Thế chiến thứ hai chấm dứt năm 1945, nhưng cho đến năm 1951 Hội nghị
tại San Francisco (Hoa Kỳ) giữa Nhật Bản và các nước Đồng minh mới diễn
ra để Nhật Bản xác định lập trường hòa bình, từ bỏ chủ quyền trên các
vùng đất Nhật Bản chiếm đóng trong thế chiến, bàn chuyện Nhật Bản bồi
thường cho các nạn nhân và tù binh chiến tranh, cũng như quyết định chấm
dứt quân đội nước ngoài chiếm đóng Nhật Bản và trao trả chủ quyền lại
cho Nhật Bản.
1. Nhật bản thất trận
Nhật Bản xâm lăng Mãn Châu năm 1931, lập ra Mãn Châu Quốc năm 1932, đưa
vị vua cuối cùng của nhà Thanh là Phổ Nghi (Pu Yi, trị vì Trung Hoa
1908-1912) lên làm giám quốc vì nhà Thanh gốc người Mãn Châu. Nhật chiếm
Nam Kinh (Trung Hoa) ngày 13-12-1937, gây ra cuộc thảm sát kinh hoàng
trong 6 tuần lễ, giết hại khoảng 300,000 dân Trung Hoa.
Ngày 25-11-1936, Nhật ký với Đức hiệp ước chống Đệ tam Quốc tế (Anti
Cominter Pact) nhắm vào Liên Xô. Năm sau, Ý gia nhập tổ chức nầy ngày
6-11-1937. Ba nước còn ký Hiệp ước Liên minh tay ba tại Berlin ngày
27-9-1940, thường được gọi là Trục Bá Linh–La Mã–Đông Kinh
(Berlin–Roma–Tokyo Axis). Từ đó, trong khi Đức Ý tung hoành ở Âu Châu,
thì Nhật bành trướng ở Á Châu.
Nhật đưa quân đến Đông Dương năm 1940, nhưng vẫn để Pháp cai trị Đông
Dương. Ngày 7-12-1941, Nhật bất ngờ tấn công Pearl Harbor (Hawaii), tàn
phá hạm đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, giết hại 2,400 người Hoa Kỳ. Hôm
sau (8-12-1941), Hoa Kỳ và Anh tuyên chiến với Nhật Bản. Quân đội Nhật
ào ạt đổ bộ lên miền nam Thái Lan (8-12-1941), bắc Mã Lai (8-12), tấn
công Manila (8-12), đến quần đảo Luzon (10-12-1941), chiếm Bataan
(9-4-1942), và toàn bộ Phi Luật Tân (5-1942).
Trong khi chiến tranh diễn ra càng ngày càng ác liệt tại Đông Á giữa lực
lượng Đồng minh (gồm quân đội Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa Quốc Dân Đảng)
với quân đội Nhật Bản, thì Liên Xô vẫn tiếp tục bang giao với Nhật Bản
vì Liên Xô ký hòa ước bất tương xâm với Nhật Bản từ ngày 13-4-1941. Ngày
6-8-1945, Hoa Kỳ thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima (Nhật
Bản). Liên Xô biết chắc chắn Nhật Bản sẽ đầu hàng, liền mời đại sứ Nhật
tại Moscow đến bộ Ngoại giao Liên Xô lúc 5 giờ chiều ngày 8-8-1945 và
ngoại trưởng Liên Xô Mikailovich Molotov thông báo cho đại sứ Nhật Bản
biết rằng Liên Xô quyết định tuyên chiến với Nhật. (Basil Collier, The Second World War: a Military History, Gloucester, Mass: Pater Smith, 1978, tt. 529-530.)
Sáng sớm hôm sau (9-8-1945), Liên Xô tràn quân qua chiếm Mãn Châu và
vùng đông bắc Trung Hoa, chỉ vài giờ trước khi Hoa Kỳ dội thêm quả bom
nguyên tử thứ hai xuống thành phố Nagasaki. Liên Xô tiến quân chiếm luôn
cả miền bắc bán đảo Triều Tiên. Cuối cùng, Nhật hoàng quyết định đầu
hàng ngày 14-8-1945. Hiệp ước đầu hàng được ký kết trên chiến hạm Missouri, thả neo trong vịnh Đông Kinh, do đại tướng Mac Arthur chủ trì.
Như thế, Liên Xô dựa vào thời cơ để nhập cuộc trong chiến tranh chống
Nhật Bản năm 1945, thiệt hại không đáng kể mà hưởng lợi tối đa ở miền
đông bắc châu Á.
