tính cách tiên tri của Quốc Hội Hoa Kỳ về tương lai đen tối trong những chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ tại Á Châu, vì giết TT Diệm và mất MNVN vào tay CSVN cũng chính là tay sai của CS Hoa Lục.
Kennedy đã lầm lạc, gởi con gấu già lạnh lùng đầy nanh vuốt Henry Cabot Lodge đến quê hương đau khổ ngập tràn của VN để ủng hộ những tướng lãnh MN – là những con người đang ôm ấp giấc mơ tranh danh đoạt lợi, tranh bá đồ vương và tranh quyền cướp nước.
Thực ra mà nói, đây là những con người được coi là “đường đường một đấng”, có thể không thiếu cái “dũng khí” nhưng cũng chỉ sống bằng bản năng, không có tâm hồn và trí tuệ sâu sắc, nhất là thiếu đời sống tinh thần, nên về mặt tâm thức và ý thức rất non nớt, dễ bị mê hoặc, bị mời gọi lả lơi và quyến rũ mê hồn bởi giấc mơ quyền uy, quyền lực và quyền hành cũng như quyền lợi ích kỷ của riêng họ, nên chẳng bao giờ nhận ra là, tất cả những việc làm của họ để giết TT Diệm là tự nguyện để cho con sói già Bắc Bộ Phủ sỏ mũi dẫn dắt nhẹ nhàng vào những âm mưu cực kỳ thâm độc của hắn. Bởi vì những con người này, kể cả con gấu già lạnh lùng đầy nanh vuốt của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng chẳng thoát được những tính toán của con sói già Bắc Bộ Phủ.
Con sói già Hồ ly tinh này không chỉ muốn giết một mình “con người VNCH đầu tiên” của MNVN, mà hắn muốn giết cả một quốc gia, giết luôn nền Đệ I Cộng Hòa Việt Nam và giết luôn hơn 10 triệu dân MN, giết luôn đời sống ấm êm của họ mà những
Con Người VNCH đã đổ bao nước mắt mồ hôi mới hoàn thành được cho toàn dân MNVN, để làm gì? hay chỉ để hoàn thành giấc mơmù lòa và mê sảng XHCN của hắn?
Đó mới là mục tiêu tối hậu của con sói già. Trong khi tướng lãnh MN và Hoa Kỳ chỉ muốn hạ bệ TT Diệm để thay thế lãnh đạo MNVN bằng nhóm quân nhân hoàn toàn thiếu hiểu biết và kiến thức về chính trị trong hoàn cảnh lịch sử quá tăm tối của đất nước cũng như toàn bộ đời sống của toàn dân MN.
3- Sau khi các tướng lãnh lật đổ Tổng Thống hợp hiến hợp pháp, chính thống và được dân MN bầu lên nắm quyền hành chính quyền MN, Tướng Thomas Lane đưa ra nhận định:
“Tổng Thống Diệm bị người ta thay thế bằng những con người quá độc ác tàn bạo, là những người giống hệt Fidel Castro, không bao giờ ngập ngừng hành quyết các tù nhân”.
Tướng Thomas Lane đưa ra nhận xét về TT Diệm: “lịch sử cho thấy rằng TT Diệm đúng là một người quá nhân đạo và đầy lòng bácái (humane and cheritable man) để sốngcòn trong bầu không khí của quyền lực vào 1963. Ông đã không có đủ tàn nhẫn và độc ác để bắt giam và xét xử nhữngquân nhân tạo phản, và thay thế bằng những người trung thành của ông. Ông cố gắng quá nhiều và quá lâu để hòa hoãn với Phật giáo là những người không thề nào chịu hòa hoãn được (impossible conciliation). Ngay cả việc trục xuất những nhà báo Mỹ đã vo tròn bóp méo sự thật chính là kẻ thù quá cay đắng của ông.
