Geoffrey Cain/Foreign Policy
Lê Quốc Tuấn. X-CafeVN chuyển ngữ
Lê Quốc Tuấn. X-CafeVN chuyển ngữ
Ở nơi từng một thời là một trong những thị
trường mơi nổi thú vị nhất của châu Á, Nguyễn Văn Nguyên chỉ thấy trước
mặt một màu u ám. Từ năm 2008, việc kinh doanh của ông tại thủ đô kinh
tế của miền Nam Việt Nam đã trải qua hai cơn biến động của nạn lạm phát,
đạt đỉnh cao nhất của Á Châu trong tháng 8 năm 2011 ở mức 23% .
Hiện ông chỉ nhận các đơn đặt hàng nhỏ ở nước
ngoài cho Bình Minh, một nhà máy sản xuất mành tre lá từng một thời phát
triển mạnh của mình ở thành phố Hồ Chí Minh, để đưọc an toàn trước biến
động giá cả. Ông cho biết là các khách hàng ở Úc, Châu Âu, và Hoa Kỳ đã
giảm đơn đặt hàng của họ sau khi nhu cầu trên toàn cầu suy yếu. Chi phí
sản xuất toàn ngành công nghiệp đã tăng khoảng 30% trong khi khách hàng
chỉ sẵn sàng trả khoảng 10%, ông Đặng Quốc Hùng, phó chủ tịch của Hiệp
hội Thủ công mỹ nghệ và Công nghiệp gỗ thành phố Hồ Chí Minh cho biết.
Nguyễn đang phải thuê ít công nhân hơn cho mùa hè cao điểm và cắt giảm
mức lương của họ khoảng 120 USD một tháng từ 200USD. "Chúng tôi chỉ có
thể làm việc chậm lại, và các thứ hiện nay đều khó khăn", ông than thở
vào cuối tháng Sáu.
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ thích các nhà đầu tư
nhìn trường hợp như Nguyễn chỉ đơn giản là một trong những ảnh hưởng hy
hữu ở địa phương của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu chứ không phải là
một suy yếu của hệ thống. Trong hai thập kỷ kể từ khi Đảng Cộng sản hình
thành các cải cách kinh tế vào năm 1986, tăng trưởng GDP hàng năm trung
bình ở mức đáng nể 7.1%. Thật vậy, cách đây bốn năm, Việt Nam có vẻ như
một câu chuyện thành công tiếp theo của châu Á.
Trước khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) vào năm 2007, các nhà lãnh đạo của đất nước này cam kết sẽ làm tốt
hơn, đẩy nhanh hơn một cuộc tái cơ cấu và tư nhân hóa rộng lớn các
doanh nghiệp nhà nước lãng phí của họ , một quá trình mà họ gọi bằng tên
hoa mỹ là "cổ phần hóa." Trong năm 2007 Quỹ tiền tệ quốc tế đã tiên
đoán rằng các hàng nhập khẩu rẻ hơn do kết quả của việc gia nhập WTO có
thể kiềm chế lạm phát, và các cải cách cơ cấu có thể mang lại một sân
chơi giữa các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. Tuy nhiên, tại
chuyến thăm của Hillary Clinton đến thủ đô Hà Nội hồi đầu tuần này, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã buộc phải vào thế chống đỡ, hứa hẹn những điều
kiện thuận lợi ưu dãi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi ông cố gắng
để giữ cho "phép lạ Việt Nam" còn sống.
Trong thập kỷ qua, các chi phí lao động gia tăng
ở Trung Quốc có nghĩa là cái thời mà họ là các hãng xưởng của thế giới
đã không còn bao lâu nữa. Một nước Việt Nam ổn định, với lực lượng lao
động trẻ, rẻ , và cơ sở hạ tầng phục vụ được của mình có vẻ như sự lựa
chọn hợp lý tiếp theo. Đầu tư nước ngoài đổ vào trong suốt giữa những
năm 2000, với dòng vốn ròng hơn gấp ba lần đến 6.9 tỉ trong năm 2008 so
với hai năm trước đó. Việt Nam là "con hổ kế tiếp của châu Á đang hình
thành" Goldman Sachs tuyên bố. "Các nhà đầu tư nước ngoài đã không quan
tâm đến chính sách hoặc chính phủ. Họ được thúc đẩy bởi chi phí lao động
thấp", ông Edmund Malesky, một nhà kinh tế chính trị tại Đại học
California tại San Diego, người chú tâm đến thị trường Việt Nam cho
biết.
Kết quả là hóa ra, không lưu tấm đến khía cạnh
chính trị là một tầm nhìn tốn kém. Một số nhà kinh doanh đã dự đoán Việt
Nam năm 2012: một quốc gia vất vả với đồng tiền yếu, lạm phát, quan
liêu, và chủ nghĩa đồng chí đồng đội (cronyism) đã dẫn đến hàng tỷ đô la
lãng phí - trở thành cái nôi cho một chính phủ chuyên đưa ra những
quyết định như xây dựng cổng cảng, đường xá kỳ quặc chẳng phục vụ được
bao nhiêu về giá trị kinh tế.