2. Hội nghị san francisco
Sau chiến tranh, đất nước Nhật Bản kiệt quệ, kinh tế suy thoái. Nhật Bản
thay đổi chính sách, từ bỏ chế độ quân phiệt, từ bỏ tham vọng đế quốc,
ban hành hiến pháp hòa bình ngày 3-11-1946, có hiệu lực từ 3-5-1947.
Theo hiến pháp mới, Nhật Bản theo đại nghị chế, Nhật hoàng chỉ còn giữ
địa vị tượng trưng. Đặc biệt điều 9 chương II hiến pháp quy định Nhật
Bản không có có Hải, Lục, Không quân và chính phủ Nhật Bản từ nay không
được quyền tuyên chiến.
Quang cảnh hội nghị San Francisco - Hình: Tuoitre.vn
Hoa Kỳ là nước có quân chiếm đóng Nhật Bản đồng thời viện trợ cho Nhật
Bản tái thiết đất nước. Cuộc thương thuyết giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ đưa
đến hai hội nghị hòa bình San Francisco từ ngày 4 đến ngày 8-9-1945. Hội
nghị thứ nhất gồm có 51 quốc gia tham dự trong đó có cả Nhật Bản, đưa
đến Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản (Treaty of Peace with Japan). Hội nghị thứ hai giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản đưa đến Hiệp ước An ninh giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản (Security Treaty between United States and Japan). Chuyện giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản không nằm trong bài viết nầy.
Hội nghị 51 nước tham dự theo thứ tự ABC là: Argentina, Australia,
Belgium, Bolivia, Brazil, Cambodia, Canada, Ceylon, Chile, Colombia,
Costa Rica, Cuba, Czechoslovakia,
Dominican Republic, Ecuador, Egypt, El Salvador, Ethiopia, France,
Greece, Guatemala, Haiti, Honduras, Indonesia, Iran, Iraq, Japan, Laos,
Lebanon, Liberia, Grand Duchy of Luxembourg, Mexico, Netherlands, New
Zealand, Nicaragua, Norway, Pakistan, Panama, Peru, Republic of the
Philippines, Poland, Saudi Arabia, Soviet Union,
Syria, Turkey, Union of South Africa, United Kingdom of Great Britain
and Northern Ireland, United States of America, Uruguay, Venezuela, Viet
Nam.
3. Thái độ của các nước cộng sản
Trong 51 nước trên đây, có ba nước lúc đó theo chế độ cộng sản là
Czechoslovakia (Tiệp Khắc, chưa chia hai), Poland (Ba Lan) và Soviet
Union (Liên Bang Xô Viết hay Liên Xô). Cả Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan)
lẫn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng) đều không được mời tham dự,
vì hội nghị không biết mời ai là đại diện cho Trung Hoa tại hội nghị.
Trong dự thảo hiệp ước, Nhật Bản quyết định từ bỏ quyền hành ở các hải
đảo dọc bờ biển Trung Hoa và Việt Nam, nhưng không ghi là giao lại cho
ai, vì hải đảo của nước nào thì nước đó đương nhiên nhận lại. Dự thảo
nầy được gởi đến các nước để tham khảo và tu chính trước ngày diễn ra
hội nghị.
Trung Cộng không được mời tham dự hội nghị nên ngoại trưởng Trung Cộng
lúc bấy giờ là Chu Ân Lai lên tiếng phủ đầu ngày 15-8-1951: “Chính
phủ Nhân dân Trung ương nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa một lần nữa
tuyên bố: Nếu không có sự tham dự của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trong
việc chuẩn bị, soạn thảo và ký một hòa ước với Nhật Bản thì dù nội dung
và kết quả của một hiệp ước như vậy có như thế nào, chính phủ Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa cũng coi hòa ước ấy hoàn toàn bất hợp pháp và vì vậy
vô hiệu.” (People’s China, tập IV, số 5 ngày 1-9-1951, do Quốc Tuấn
trích dẫn trong bài “Nhận xét về các luận cứ của Trung Hoa liên quan tới
vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa”, tập san Sử Địa số
29, Sài Gòn: tháng 1-3/1975, tr. 221.)
Lập trường của Trung Cộng là đòi hỏi chủ quyền của Trung Cộng trên các
quần đảo duyên hải Trung Hoa và duyên hải Việt Nam. Trung Cộng không
tham dự hội nghị, nhưng đòi hỏi của Trung Cộng được đại diện Liên Xô
trình bày trong phiên họp ngày 5-9-1951. Andrei Gromyko, đại diện Liên
Xô, phản đối bản dự thảo hòa ước vì cho rằng đây là bản dự thảo do Hoa
Kỳ và Anh soạn thảo, chưa đáp ứng được những yêu cầu cần thiết cho một
nền hòa bình với Nhật Bản. Lời phản đối của Gromyko bị các thành viên
khác trong hội nghị la ó. (Xin xem tài liệu đính kèm số 1.)