Thay vì làm như thế, ông đã cố gắng hòa giải và giải tỏa những dị biệt mà không có những hành động cần thiết cho sự sống còn của chính quyền MN, chính sự khoan hòa đã khuyến khích sự nổi loạn… khi không quân nổi dậy ném bom Dinh Độc Lập đã xô đẩy tình thế vào cơn hỗn loạn thêm. Lẽ ra người phi công sẽ bị kết án và bị hành quyết. TT Diệm đã không bao giờ đem người phi công ra xét xử trước tòa án. Ông khước từ đòi mạng sống con người vì những lý do chính trị, dù đó là một cuộc nổi loạn.”
4- Giáo Sư Wesley Fishel, đứng đầu nhóm cố vấn đặc biệt gồm 54 Giáo Sư chính trị học và quản trị công quyền do Michigan State University (MSU) tổ chức với 200 người Việt Nam phụ tá để giúp MNVN xây nên nền Đệ I Cộng Hóa Việt Nam trong 9 năm (1954-1963) đã viết xuống như sau:
“Như sự kiện cho thấy, chỉ có một điều mà những học giả uyên thâm đều đã đồng ý khi nhìn vào năm đầu tiên nắm chính quyền của ông Diệm là chính quyền của ông sẽ tan rã bất cứ lúc nào, sự thất bạilà điều không thể nào tránh được. Nhưng ngược lại, ngày nay ông Diệm vẫn còn hiện diện bên chúng ta, và chế độ của ông chắc chắn là một chế độ ổn định nhất và lương thiện trong sạch nhất vùng Á Châu.
Trước những thành quả vĩ đại đó, ông đã được nhiệt liệt hoan hô chúc tụng tại các quốc gia mà Ông đã viếng thăm như Washington, Manila, Tân Delhi, Rangoon, và Bankok, và chính quyền của ông đã được 45 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc thừa nhận, chắc chắnông phải là một con người phi thường, một con người đã bị ngộ nhận (misunderstood one) quá nhiều. (trích từ hồ sơ 20, trong cuốn Vietnam And America, the most comprehensive documented history of the Vietnam War).
5- Theo nhận xét của Philippe Deviller, một sử gia lỗi lạc đương thời, nhìn TT Diệm như sau: “bước vào một hoàn cảnh cực kỳ đen tối, đó là một người Sĩ Phu, can đảm phi thường, và là con người của nguyên tắc vào tuổi 53. Ông là một người Quốc Gia được kính trọng nhất (the most respected man) và là người có ảnh hưởng lớn lao nhất và là một người sống trọn vẹn cho đức tin Công giáo... sự can đảm hiếm thấy nơi các lãnh tụ chính trị, rất coi trọng đạo đức gia đình, tính chịu đựng bền bỉ, đó là người không bao giờ thiếu sự chính trực liêm chính. Ông không bao giờ không cư xử công bình với mọi người, kể cả cho kẻ thù của ông một cơ hội. Ông đã không bao giờ ra lệnh xử tử những người đã cố gắng giết ông”. Deviller nói thêm“Tất cả đối thủ lúc ban đầu của ông đều đánh giá ông rất thấp”.
6- Đại Sứ Hoa Kỳ là Frederick Nolting thì khuyên những người chống đối TT Diệm rằng, “một sự thay đổi tuyệt vời sẽ thành đạt được cho đất nước này, nếu tất cả những ai chê bai chỉ trích chính quyền của họ, thì họ nên tìm cách cộng tác với chính quyền và làm việc ngay trong chính quyền để cải thiện và làm mọi việc tốt đẹp hơn”.
8- Vào này 15 tháng 10-1955, TNS Manfield thăm VNCH trong hai tháng đã có nhận xét về TT Diệm như sau:
“một thanh danh vang vọng khắp đất nước của ông, với đường lối quốc gia chân chính, và có những dự tính rất trong sáng. Nhưng đã có “những vận động lớn laovới âm mưu lật đổ” do những người bất hợp tác (none cooperation) và những kẻ phá hoại; tất cả chỉ muốn ngăn chặn ông Diệm thực thi những chương trình xây dựng của ông, gồm có cả việc nổi bật nhất là loại trừ những gì chỉ đã đưa đến những xấu xa tồi bại cho dân cho nước, và những bất công và bất bình đẳng trong xã hội Việt Nam.”