Các thứ đã bắt đầu trở nên xấu đi khi Việt Nam
bắt tay vào một cuộc mở rộng 100 tỷ USD cổ phần tín dụng ở trong nước từ
2007đến 2010, một chương trình bị thúc dục bởi cuộc khủng hoảng kinh tế
năm 2008. Thay vì được hướng đến các doanh nghiệp tư nhân, chính phủ
lại chuyển tài trợ vào các doanh nghiệp quốc doanh có nối kết về chính
trị, các tổ chức đã sử dụng quỹ này để nhiệt tình mở rộng ra các khu vực
ngoài chuyên môn của mình, tạo ra một nhu cầu gia tăng cho các nguồn
tài nguyên nuôi dưỡng nạn lạm phát. Với đầy tiền mặt, họ đã có thể loại
trừ các đối thủ cạnh tranh có hiệu quả nhưng nhỏ hơn. Công ty Quốc doanh
đóng tàu Vinashin, sử dụng khoảng 60.000 công nhân, giám sát 28 nhà máy
đóng tàu, đa dạng hóa với gần 300 đơn vị, bao gồm cả sản xuất xe máy và
khách sạn, sau khi tạo thêm được 1 tỷ USD từ các nhà đầu tư quốc tế
trong năm 2007. Các quan chức từng hy vọng công ty này sẽ thúc đẩy tăng
trưởng như các tập đoàn bán công của Nam Hàn.
Nhưng trong năm 2010, Vinashin đã bị tìm thấy
gian dối trong các báo cáo tài chính của mình, và công ty này gần như
sụp đổ dưới số nợ cả trong nước và quốc tế đến gần 4,4 tỷ USD giá trị,
một con số gần như tương đương với 5% GDP. Hầu quả là công ty này đã
không trả được một khoản vay 4 triệu của Credit Suisse. Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng - người từng ủng hộ Vinashin như con cưng của mình trong nền
kinh tế nhà nước - đã buộc phải xin lỗi trước Quốc hội trong một buổi tự
kiểm đau khổ. Các đối thủ của Dũng, trong việc tìm cách bảo vệ các
"thái ấp" công ty và chức vụ chính trị của chính mình, đã tìm thấy vật
tế thần:
Nhà chức trách đã xử tám giám đốc điều hành vào
tháng Ba năm ngoái. Nhưng thay vì tăng tốc quá trình tư nhân hóa đầy hứa
hẹn và quá châm chạp từng được khởi xướng vào những năm 1990, chính
quyền lại dấu diếm sự thất bại dưới gậm giường.Chính phủ đã đi đến chế
độ kiểm soát thiệt hại, từ chối không trả 4 triệu nợ cho Credit Suisse
khi tập đoàn vẫn không chịu liên lạc với các chủ nợ châu Âu. Đối phó với
cuộc khủng hoảng này, Moody đã đánh tụt hạng tín dụng quốc gia của
Vietnam một nấc đến mức B1 từ Ba3, nghĩa là một loại "rủi ro tín dụng
cao", dưới hạng mức đáng đầu tư.
Các sự cố đổ vỡ tương tự như Vinashin đang trên
đường xảy đến, nhưng các mạng lưới chi trả qua lại bí mật đã cho phép họ
che dấu sổ sách thất bại của họ trong nhiều năm qua, theo một số biên
tập viên báo chí quốc doanh được phỏng vấn vào năm 2011 cho biết. Một
cuộc điều tra trong tháng 5 năm 2012 của chính phủ đã cho thấy rằng công
ty vận tải biển Quốc doanh Vinalines đã không trả được năm khoản vay
trị giá 1.1 tỷ và đã tích lũy nợ đến 2.1 tỷ, nhiều hơn bốn lần vốn sở
hữu của nó. Kể từ tháng Hai, bốn giám đốc điều hành đã bị bắt giữ vì
quản lý sai nguồn lực nhà nước, trong khí đó, chính quyền đang tìm kiếm
vị cựu chủ tịch công ty đã bỏ trốn.
Các nhà đầu tư nước ngoài, phải đối mặt với chi
phí lao động và vật liệu cao hơn, bắt đầu lo lắng rằng Việt Nam đang mất
đi ưu điểm giá rẻ của mình. Từ các cuộc phỏng vấn trong 2 năm qua, bốn
nhà đầu tư nước ngoài than phiền rằng công ty quốc doanh đã lạm dụng vị
trí của họ như những kẻ gác cổng của chính phủ cho các kết nối với ngành
công nghiệp. "Họ là những khó khăn, trở ngại", một luật sư kinh doanh
người Mỹ ở thành phố Hồ Chí Minh đã nói như thế. "Không ai muốn lăm ăn
với những anh chàng này."