Lý do đại diện Liên Xô bị hội nghị la ó có thể vì bản dự thảo đã được
gởi trước để các nước tham khảo, nhưng Liên Xô không trả lời, mà mãi đến
khi hội nghị bắt đầu, mới lên tiếng làm mất thời giờ hội nghị và đại
diện các nước không chuẩn bị trước với chính phủ của họ. Cũng có thể các
nước Đồng minh biết rằng trong chiến tranh chống Nhật Bản, Liên Xô chờ
đợi đến phút chót, Nhật Bản bị sụp đổ, Liên Xô mới tham chiến để chia
phần nên các đại biểu không cảm phục.
Sau khi chủ tịch hội nghị can thiệp, kêu gọi tái lập trật tự hội trường,
thì Gromyko mới tiếp tục phát biểu, đưa ra trước sau 13 điểm tu chính
(sửa đổi 5 điểm cũ và đưa thêm 8 điểm mới), trong đó có một tu chính là
sửa đổi khoản (b) và khoản (f), điều 2 chương II, liên quan đến các hải
đảo dọc duyên hải Trung Hoa và duyên hải Việt Nam. Andrei Gromyko cho
rằng các đảo Paracels (Hoàng Sa) và các đảo khác về phía Nam, được xem
là lãnh thổ của Trung Cộng, và yêu cầu bổ sung vào hiệp định là các hải
đảo đó thuộc chủ quyền của Trung Cộng. (Xin xem tài liệu đính kèm số 1.)
Tuy nhiên, Gromyko không đưa ra bằng chứng cụ thể nào về chủ quyền của
Trung Cộng đối với các đảo trên.
Trong cuộc biểu quyết ngày 7-9-1951, tất cả những tu chính của Liên Xô
do Gromyko đưa ra, trong đó có cả tu chính khoản (b) và khoản (f) điều 2
chương II, tất cả đều bị hội nghị bác bỏ. Kết quả biểu quyết cụ thể là
46 phiếu chống, 3 phiếu thuận của ba nước cộng sản (Tiệp Khắc, Ba Lan và
Liên Xô), 1 phiếu trắng và Nhật Bản không bỏ phiếu. Tỷ lệ bác bỏ là
46/51.
4. Ý kiến của việt nam
Đại diện Việt Nam tại hội nghị San Francisco là thủ tướng chính phủ Quốc
Gia Việt Nam (QGVN) Trần Văn Hữu. Chính phủ QGVN do cựu hoàng Bảo Đại
làm quốc trưởng. Theo hiệp định Élysée ngày 8-3-1949 Pháp giải kết hòa
ước bảo hộ 1884 và trao trả độc lập lại cho Việt Nam. Chính thể QGVN
chính thức được thành lập ngày 14-6-1949. Đạo dụ ngày 1-7-1949 chia Việt
Nam làm ba phần: Bắc, Trung và Nam Phần. Hai ngày sau, quốc trưởng Bảo
Đại bổ nhiệm ba vị thủ hiến phụ trách ba phần, trong đó thủ hiến Trung
Phần là dược sĩ Phan Văn Giáo.
Ngày 14-10-1950, khi Pháp quyết định giao lại quần đảo Hoàng Sa cho
chính phủ QGVN, thủ hiến Phan Văn Giáo, đại diện chính phủ, đến tận quần
đảo Hoàng Sa để nhận bàn giao chủ quyền quần đảo nầy. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập B: 1947-1954, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 196.)
Nguyên dưới thời vua Bảo Đại (trị vì 1926-1945), Pháp thiết lập tòa Đại
lý Hành chánh quần đảo Hoàng Sa ngày 15-6-1932. Vua Bảo Đại ban dụ số 10
ngày 30-3-1938 sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên,
nên năm 1950, thủ hiến Trung Phần Phan Văn Giáo, đại diện chính phủ tiếp
nhận việc bàn giao của Pháp.
Ngoài thủ tướng Trần Văn Hữu, phái đoàn chính phủ QGVN còn có các ông:
Nguyễn Trung Vinh (tổng trưởng bộ Tài chánh), Nguyễn Duy Thanh (tổng
trưởng bộ Kế hoạch và Tái kiến thiết), và Bửu Kính.