9- Một quan sát viên khác là Ralph Lee Smith thì cho rằng,
“Miền Nam Việt Nam thật may mắn đã sinh ra được một lãnh tụ quốc gia trong thời gian tranh đấu cho nền độc lập của đất nước. Ông đã phải đối đầu hứng chịu gần như tất cả khó khăn và nghịch cảnh.
Ông Diệm đã đóng trọn vẹn vai trò dù chưa sửa soạn một cách thật can đảm và sáng suốt… một hình ảnh cao cả và khả
kính của một lãnh tụ quốc gia trong lòng những người dân bình thường (Common people).”
Smith còn cho biết thêm, còn có một quan sát viên khác thấy như sau:
“Chuyến đi thăm các vùng trồng lúa tại MN vào tháng 1-1955, ông Diệm tuần vừa qua đã đón nhận sự tán thưởng đầy nhiệt tình từ những người dân của ông. Lúa mọc tràn ngập trên các cánh đồng chung quanh ông, có tiếng gồng vang lên như reo vui, những người lính chiến thắng Việt Cộng đã ngồi ăn chung trên bàn ăn của ông; những người di cư tỵ nạn ngồi đâu lưng với nhau chung quanh ông trong căn nhà lá của họ”, và người quan sát viên đó kết luận, “sự kiện sống động này đã minh xác sức mạnh của ông Diệm nằm ngay chính sự lớn mạnh của những tâm hồn quốc gia dân tộc đang sống tại các làng xã, đó là những con người đã đau khổ quá nhiều vì chiến tranh do CS gây ra, những người dân này còn hơn cả những người ngồi uống rượu tại các nhà hàng Pháp tại Sàigon”.
10- Bên cạnh đó, Bernard Fall nhìn thấy nơi ông Diệm:
“Một con người đã nắm giữ một vai trò để giải quyết mọi vấn đề trước một tình thế quá đen tối, đó là TT Ngô Đình Diệm, một người theo tinh thần Kito giáo rất uyển chuyển, có một đức tin tôn giáo thật sâu xa, gánh trên đôi vai gánh nặng để dìu dắt che chở và nuôi sống 10.5 triệu con người tại MNVN, thêm vào đó phải lo cho gần 1 triệu người di cư từ Miền Bắc vào lánh nạn CS, bảo vệ nền độc lập và lo an toàn cho đất nước. Ngoài ông không có người nào tại Á Châu gặp nhiều khó khăn trở ngại như thế, phải gánh chịu một gánh nặng quá gian nan trên đường tiến tới Trật Tự Và Công Lýcho dân cho nước.”
11- Trong một chương sách của Joseph Buttinger, The Miracle of Việt Nam, có đoạn:
“sự chính trực vô tì vết (untained integrity) với thái độ quyết liệt chối từ sự thỏa hiệp với Pháp, và với sự hiểu biết sâu xa khi nhìn vào bản chất những kẻ thù của ông, trên chóp đỉnh của lòng dũng cảm ông đã cho cả kẻ thù và bạn bè ông nhìn thấy ông xây dựng nền độc lập cho VN và đoàn kết chính quyền làm sao cho thật vững mạnh, vì đó là điều đất nước của ông cần hơn thực phẩm và bom đạn.”
Buttinger còn nói thêm: “đó là một phần trong cái vĩ đại của một con người chính trị như ông Diệm”.
12- Có lẽ người hiểu tường tận về TT Diệm không ai hơn là người cầm đầu nhóm cố vấn trong cái “lõi” của chính quyền TT Diệm, Wesley Fishel có lần nói:
“Những kết tội chính quyền độc tài thiếu căn bản vững chắc (lack solid substance). Thực tế chính quyền Ngô Đình Diệm không thể nào nới tay khi những đe dọa quá ghê gớm khi nhìn chỗ nào cũng thấy tràn ngập khắp nơi. Nếu không có những đe dọa của CSBV người ta có thể nhìn thấy nhiều tự do hơn tại MNVN như chúng ta có tại Hoa Kỳ. Sự thật là phần lớn các giáo phái thù ghét ông, sự đố kỵ ghen ghét của người Pháp lúc nào cũng chờ đợi để tấn công ông tới tấp vào những điểm yếu của ông; thêm nữa là những người Mỹ đóng đô ngay tại Sàigon cũng chống ông Diệm.”
