Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng VNCH
Tổng thống Richard Nixon mất chức sau vụ scandal nổi tiếng Watergate vào 8/1974.
“It’s so sad, it’s so sad”(Thật là buồn, thật là buồn), tôi nghe thấy
Pat lẩm bẩm nói bâng quơ... Không ai nói năng gì nữa. Cũng chẳng còn hạt
nước mắt nào để mà khóc. Tôi ngả đầu vào lưng ghế và nhắm mắt lại,”
Tổng thống (TT) Richard Nixon viết để kết thúc cuốn Hồi Ký đài 1,120
trang.
Đây là lúc ông ngồi trên chiếc trực thăng rời Washington sau khi từ chức ngày hôm trước. Bà Patricia là phu nhân Tổng thống.
Trước
10 giờ sáng ngày thứ Năm, mồng 8 tháng 8, 1974, Phó Tổng thống Gerald
Ford cùng với Phụ tá John Marsh chủ toạ lễ trao Huân Chương Danh Dự Quốc
Hội cho gia đình của bảy người quân nhân tử trận ở Việt Nam.
Lễ
nghi diễn ra tại Blair House, nhà khách của Tổng Thống [chúng tôi xin
mở ngoặc để ghi lại là TT Thiệu đã lưu lại nơi đây vào tháng 4, 1972 khi
TT Nixon mời ông tới Washington; chúng tôi có ghé thăm ông].
Lễ
nghi vừa xong, ông Ford liền được tướng Al Haig, Chánh Văn Phòng cho
biết Tổng Thống Nixon muốn gặp ông ngay. Ông vội vàng bước qua đường
Pennsylvania sang toà Bạch Ốc.
Khi
ông vừa tới, TT Nixon đứng lên bắt tay rồi ngồi xuống ngả lưng vào ghế.
Hai tay nắm chặt vào nhau để trên đùi, trông mặt ông thật căng thẳng vì
vừa trải qua một giai đoạn hết sức khó khăn.
Với
một giọng nghiêm nghị nhưng kiềm chế, ông chậm rãi nói với ông Ford:
“Tôi đã quyết định từ chức, quyền lợi đất nước đòi hỏi như vậy. Tôi
không muốn nói tới chi tiết những lý do nên hay không nên làm như vậy,
nhưng tôi đã đi tới quyết định rồi.” Buổi tối hôm ấy TT Nixon lên TV
tuyên bố từ chức.
Chúng
tôi gọi ngày này là “Ngày Song Bát,” ngày lịch sử của Hoa Kỳ, cũng là
ngày đánh dấu buổi hoàng hôn của nền Cộng Hòa Việt Nam.
'Cửa đập nước đã mở?
Watergate
là tên của một tập hợp những cao ốc đẹp nằm trên đường Virginia cạnh bờ
sông Potomac lãng mạn. Đây là một khuôn viên gồm khách sạn, chung cư
sang trọng và một cao ốc văn phòng. Nơi đây có trụ sở của ‘Ủy Ban Quốc
Gia Đảng Dân Chủ.’
Nhân
viên của Tổng thống Nixon đã cho người đột nhập vào trụ sở này vào ngày
17 tháng 6, 1972 để cài đặt đường giây nghe lén vào mùa vận động bầu cử
Tổng thống 1972. Sau khi đổ bể, Quốc Hội điều tra, TT Nixon chối đi là
ông không dính dáng gì đến việc này. Cuộc điều tra tiếp tục. Từ chuyện
này dẫn tới chuyện khác. Tuy nhiên cũng chưa có bằng chứng nào kết tội
Tổng thống.
Tới
trên hai năm sau, vào ngày 24 tháng 7, 1974 thì có bước ngoặt: Tối Cao
Pháp Viện phán quyết Tổng Thống Nixon phải chuyển cho chánh án Sirica
băng thu 64 cuộc nói chuyện tại văn phòng Toà Bạch Ốc. Trước đó luật sư
của Tòa Bạch Ốc đã tranh đấu để không chuyển băng. Hai bên giằng co rất
quyết liệt vì những băng này có liên quan tới việc xét xử sáu quan chức
trong vụ Watergate.