Vì sắp theo thứ tự ABC, phái đoàn Việt Nam đứng áp chót, chỉ trước phái
đoàn Nhật Bản là nước trong cuộc. Vì vậy phái đoàn Việt Nam được mời
phát biểu gần như sau cùng ngày 8-9-1951. Vào cuối phần phát biểu của
mình, thủ tướng Trần Văn Hữu nhấn mạnh: “And as we must frankly
profit from all opportunities offered to us to stifle the germs of
discord, we affirm our right to the Spratly and Paracel Islands, which
have always belonged to Vietnam.” Tạm dịch: “Và chúng tôi phải
thẳng thắn lợi dụng tất cả các cơ hội dành cho chúng tôi để chận đứng
những mầm mống bất đồng, chúng tôi xác định chủ quyền của chúng tôi trên
các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa vốn luôn luôn thuộc Việt Nam”. (Xin
xem tài liệu đính kèm số 2, 3 và số 4.) Lời phát biểu của thủ tướng
Trần Văn Hữu không bị đại diện phái đoàn nào trong hội nghị phản đối và
được ghi vào biên bản, chứng tỏ hội nghị đồng ý với quan điểm của chính
phủ QGVN.
Cuối cùng, hội nghị đi đến việc ký kết bản Treaty of Peace with Japan
(Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản) cũng trong ngày 8-9-1951 với 48 phiếu
thuận, trừ ba nước cộng sản, đồng minh của Trung Cộng, không chịu ký.
Bản hiệp ước có hiệu lực ngày 28-4-1952.
Bản hiệp ước San Francisco gồm 7 chương, 27 điều, trong đó khoản (f),
điều 2, chương II, liên hệ đến Việt Nam nguyên văn như sau: “Japan
renounces all right, title and claim to the Spratly Islands and to the
Paracels Islands.” (United Nations Treaty Series 1952 (reg. no. 1832), vol. 136, pp. 45 - 164.) (Nhật Bản từ bỏ mọi quyền hành, danh nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo Spratly [Trường Sa] và quần đảo Paracels [Hoàng Sa].)
(Xin xem tài liệu đính kèm số 5.) Nhật Bản từ bỏ mọi quyền hành, danh
nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa, nghĩa
là Nhật Bản trả hai quần đảo nầy trở về với chủ cũ, mà thủ tướng Trần
Văn Hữu đã minh định trước hội nghị và không một ai phản đối.
5. Kết luận
Hội nghị hòa bình giữa Nhật Bản và 50 nước trên thế giới tại San
Francisco, riêng về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, liên hệ đến Việt Nam,
có thể rút ra hai kết luận:
Kết luận thứ nhứt là từ năm 1951, các nước trên thế giới, trừ các nước
cộng sản đồng minh với Trung Cộng, đều phủ nhận đòi hỏi của Trung Cộng
là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng qua
phần phát biểu của đại diện Liên Xô tại hội nghị. Đồng thời các nước
tham dự hội nghị không phản đối, nghĩa là chấp nhận và cho ghi vào biên
bản lời thủ tướng Trần Văn Hữu xác định chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hồ sơ toàn thể hội nghị cùng lời
phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ấn hành
ngay sau hội nghị, gởi cho tất cả các nước, cũng không bị nước nào phản
đối, trừ Trung Cộng.
Kết luận thứ hai là lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu chứng tỏ
chính phủ Quốc Gia Việt Nam luôn luôn tận dụng mọi cơ hội có thể có
được, để tranh đấu bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chống lại âm mưu xâm
lược của nước ngoài và trong trường hợp nầy là Trung Cộng. Trong khi đó,
Việt Minh cộng sản luôn luôn tuyên truyền rằng chính phủ Quốc Gia Việt
Nam là “Việt gian bán nước”. Việt Minh cộng sản nhồi sọ học sinh bằng
những câu thơ như:
“Văn Xuân, Văn Hữu cũng tay bợm già,
Cũng phường cỏng rắn cắn gà,
Rước voi giày mả ông bà tổ tông,
Cha đời lũ bán nước rong!”
(Thơ cộng sản dạy cho trẻ em trước năm 1954)
“Văn Xuân, Văn Hữu” là hai thủ tướng Nguyễn Văn Xuân và Trần Văn Hữu của
chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Thử so sánh lời phát biểu của Trần Văn Hữu
với công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 về vấn đề Hoàng Sa, xin quý
vị độc giả hãy tự kết luận ai là “lũ bán nước rong”?
(Toronto, 4-8-2014)
________________________________
Tài liệu đính kèm trích từ:
Conference for the Conclusion and Signature of the Treaty of Peace
With Japan, San Francisco, California – September 4-8-1951, Record of Proceedings
Do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ấn hành. Nhận được qua giáo sư THB (California)
Tài liệu 1: Phát biểu của đại diện Liên Xô
Tài liệu 2: Phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu
Tài liệu 3: Phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu (tiếp)
Tài liệu 4: Phần cuối lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu
Tài liệu 5: Chương II, điều 2, khoản (f)
Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản
0 comments:
Post a Comment