Fishel còn nói thêm:
“Tôi còn nhớ rất rõ khi viếng thăm VN vào 1958, đã có những viên chức ngoại giao HK có nhiều lần làm mất uy tín, thổi phồng sự thất bại, chế riễu tôn giáo của ông Diệm và gia đình ông, họ đã kêu gọi HK thay đổi chính sách tại VN. Ngay từ lúc ban đầu, các viên chức ngoại giao và báo chí háo hức đi tìm kiếm lỗi lầm của ông và của chính quyền của ông; không ai cần biết tới những hậu quả sắp tới là cái gì?”
13- Dưới mắt của Cựu Ngoại Trưởng Walter Roberton, ông Diệm là:
“Một con người tận tụy, dũng liệt và xoay trở thật tháo vát… trong ông, đất nước ông đã tìm được một lãnh tụ thật xứng đáng với sự chính trực liêm khiết của ông được gần như toàn dân MNVN thừa nhận.
Vùng Đông Nam Á đã đưa đến cho chúng ta một TT Diệm với đức tính vĩ đại, và toàn thể thế giới tự do sẽ trở nên phồn vinh thịnh vượng hơn, khi học từ bài học quyết tâm và sức chịu đựng kiên cường của một người như ông Diệm.”
14- Vào năm 1959, R. G. Casey Bộ Trưởng Úc đã viết rằng,
“Những người Mỹ đã lấy những tiêu chuẩn của HK để phê phán là bất công.
Có hai sự kiện cần phải nhớ bất cứ khi nào muốn chỉ trích chính quyền VN. Thứ nhất, Việt Nam Là Tiền Đồn Của Chiến Tranh Lạnh. Chính quyền MN không thể bỏ ngỏ tênh hênh mọi thứ, vì tạo cho những kẻ thù khai thác trục lợi. Đó Là Điều Sẽ Trở Thành Nguy Hiểm, Chết Người , Không Chỉ Cho VN, Mà Sẽ Phá Sụp Đổ Những Quyền Lợi Chiến Lược Của Thế Giới Tự Do Tại Vùng Đông Nam Á.
Thứ hai, thực thi dân chủ trên một quốc gia với những quan niệm hoàn toàn mới lạ tại đất nước VN, dân chủ cần có thời gian để xây dựng các cơ cấu, những truyền thống dân chủ và các tập quán dân chủ cần phải được phát triển từ từ mới có thể ứng dụng những quyền dân chủ, ý thức chính trị dân chủ trong đời sống của dân, mà cần thời gian từ từ từng bước một để nó ăn sâu và lan rộng trong dân chúng.
Hoa Kỳ không có đủ lý do chính đáng, chỉ vì một ngày không được vui mà lìa bỏ xa lánh một người như ông Diệm là điều không bao giờ có thể chấp nhận được… trong một quốc gia mà 90% là người thất học, ông Diệm làm được như thế là Một Phép Lạ Rồi”.
15- Khi Phó Tổng Thống Lyndon Johnson đến
MNVN để điều tra và duyệt xét lại tình hình VN trong giai đoạn tăm tối nhất, ông nhận thấy TT Diệm đúng là đã tạo được một phép lạ chính trị tại MNVN.
Gần 1 triệu dân di cư Miền Bắc lánh nạn CS đã được giải quyết vô cùng tốt đẹp, đường xá phát triển khắp nơi. Đặc biệt về canh nông đã thành công lớn. PTT Johnson kết luận: “Ngô Đình Diệm Là Winston Churchill Của Á Châu”.
16- Trong lúc đó, TNS Mike Manfiel tuyên bố tại Hoa Kỳ về TT Diệm: “Vị Cứu Tinh Của Tất Cả Vùng Đông Nam Á” (the savior of all Southeast Asia).
17- Bên cạnh nhận định của Mike Manfiel là
nhận định của TNS Jacob Javits về TT Diệm:
“Thực Sự Là Một Trong Những Vị Anh Hùng Của Thế Giới Tự Do” (One of the real heroes of the free world). (trích từ Congresstional record, ngày May 13-1957).