Chỉ ba ngày sau thì có biến cố lớn. TT Nixon kể lại về ngày 27 tháng 7, 1972:
“Tôi đang tắm ở bãi biển Red Beach gần San Clemente khi Ủy ban Tư Pháp
Hạ Viện bỏ phiếu điều khoản thứ nhất của thủ tục bãi chức tổng thống
(impeachment). Điều khoản này buộc tội tôi đã có những hành động cản trở
việc điều tra Watergate. Số phiếu thuận là 27 và chống là 11, đúng như
tôi vẫn e sợ.
"Tôi đang mặc quần áo trong chiếc xe trailer thì chuông điện thoại kêu
và (phụ tá) Ziegler báo tin cho tôi. Đây là giây phút tôi biết mình sẽ
là Tổng thống thứ nhất trong 106 năm bị đề nghị bãi chức. Lúc ấy tôi
đang đứng trong chiếc xe trailer trên bãi biển, đi chân không, mặc cái
quần xà lỏn, một cái áo chemise Banlon và một cái áo ở ngoài có vẽ Dấu
ấn của Tổng Thống.”
Cuốn băng “Smoking Gun”
Liệu Kissinger có 'thao túng' chính sách của TT Nixon hay không còn là một dấu hỏi.
Ngày
5 tháng 8, Tòa Bạch Ốc bắt buộc phải chuyển giao băng thu cuộc họp ngày
23 tháng 6, 1972 . Băng này đã ghi lại rõ ràng là chỉ mấy ngày sau vụ
đột nhập Watergate, chính TT Nixon đã họp với Phụ tá Haldeman để bàn
tính việc ngăn chận cuộc điều tra.
Theo
kế hoạch thì Haldeman sẽ để cho CIA thông báo đại với FBI là vụ này
dính tới an ninh quốc gia nên không điều tra nữa. “Một cách để xử lý vụ
này,” Haldeman nói với Tổng thống, “là ta cho Walters (CIA) gọi đại cho
Pat (FBI) để chỉ nói ‘Chớ có dính líu gì tới việc này… việc này,
chà…chúng tôi không muốn các anh đi sâu hơn nữa’ ” (Stay the hell out of
this…this is ah, business here we don’t want you to go any further on
it).
TT
Nixon chấp thuận kế hoạch. Ông chỉ thị Haldeman “Được rồi, tốt, tôi
hiểu hết rồi… Anh gọi bọn họ vào. Tốt, cách xử lý tốt đấy. Phải cho thật
cứng rắn. Đó là cách họ đối xử với chúng ta và cũng là cách chúng ta sẽ
đối xử với họ.”
Nghe
băng này, các luật sư của Tòa Bạch Ốc thấy hết đường cứu chữa! Đây là
bằng chứng đi ngược lại với những lời phủ nhận của TT Nixon và ngược lại
với những lý luận của các luật sư trước đó.
Như
vậy TT Nixon đã có tội là ‘cản trở việc thi hành luật pháp.’ Người ta
gọi cuốn băng này là “Smoking Gun,” nòng súng có khói (bằng chứng là
súng đã có bắn).
'Đề phòng Kissinger'
Trong
những giờ phút cuối cùng, TT Nixon vẫn còn quan tâm đến VNCH. Ông viết
về cuộc họp với ông Ford sáng ngày 8 tháng 8: “Chúng tôi nói tới những
vấn đề ông Ford sẽ phải đối đầu khi ông lên chức Tổng thống đúng 24 giờ
nữa. Quan trọng nhất là chớ có để cho những người lãnh đạo ở Moscow hay
Bắc Kinh nắm lấy việc từ chức của tôi để thử thách Hoa Kỳ tại Việt Nam
và những nơi khác trên thế giới.”