Trong khi hiện nay các quan chức Việt Nam đảm
bảo với các nhà đầu tư rằng các điều xấu xa nhất đã đi qua rồi, thì một
kiểm toán do chính phủ phát hành vào đầu tháng Bảy lại cho thấy ít nhất
ba mươi doanh nghiệp nhà nước lớn khác mang gánh những món nợ đáng lo
ngại. Vấn đề sâu sắc hơn là ở chỗ Việt Nam, không giống như ở Trung
Quốc, các tầng lớp lãnh đạo Đảng Cộng sản là hoang tưởng về việc chia sẻ
chiến lợi phẩm với các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là với doanh nhân
nước ngoài. Ở Trung Quốc, đảng dãngiữ cho thị trường được cạnh tranh
bằng cách đưa các doanh nhân tư nhân vào, cải thiện quản trị, tư nhân
hóa khoảng 90.000 công ty có trị giá cao hơn $ 1,4 nghìn tỷ từ năm 1998
và 2005, và gần đây hơn họ đã thanh lọc các băng đảng Tân-Mao như cựu bí
thư Trùng Khánh Bạc Hy Lai. Các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn chưa tìm ra
cách để sửa chữa nền kinh tế của mình mà không cần từ bỏ một số hình
thức kiểm soát chính trị - một biện pháp mà họ đang không muốn dùng đến.
Thay vì làm sạch các mạng nhện giữa các doanh
nghiệp quốc doanh và các chính trị gia bảo trợ của mình, các cầu thủ
quyền lực đã đưa ra những chiến dịch chống lại một thế hệ mới của những
nhà doanh thương - kiêm lập pháp giàu có. Vào cuối tháng Năm, Quốc hội
đã bỏ 96% phiếu ủng hộ để lật đổ bà Đặng Thị Hoàng Yến, một trong chỉ
vài vài đại gia không cộng sản trong cơ quan lập pháp vì tội khai gian
trên sơ yếu lý lịch.Tội phạm thực sự của Yên: nhiều lần kêu gọi đối xử
công bằng với các doanh nghiệp tư nhân, bao gồm gần một nửa của nền kinh
tế. "Dọn sạch nhà cửa là gánh nặng mà cơ chế không thực hiện nổi," ông
David Brown, một nhà cựu ngoại giao Mỹ tại Hà Nội cho biết.
Trong tháng sáu, việc thắt chặt tín dụng của
chính phủ đã giúp giảm lạm phát từ 23% tháng Tám năm ngoái xuống 6,9%.
Vấn đề hiện nay, sở hữu chủ một nhà máy sản xuất nhỏ như Nguyễn cho
biết, là cơn lũ tín dụng dễ dàng đã làm tăng nguy cơ của một cuộc khủng
hoảng ngân hàng. Sau cuộc đổ sụp của doanh nghiệp nhà nước, chính phủ
thừa nhận một điều gì có thể là sai về cơ bản trong hệ thống tài chính
của mình. Đầu tháng Sáu, người cầm đầu ngân hàng quốc gia Nguyễn Văn
Bình cho biết, khoảng 10% các khoản nợ tại ngân hàng Việt Nam là nợ xấu.
Thay vì cải cách kinh tế, chính phủ lại đề nghị những thứ tương tự :
Một kế hoạch nhằm tạo ra một cơ quan quản lý tài sản quốc qia với 4.8 tỷ
để đối phó với các khoản nợ. Nhưng điều đó có nghĩa là lại thiết lập
một bộ máy quan liêu, vưóng mắc trong mạng lưới bảo trợ giữa các các
tầng lớp lãnh đạo, các ngân hàng, và các công ty.
Các nhà đầu tư đã phàn nàn về việc bị quá tải
với nạn quan liêu, và rất nhiều người trong số họ đang suy nghĩ về việc
di chuyển đến Indonesia, Bangladesh, Myanmar, ông Denny Cowger, một luật
sư của công ty Duane Morris, một công ty luật của Mỹ có văn phòng tại
Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cho biết. Trong Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu của
Diễn đàn Kinh tế Thê giới cho năm 2011 và 2012, Việt Nam đã bị tụt 6
hạng xuống vị trí 65, vì các quy định nặng nề, lạm phát, thâm hụt ngân
sách, và cơ sở hạ tầng căng thẳng., báo cáo này khuyên đất nước này nên
hướng đến một thị trường lao động tương đối hiệu quả và "có tiềm năng
đổi mới" ).
Trong khi đó, các khu vực nhà nước vẫn tiếp tục
ngấu nghiến đến 40% GDP. "Quan trọng hơn hết là Việt Nam phải thực hiện
một số cải cách kinh tế cơ bản trong nước để duy trì khả năng cạnh
tranh", ông Carl Thayer, một giáo sư danh dự tại Đại học New South Wales
nói. "Nhiều khả năng là các nhà lãnh đạo Việt Nam sẽ sử dụng cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu như một cái cớ bào chữa cho những việc xảy
ra".
Nguồn: Foreign Policy
0 comments:
Post a Comment