18- Theo nhận định của tờ New York Times, ngày 13 tháng 6-1961:
“TT Diệm đã tái tổ chức lại chính quyền, ông chú tâm vào quyền hành pháp trong các bộ… những thay đổi này hứa hẹn guồng máy công quyền sẽ vận hành tốt đẹp hơn và hiệu quả hơn”.
19- Trong lúc tờ báo Time cho rằng:
“Một ông Diệm đã bị hành hạ tơi bời mà ông vẫn tổ chức bầu cử rất hợp lý và lương thiện… và chiến thắng oanh liệt trong các cuộc bầu cử.” Tờ Time đưa ra giải thích: “ông đã được 88% phiếu của dân dồn cho ông, vì sự thật là đất nước VNphồn vinh thịnh vượng.”
Ngoài ra tờ Time còn viết thêm:
“Đây là cuộc chiến thắng gấp đôi (double victory) trước những đối thủ cộng sản và những người đối lập không CS. Kết quả rực rỡ đến từ “những chương trình cải cách”. Kết quả hiển nhiên đó xác minh rằng, MNVN “Đã Nghiền Nát Uy Danh Của Cách Mạng CộngSản”, và xã hội Việt Nam đã có được một lãnh tụ có ý chí thật mãnh liệt”(Strong will leader).
Chính quyền Ngô Đình Diệm đã thực hành những chương trình cải cách nhờ những thúc đẩy và trợ giúp bởi những người Mỹ, đứng đầu là Tiến Sĩ Eugene Stanley, cải cách việc huấn luyện các viên chức chính quyền địa phương làm sao cho họ hợp nhất với chính quyền trung ương.
20- Vào ngày 15 tháng 2-1962, Đại Sứ HK Nolting đã tuyên bố:
“Chính quyền Việt Nam dưới sự hy sinh và can đảm phi thường trong vai trò lãnh đạo của ông Diệm, đã cố gắng vượt bực dưới những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn và đã tạo được những tiến bộ chính trị, xã hội, kinh tế cho toàn dân, với sự trợ giúp của HK”. Cũng theo Đại Sứ Nolting cho biết, chính quyền MNVN là: “một chế độ hợp hiến do dân bầu lên (Elected and constitutional regime). Vào tháng 12-1962 chính quyền TT Diệm đã công bố rằng: đã có 4,077 chương trình xây dựng các ấp chiến lược, trên tổng số 11,182 chương trình đã được hoàn tất với 39% dân chúng MN đã sống trong các cộng đồng này”.
------------------------------------------------------------------------------------------

Những chuyện bên lề Hội Nghị Fontainebleau 1946
Bút Sử
Inline images 1
Thường qua các bài viết người ta chỉ biết Hồ Chí Minh(HCM) thất bại nặng nề tại hội nghị Fontainebleau bên Pháp xảy ra từ 7-9/1946, khi phe bảo thủ lấy lại quốc hội từ phe thiên tả. Những chi tiết 4 tháng HCM ở Pháp không được Đảng Cộng Sản Việt Nam trình bày rõ rệt để thấy ra con người và việc làm thật của ông Hồ. Những chính khách, đồng chí, báo giới nhìn và nhận xét HCM như thế nào? Bài viết này xin đưa ra một số tài liệu cụ thể nhằm soi rọi thêm lịch sử trung thực mà đã nhiều năm bị Đảng xuyên tạc cũng như tạo dựng về con người HCM.