Sau
đó TT Nixon đã căn dặn người kế vị rằng nên dùng ông Kissinger nhưng
phải cẩn thận đối với ông này. TT Ford kể lại lời trối trăn trong Hồi Ký
‘A Time To Heal’ : “Tổng Thống Nixon đã khuyên tôi nên tiếp tục một
chính sách mạnh mẽ về Việt Nam và Campuchia và nhấn mạnh vai trò của
Henry Kissinger trong việc này.”
Ông
thêm rằng “Henry là một thiên tài, tuy nhiên ông không phải chấp nhận
tất cả mọi việc ông ta đề nghị. Ông ta có thể rất hữu ích, và trung
thành, nhưng ông không thể để cho Kissinger hoàn toàn tự do làm theo ý
mình.”
Như
vậy TT Nixon đã hối hận vì để cho Kissinger lộng hành? Tuy người tiền
nhiệm đã dặn dò như vậy, nhưng TT Ford vẫn khoán trắng cho ông
Kissinger.
Trở
về văn phòng, việc đầu tiên ông Ford làm là gọi điện thoại cho
Kissinger: “Henry, tôi cần ông, đất nước cần ông. Tôi muốn ông tiếp tục ở
lại. Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để làm việc với ông.”
Việc TT Nixon từ chức không nằm trong 'mong muốn' của TT Thiệu.
Kissinger
trả lời “Thưa Ngài, sẽ không có vấn đề gì. Bổn phận của tôi là làm việc
cùng với Ngài chứ không phải là Ngài cùng với tôi.” TT Ford mời ông
Kissinger tiếp tục kiêm nhiệm cả hai chức vụ cùng một lúc: Ngoại Trưởng
và Cố Vấn An Ninh: tha hồ mà thao túng.
Miền Nam rung động
Tuy
đã tiên đoán là Tổng Thống Nixon sẽ phải từ chức, nhưng khi nghe tin
này, Tổng Thống Thiệu vẫn bàng hoàng. Gặp ông ngay buổi chiều hôm ấy,
chúng tôi thấy ông không giấu nổi sự lo lắng. Vụ Watergate bắt đầu từ
tháng 6, 1972 nhưng TT Nixon vẫn thắng cử nhiệm kỳ hai vào mùa Thu năm
ấy.
Tuy
nhiên sau Hiệp Định Paris thì TT Thiệu đã thấy có điều gì không ổn. Ông
kể lại là sau cuộc họp tại San Clemente ngày 3 tháng 4, 1973, khi TT
Nixon chào tạm biệt để tiễn ông lên trực thăng (cùng chiếc Mariner One)
thì “hồn vía ông ta như để ở đâu đâu; trực thăng vừa cất cánh thì ông đã
quay gót trở lại. Vội vã đi vào nhà.”
Những
lần trước khi hai người gặp nhau, dù ở đảo Midway hay ở Sàigòn (1969),
lễ nghi tiễn biệt đã kéo dài, TT Nixon vui vẻ giơ tay vẫy chào thật lâu
(‘Khi Đồng Minh Tháo Chạy,’ Chương 4). TT Thiệu bắt đầu e ngại nhưng vẫn
còn chút hy vọng vì đã có được những cam kết tuy bí mật nhưng hết sức
vững vàng của người lãnh đạo tối cao Hoa Kỳ. Mặc dù Hiệp Định Paris, TT
Nixon cũng không nỡ lòng nào bỏ rơi Miền Nam. Ông vẫn tranh đấu cho viện
trợ. Nhưng sau ngày Song Bát thì khác.
Đang
lúc bối rối như vậy thì TT Thiệu nhận ngay được một lá thư của tân Tổng
thống Ford gửi cho ông. Thư đề ngày 10 tháng 8, 1974 đã khẳng định:
“Thưa Tổng Thống … tất cả những gì mà Hoa Kỳ đã cam kết với VNCH trong
quá khứ thì vẫn còn hiệu lực và sẽ hoàn toàn được tôn trọng trong nhiệm
kỳ của tôi.”