Trước khi lên máy bay dự hội nghị Fontainebleau, HCM đã đoán chắc phe bảo thủ thắng cử trong kỳ bầu cử ngày 2/6/1946 sắp diễn ra. Ngày 31/5/1946 Hồ cùng tướng Pháp Raoul Salan (thiên tả) lên máy bay sang Pháp. Trạm nghỉ chân tại Ấn Độ, hai người “phải nằm chung một cái màn trong nhà vòm dã chiến mà quân đội Anh vừa rút đi…”
Trong những lần tiếp xúc ấy, lúc đầu tướng Xalăng với tư cách là Tư lệnh quân đội Pháp, ngạo mạn đòi Chính phủ Hồ Chí Minh phải hạ vũ khí đầu hàng. (Hồ Chí Minh Tên Người Sáng Mãi, Hoàng Sơn Cường, 2008, trang 99)
Khi Salan khuyên HCM nên đầu hàng là ông ta cũng đã đoán tình hình đang rất căng thẳng tại Pháp. Phe bảo thủ sẽ có thái độ cứng rắn với cộng sản, nhất là không bao giờ chấp nhận Hiệp Ước Sơ Bộ mà HCM đang vận động, trong đó có điều khoản “thống nhất 3 kỳ” nghĩa là Hồ muốn cả nước Việt Nam bị nhuộm đỏ. Ngay cả khi Võ Nguyên Giáp họp với thống đốc d’Argenlieu vào 4/1946 tại Đà Lạt, cũng tuyên bố với báo chí rằng “chiến tranh không thể tránh khỏi.”
Phái đoàn HCM đi riêng. Trước đó vài ngày phái đoàn chính thức do Phạm Văn Đồng lãnh đạo sang Pháp dự hội nghị. Nhóm của ông Đồng có ông Nguyễn Tường Tam (người quốc gia) nhưng ông Tam tẩu thoát khi khám phá ra HCM là một tên quốc tế cộng sản sừng sỏ cùng những việc làm ám muội.
Tác giả Sainteny thuật lại hình ảnh lo sợ thê thảm của HCM khi vừa từ máy bay bước ra trước đám đông tại Paris. Xin dẫn chứng một số đoạn từ cuốn “Ho Chi Minh and His Vietnam, Jean Sainteny, 1972.”
Glancing at Ho, I observed that he was deathly pale. His eyes glittered, and when he tried to speak to me, his throat was so tight that he cound not utter a word. As the plane stopped on the runway, he grasped my arm.“Stay close to me,” he said. “There’s such a crowd!” (page 76) – Liếc nhìn Hồ, tôi nhận thấy rằng ông ta tái đi như chết. Mắt ông ta chớp lia, và khi ông ta cố gắng nói với tôi, cuống họng ông căng lại đến nỗi không thốt ra được một lời. Khi máy bay ngừng ở sân bay, ông ta níu cánh tay tôi. “Hãy đứng gần tôi,” ông ta nói. “Đám người đông quá!”
Về phương cách ngoại giao thì ông Hồ rất là mù tịt, mặc dù đã có 30 năm bôn ba nước ngoài – Ho’s completely ignorance in these matters, Dumaine tried to teach him the essential notions of diplomatic practice, but Ho Chi Minh, while submitting to this instruction, still maintained his characteristic disarmingly ingenuous manner (page 77) – Hoàn toàn ngu dốt về vấn đề này, Dumaine cố gắng chỉ dạy ông ta khái niệm căn bản về thủ tục ngoại giao, nhưng Ho Chi Minh, khi chịu sự chỉ dạy, ông ta vẫn giữ cách như là thật thà không hung hăng.
Những người tháp tùng HCM đã khai với đại sứ Pháp Sainteny rằng họ rất lo bị chính phủ mới đắc cử bắt giữ.
Many of his partisans thought he was committing a serious error in going to France. The risk of falling into a trap haunted their minds. Some of those who accompanied him to Paris confessed to me afterward that they had been afraid of being arrested (page 69) – Nhiều người tháp tùng theo HCM nghĩ ông ta đã tự hại mình với một sai lầm khi qua Pháp. Sự rủi ro là rơi vào cạm bẫy đã ám ảnh đầu óc họ. Vài người trong nhóm hộ tống Hồ đến Paris đã thú nhận với tôi sau khi họ cảm thấy lo sợ bị bắt giữ.
The government crisis intervened; the cabinet presided over by Felix Gouin had just been overturned when Ho arrived (page 72) – Cơn khủng hoảng trong chính phủ xảy ra giữa các bên; nội các nắm quyền bởi Felix Gouin vừa bị lật đổ khi Hồ đến.
While the communists fervently supported the Viet revindications, the conservatives, in reaction to this, encouraged the French negotiators to stand firm and scream“treason” at anyone who gave in to Vietnamese demands (page 83) – Khi mà những người cộng sản nồng nhiệt ủng hộ phía Việt Nam về sự chính đáng, thì thành phần bảo thủ có phản ứng ngược lại về vấn đề này là cổ vũ những người Pháp đàm phán hãy đứng vững và hét lên chữ “phản bội” vào mặt những ai đáp ứng những đòi hỏi từ phe người Việt Nam.
Tác giả Sainteny còn nhận xét rằng HCM tin vào sự tử tế của nước Pháp, lúc này lại là phe chống cộng nắm quyền.
He agreed to travel to a country that still exercised protectorate powers over Indochina, a powerful nation that had pursued him for almost thirty years and had condemned him to death! ( page 70) – Ông ta bằng lòng đi tới một quốc gia mà quốc gia này vẫn còn thi hành quyền bảo hộ tại Đông Dương, một nước rất uy quyền đã từng truy nã ông ta trong khoảng 30 năm và kết án ông tội chết.
Một số người Pháp cũng kết tội Hồ là không lo vấn đề độc lập cho Việt Nam mà lại bằng lòng nằm trong Liên Hiệp Pháp qua việc ký kết Hiệp Ước Sơ Bộ ngày 6/3/1946, chịu sự chi phối của Pháp (Pháp mẹ, phe Đảng Xã Hội và Cộng Sản), nay phe bảo thủ (thủ tướng Bidault) lên nắm quyền mà HCM vẫn còn tinh thần lệ thuộc qua hành động ký với Marius Moutet tạm ước Modus Vivendi ngày 14/9/1946, trước khi lên tàu về Việt Nam.
Không ít người Việt tại Pháp lúc đó, trước khi HCM về nước, đã biểu tình chống đối về hành động làm tay sai cho Pháp cộng. Bài viết lên tiếng được đăng tải có nội dung như sau:
You have signed an agreement accepting autonomy for Vietnam, not its independence. To the extent that we had faith in you when your name stood for great revolutionary thought, we are now full of anger and ashamed at having chosen you as our leader. You have backslided, you have betrayed your own ideas. You are betraying the grandiose destiny of the Vietnamese people…(page 73) – Ông ký hiệp ước chấp nhận khu tự trị cho Việt Nam, không phải độc lập. Trong phạm vi mà chúng tôi đặt niềm tin ở ông khi tên ông đại diện cho tư tưởng lớn về cách mạng, chúng tôi bây giờ đang dâng đầy sự phẩn nộ và nhục nhã khi chọn ông là người lãnh đạo. Ông đã sai trái, ông đã phản bội lại ngay chính kế hoạch hành động của ông. Ông đang phản bội vận mệnh cao cả của người dân Việt Nam.
Dĩ nhiên, ông Maurice Thorez, phó thủ tướng kiêm chủ tịch Đảng Cộng Sản Pháp, thì rất hân hoan chấp nhận hiệp ước. Ông ta còn hăm dọa những ai chống lại là sẽ dùng súng để đương đầu: If the Vietnamese do not respect the terms, we will take the necessary measures and let guns speak for us, if need be. (page 71) – Nếu người Việt Nam (phe quốc gia và phe cộng sản) không tôn trọng những điều khoản, chúng ta sẽ có biện pháp cần thiết và để súng nói rõ cho chúng ta nếu cần thiết.
Có giai đoạn khi Hiệp Ước Sơ Bộ đang thực thi tại miền Bắc, nghĩa là Pháp cộng và Việt Minh cùng phe nhau tấn công các đảng phái quốc gia, nhưng gần tới lúc chấm dứt hội nghị Fontainebleau thì phe Pháp lại bị tấn công. HCM ở Pháp biết tin này, và Sainteny ngỏ ý với Hồ là nên lên tiềng can thiệp, nhưng Hồ làm ngơ.