Ông
Thiệu lên tinh thần đôi chút. Nhìn lại lịch sử, chúng tôi cho rằng đây
chỉ là một mưu lược rất tinh xảo của ông Kissinger nhằm trấn an ông
Thiệu. Vì Kissinger đã dấu nhẹm đi không cho TT Ford và Quốc Hội biết gì
về những cam kết của TT Nixon, bây giờ ông phải tìm cách để tiếp tục
che dấu.
Nếu
để ông Thiệu nại đến những cam kết này khi bị Quốc Hội cắt xén quá
nhiều viện trợ thì sẽ gây nhiều tranh luận, đưa chính ông Kissinger vào
chỗ kẹt. Điều hay nhất là làm sao giữ cho Sàigòn cứ yên lặng, làm sao
cho mọi chuyện được êm ả cho tới lúc hạ màn.
Đó
là điều ông Kissinger đã từng cố vấn TT Nixon: “Thưa Tổng thống, chúng
ta chỉ cần tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện
trong một hay hai năm, rồi sau đó thì Việt Nam sẽ trở thành một bãi
hoang vu.” (‘Tâm Tư Tổng Thống Thiệu,’ Chương 15).
'Từ Watergate đến sụp đổ Sài Gòn'
Nguyễn Tiến Hưng Cựu Tổng trưởng VNCH
BBC - chủ nhật, 10 tháng 8, 2014
Tổng thống Mỹ Richard Nixon rời Nhà trắng sau khi từ chức vì vụ scandal Watergate.
Trong phần tiếp theo của bài viết nhìn lại sự kiện Tổng thống Mỹ
Richard Nixon từ chức (ngày 8/8/1974), tác giả Nguyễn Tiến Hưng, nguyên
Tổng trưởng Kinh tế của Việt Nam Cộng hòa, đề cập hệ quả vụ scandal
chính trị Watergate với sự sụp đổ của chính quyền Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu cùng thể chế VNCH chưa tới một năm sau.
BBC giới thiệu sau đây phần hai và cũng là phần cuối của bài viết nhân bốn mươi năm xảy ra sự kiện này:
Mấy
ngày sau khi nhận được thư của Tổng thống (TT) Gerald Ford, sau một
buổi họp của Hội Đồng Tổng Trưởng tại Dinh Độc Lập, Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu bảo tôi ở lại nói chuyện thêm.
Ông hỏi qua loa về cá nhân ông Ford, vì ông này quá mới mẻ đối với VNCH.
Tôi
nói với ông Thiệu về cái thông lệ của Hoa Kỳ là một tân Tổng Thống
thường được Quốc Hội dành cho một “tuần trăng mật” chỉ dài khoảng 100
ngày, đôi khi lâu hơn.
Trong thời gian này, họ dành mọi sự dễ dàng cho vị tân Tổng Thống. Không những TT Thiệu mà tất cả Nội Các cũng hết sức lo âu.
Câu
chuyện mọi người bàn bạc lúc ăn trưa trong những buổi họp hàng tháng
vào sáng thứ Tư tại Phủ Thủ Tướng cũng đều xoanh quanh Watergate và viện
trợ Hoa Kỳ.
Để
tìm hiểu rõ hơn về tình hình và xem Việt Nam Cộng Hòa phải xoay xở ra
sao, chúng tôi đề nghị Tổng Thống Thiệu mời Giáo sư Warren Nutter sang
thăm.
Ông là cựu Phụ tá Tổng Trưởng Quốc Phòng, đặc trách phần tài chính của chương trình Việt Nam Hoá.
Ông
cũng là người thầy kính mến của chúng tôi tại Đại Học Virginia. Ông rất
am hiểu đường đi nước bước của bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ và vấn đề quân
viện.