Hoàn toàn thật bại khi vận động 4 tháng tại Pháp, HCM không muốn trở về nước với hai bàn tay không, vì như vậy là cơ hội ông bị mất hết quyền hành (vừa phe quốc gia chống, vừa phe các đồng chí của ông chống) nên nghĩ ra thủ đoạn là ký tạm ước Modus Vivendi với Bộ Trưởng Thuộc Địa Marius Moutet ngày 14/9/1946. Bởi cái tạm ước này chỉ giữa 2 người, không phải chính phủ Pháp, nên không mang giá trị gì cả; hơn nữa nó cũng na ná Hiệp Ước Sơ Bộ mang Pháp về cai trị Việt Nam, mà Pháp này là Pháp chống cộng, không phải Pháp của Hiệp Ước Sơ Bộ. Chính Hồ cũng tâm sự với Sainteny đó là kế sách.
“Don’t let me leave France like this”, he said one day in the presence of Marius Moutet, minister of colonies. “Arm me against those who are trying to outstrip me…” (page 87) – “Đừng để tôi rời nước Pháp như thế này”, ông ta nói một ngày nọ trước mặt ông Marius Moutet, bộ trưởng thuộc địa. “Trang bị cho tôi để chống lại những ai đang muốn qua mặt tôi…”
Sainteny ghi là HCM cũng đã thành thật nói ra điều trên, nhưng – his attitude seemed to prove to others his duplicity, his Machiavellianism (page 87) -thái độ của ông ta chứng tỏ cho những người khác rằng ông là kẻ hai mang, là kẻ có có thủ đoạn nham hiểm.
Ngay lúc đó, một số người Pháp đã nghi ngờ rằng hành động này của HCM là cách lợi dụng, qua việc mang về nước cái Modus Vivendi để trấn an, rồi sau đó tước lột hết vũ khí của phe địch (lúc này chính phủ liên hiệp gồm cả 2 phe quốc gia và cộng sản, và 2 phe đều có người chống đối HCM, cộng thêm các chính đảng người quốc gia).
Và chính HCM cũng nhận biết hành động tội ác của mình khi nửa đêm đến nhà ông Moutet và ép ông ta ký vào tạm ước được biên soạn sẵn. Hồ đã nói gì sau khi ký vào miếng giấy đó? Sainteny ghi lại: I did not hear him say it, but others did: “I have just signed my death warrant!” (page 88) – Tôi đã không nghe ông ta nói điều đó, nhưng những người khác đã nghe: “Tôi vừa ký bản án tử hình của tôi!”
Không những Sainteny mà còn nhiều chính trị gia, học giả, nhà báo đã viết về HCM với đầy thủ thuật. Điều đáng ghi nhận là thế giới tự do biết Hồ là một tên cộng sản sừng sỏ, là một người cộng sản làm việc cho đệ tam quốc tế toàn thời gian có lãnh lương, nhưng Hồ vẫn được đối xử một cách đàng hoàng tại nước Pháp 1946, mặc dù hai bên trong thế đối nghịch.
Albert Sarraut, cựu thống đốc Đông Dương, một người chống cộng triệt để, cũng đã giáp mặt Hồ tại một buổi tiệc do Sainteny tổ chức vào 7/1946. HCM lấy làm ngạc nhiên khi Sarraut cũng vui cười chào hỏi. Nhưng rồi, sau đó trong thế thượng phong, ông Sarraut khôi hài nhưng rất mỉa mai, như đâm thẳng vào tim kẻ gian HCM – Well, here you are, you old brigand. I have you within reach at last! What a good part of my life I have spent pursuing you! (page 81) – Hay lắm, ông ở đây rồi, tên ăn cướp già. Cuối cùng thì tôi bắt ông trong tầm tay! Thật là một khoảng đời thú vị của tôi khi tôi đã và đang tốn công truy nã ông.
Lời nói trên của Albert Sarraut như một báo hiệu về số phận của kẻ cướp Hồ Chí Minh – cướp chính phủ Trần Trọng Kim ngày 17/8/1945. Có phải đó cũng là thông điệp cho Hồ để chuẩn bị cuộc chiến tranh ý thức hệ tại Đông Dương kể từ 12/1946.

Bút Sử
Sources: Ho Chi Minh and His Vietnam, Jean Sainteny, English Translation, 1972

0 comments:

Powered By Blogger