'Bỏ dở tô hủ tiếu'
Giáo
sư Nutter dự điểm tâm với TT Thiệu và chúng tôi sáng ngày 23 tháng 8
tại Dinh Độc Lập. Tổng Thống Thiệu nói về tình hình đang trở nên hết sức
nguy ngập và bày tỏ sự lo ngại về viện trợ Hoa Kỳ.
Là
người ủng hộ ông Thiệu từ lâu, ông Nutter cũng rất bối rối. Ông cảm
thấy khó khăn khi giải thích hành động của Quốc hội. Ông hứa khi về đến
Washington sẽ cố gắng trình lên Tổng Thống Ford tình trạng nguy ngập ở
Việt Nam.
TT Thiệu không còn nhận được nhiều viện trợ và hậu thuẫn của người Mỹ vào cuối cuộc chiến.
Ông than phiền: "Không có nhân vật cao cấp nào trong chính phủ để ý đến vấn đề Việt Nam nữa!" Câu nói của GS Nutter làm TT Thiệu bỏ dở tô hủ tiếu.
Về
tới Washington, ông viết một lá thư cho bạn ông là John O. Marsh, Phụ
Tá của TT Ford. Nutter nhất quyết rằng miền Nam sẽ tồn tại được nếu có
phương tiện chống trả các cuộc tấn công của quân đội chính quy Bắc Việt.
Nhưng
nếu Hoa Kỳ ngưng viện trợ thì sẽ gây hậu quả trầm trọng cả về vật chất
lẫn tinh thần. Nutter viết cho ông Marsh và đưa cho tôi một bản sao:
“Tôi
chưa thấy ông Thiệu và các tướng lãnh Việt nam có khí sắc u sầu như vậy
bao giờ. Họ sẽ càng mất tinh thần nếu Bắc Việt tiếp tục gây áp lực...
“Tôi tin rằng hành động của Quốc hội và hậu quả tai hại của việc cắt
viện trợ là đầu mối của những xáo trộn chính trị và biểu tình trong vài
tuần lễ gần đây (tại Sàigòn).
“Tình hình sẽ bất ổn về cả chính trị lẫn quân sự, và mọi sự có thể đổ
vỡ nếu không xoay ngược được chiều hướng này. Nếu phải lựa chọn, ta nên
viện trợ quân sự trước, rồi kinh tế sau, để đương đầu với những đe dọa
quân sự trước mắt...
“Để cho Miền Nam Việt Nam rơi vào đổ vỡ và thảm cảnh chỉ vì hơn kém nửa
tỷ đôla sẽ có hậu quả còn sâu xa hơn, đó là sẽ xé nát lương tâm của Hoa
Kỳ. Nó sẽ là ngọn gió thổi bay ảnh hưởng của Hoa Kỳ tuy còn mạnh nhưng
đang yếu dần trên chính trường quốc tế.”
Thêm
vào đó, Đại sứ Martin cũng cố gắng vận động tại Quốc Hội Hoa Kỳ, nhưng
chẳng ai làm được gì vì ông Kissinger đã trở nên một ông Quan Toàn
Quyền.
Hoàng hôn nền Cộng Hòa
Cuối Hè vào Thu, chân trời Miền Nam đã tím lại.
Chỉ
vài ngày sau khi TT Ford viết bức thư cho TT Thiệu khuyên ông đừng có
lo nghĩ gì cả vì "sau cùng VNCH sẽ được đầy đủ cả quân viện lẫn kinh
viện,” Ủy Ban Chuẩn Chi Thượng Viện đã cắt thêm nữa: từ mức quân viện
cho Tài khóa 1973 là 2.2 tỷ đôla bây giờ cắt xuống còn 700 triệu.
Điều
chỉnh theo lạm phát thật cao lúc ấy thì mãi lực của số tiền này chẳng
còn bao nhiêu. Thực là tin sét đánh cho Bộ Tổng Tham Mưu VNCH. Đối với
TT Thiệu một chút hy vọng khi nhận được thư đầu tiên của vị Tân Tổng
thống Mỹ đã tan biến đi như mây khói.
Có những nỗ lực theo chiều hướng khác nhau để tiếp tục hoặc dừng lại tài trợ của Mỹ cho VNCH.
Ngoài chiến trường thì tình hình bắt đầu sôi động, đặc biệt là ở Đức Dục và Thường Đức.
Tới
cuối năm 1974 thì đạn dược và xăng nhớt đã cạn kiệt. Theo dự tính của
Bộ Tổng Tham Mưu: dự trữ đạn dược tồn kho chỉ còn cung ứng được từ 30
tới 45 ngày.
Đại
Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng kết luận rằng “nếu tình hình
chiến sự cứ tiếp tục xảy ra theo cùng một nhịp độ thì: “số đạn tồn kho
sẽ hết vào tháng 6, 1975 nếu không nhận được thêm viện trợ.”
Tình
hình chiến sự đã tiếp tục xảy ra, lại theo một nhịp độ gia tăng. Không
nhận được thêm viện trợ, lại còn bị Quốc Hội biểu quyết cúp hết quân
viện, Miền Nam đã sụp đổ trước tháng 6, 1975.
Về Miền Cali
Sau
khi từ chức và trao quyền cho TT Ford, trưa ngày 9 tháng 8, 1974 nguyên
TT Nixon và gia đình rời cửa trước Tòa Bạch Ốc từ từ đi trên tấm thảm
đỏ dài dẫn tới Marine One, chiếc trực thăng của tổng thống.
Sau đây là những dòng cuối cùng của cuốn ‘Nhật Ký Richard Nixon’ – viết về lúc giã từ Thủ đô:
“Tôi bắt tay Jerry (Ford) – Pat ôm Betty (Phu nhân TT Ford) – rồi hôn
Julie (con gái) – và tạm biệt David (con trai). Rồi tôi đứng một mình.
Lên hết cầu thang, tôi quay mình, nhìn lại một lần cuối…
“Tôi giơ tay vẫy chào lần cuối cùng. Tôi vẫn cười. Tôi bước vào trực
thăng, cửa đóng lại, chiếc thảm đỏ được cuộn nhanh. Động cơ bắt đầu nổ.
Cánh quạt bắt đầu quay. Tiếng động cơ ầm ầm mạnh lên hầu như lấn át cả
những suy nghĩ của tôi.
“Bất chợt chiếc trực thăng từ từ bay lên. Những người ở dưới vẫy tay
chào. Rồi chúng tôi đổi hướng. Bây giờ thì Tòa Bạch Ốc đã nằm phía sau
chúng tôi. Chúng tôi bay thấp và ngang qua Washington Monument. Một lần
đổi hướng nữa và Hồ Tidal Basin đã nằm ở dưới. Rồi tới Jefferson
Memorial.
“Không ai nói năng gì. Cũng chẳng còn hạt nước mắt nào để mà khóc. Tôi
ngả đầu vào lưng ghế và nhắm mắt lại. ‘Thật là buồn, thật là buồn’ tôi
nghe thấy Pat lẩm bẩm nói bâng quơ.”
“Sau một lần đổi hướng nữa chúng tôi đã bay về hướng phi trường Andrew,
ở đó chiếc Air Force One đã đợi để đưa chúng tôi về California. Tiếng
động cơ ầm ầm mạnh lên hầu như lấn át cả những suy nghĩ của tôi.”
Chắc
chắn rằng trong những suy nghĩ của TT Nixon về những gì đã xảy ra, ông
không khỏi hối hận vì đã sơ xuất để phải chết đuối trong vũng lầy.
Chín tháng sau ngày TT Nixon từ chức, Sài Gòn thất thủ hôm 30/4/1975.
Thành
tích của ông vẻ vang vì mở cửa Bắc Kinh, lại rút hầu hết quân đội Mỹ
khỏi Việt Nam. Chương trình Việt Nam Hóa – chứng minh cho ‘Học Thuyết
Nixon’ - đang thành công.
'Từ mảnh băng trên khóa'
Nhìn theo một khía cạnh tâm linh nào đó, ta có thể cho Ngày Song Bát (8 tháng Tám) cũng chỉ là điểm chốt của vận mệnh TT Nixon.
Từ
một chuyện nhỏ nhặt đã gây nên thảm cảnh. Một thanh niên người da màu
tên là Frank Wills, 24 tuổi, làm nhân viên bảo vệ cho một cao ốc văn
phòng tại khuôn viên Watergate.
Đêm
ngày 17 tháng 6, 1973, anh thủng thẳng đi quanh tòa nhà để xem xét, bất
chợt anh thấy có miếng băng nhỏ dán vào ổ khóa một cánh cửa.
Chẳng
nghi ngờ gì, anh lấy tay gỡ miếng băng ra, đóng chặt cửa rồi tiếp tục
đi kiểm tra như thường lệ. Ba mươi phút sau anh vòng lại chỗ cũ. Ấy
chết, lại có thêm băng dán vào chốt cửa.
Vội
vàng, anh chạy lên lobby lấy điện thoại gọi cho cảnh sát Khu Vực II.
Cảnh sát ập tới, bắt được năm người trong văn phòng Đảng Dân Chủ đang
cài giây nghe lén. Thế là chỉ trong giây phút “Water - gate” đã bắt đầu -
cửa đập đã mở ra cho nước lũ tràn xuống.
Ta thử hỏi giả như anh Wills không vòng lại lần thứ hai thì lịch sử đã như thế nào?
Vô
tình, chỉ trong giây phút anh đã là người khởi sự quá trình dẫn đến
ngày Song Bát. Một quá trình đã chấm dứt sự nghiệp của người Tổng thống
lừng danh.
'Đến con thuyền lênh đênh'
Ông đã đại thắng trong cuộc bầu cử nhiệm kỳ hai – một đại thắng ‘landslide’ - long trời lở đất. Để rồi đại bại, sụp đổ.
Chẳng bao lâu sau khi Sài Gòn sụp đổ, làn sóng thuyền nhân VN tị nạn bắt đầu bùng nổ trên biển.
TT Nixon đã ra đi và giã từ Thủ đô để trở về miền California, nơi có nắng âm hiền hòa hơn Washington
Chưa tới chín tháng sau ngày Song Bát, Miền Nam Việt Nam cũng sụp đổ theo ông.
Những con thuyền bé nhỏ lênh đênh trên mặt Biển Đông trông giống như những chiếc lá tre trôi dạt dào.
Bao nhiêu người quay lại giã từ Sài Gòn một lần chót.
Mệt lả, họ lẩm bẩm ‘thật là buồn, thật là buồn – It’s so sad, it’s so sad!’
Cũng chẳng còn hạt nước mắt nào để mà khóc. Không có lưng ghế, họ ngả đầu vào nhau, nhắm mắt lại, phó mặc cho số phận.
Với
chút may mắn, một số người đã vượt qua được đại dương. Từng đợt rồi lại
từng đợt, họ kéo nhau về Miền Cali, nơi có nắng ấm hiền hòa.
Thêm
một sự trùng hợp lạ lùng nữa: phần đông lớp người ra đi đầu tiên lại
được đưa tới Camp Pendleton, gần ngay khu nhà Casa Pacifica của TT Nixon
ở San Clemente. Cả hai đều nằm sát Đường Xuyên Bang – Intertate 5.
Bài viết phản ánh quan điểm riêng của tác giả, nguyên Tổng trưởng Kế
hoạch của Việt Nam Cộng hòa (1973-1975), người đồng thời là tác giả của
các cuốn sách "Khi đồng minh tháo chạy" và "Tâm tư Tổng thống Thiệu".
Mời quý vị theo dõi phần đầu .
0 comments:
Post a Comment