Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA - Kỳ
trước, khi đề cập đến những ưu điểm của chủ nghĩa tư bản, chuyên gia
kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa nói ra điều có vẻ nghịch nhĩ rằng nhà nước và
cả các doanh nghiệp cũng không có nhiệm vụ tạo ra việc làm.
AFP photo- Công nhân tổ hợp PSA sản xuất hai
loại xe Peugeot và Citroen nổi tiếng của Pháp biểu tình tại Aulnay Sous
Bois hôm 13/7/2012, một ngày sau tuyên bố sẽ cắt giảm 8,000 việc làm.
Ông nhấn mạnh là nhà nước phải tạo điều kiện cho
doanh nghiệp tìm lợi nhuận và chính nhu cầu kiếm lời mới khiến doanh
nghiệp tuyển người, nâng cao lợi tức cho xã hội và góp phần giảm bớt
nguy cơ thất nghiệp. Diễn đàn Kinh tế xin trở lại đề mục này qua phần
thực hiện của Vũ Hoàng.
Vũ Hoàng: Xin
kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, doanh nghiệp có thể giải quyết nạn thất
nghiệp như thế nào là đề tài mà chúng ta có gián tiếp nói tới qua chương
trình phát thanh tuần trước. Hôm nay, chúng tôi xin đề nghị là ta sẽ đi
sâu hơn vào lĩnh vực có thể rất sơ đẳng nhưng cũng là cơ bản của bộ môn
kinh tế. Ông nghĩ sao về đề nghị này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước khi trình bày bối cảnh để xác định là chúng ta trao đổi về chuyện gì, tôi xin được kể lại một giai thoại có thật.
Sau năm 1975, tôi được biết là một ông lãnh đạo
Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Paris kể cho một người lãnh đạo đảng Cộng sản
Việt Nam, rằng giai cấp công nhân Pháp đấu tranh thành công đến độ nhân
viên bị thất nghiệp vẫn hưởng trợ cấp bằng 70% mức lương cuối cùng nên
nhiều người khỏi cần tìm việc nữa! Nghe thấy vậy thì tôi giật mình cho
kinh tế Việt Nam nếu người ta tiếp tục lý luận theo kiểu đấu tranh giai
cấp vì ai sẽ sản xuất cho người khác tiếp tục hưởng trợ cấp dồi dào như
vậy! Sau này, mình cũng chẳng mấy ngạc nhiên về tỷ lệ thất nghiệp quá
cao tại Pháp.
Đó là cái chuyện được và mất trong kinh tế học
là người ta chỉ nhìn thấy cái được của một thành phần này mà không thấy
cái mất của cả nền kinh tế quốc dân trong lâu dài. Giai thoại năm xưa
cũng phần nào giải thích vấn đề hiện tại của Âu Châu với nạn thất nghiệp
quá cao khi thị trường lao động được bảo vệ như vậy. Bây giờ, mình mới
nói qua phần bối cảnh.
Vũ Hoàng: Theo thói quen, khi trình bày về bối cảnh thì ông cũng có ý xác định là ta đang nói về chuyện gì, ở đâu. Có phải vậy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa
rằng đúng như vậy vì trước hết, tôi đề nghị dùng chữ "nhân dụng", là
vận dụng nhân lực, thay vì chữ "lao động" với hàm nghĩa tiêu cực. Lý do
là nhân loại nói chung đã tiến lên trình độ sản xuất khác, khi bắp thịt
không còn vị thế quan trọng bằng kiến thức, kể cả kiến thức của người
thợ mà ta gọi là "tay nghề".
Tiến trình tích lũy kinh nghiệm, tay nghề hay
kiến thức nó giải thích vì sao mà người trung niên thường có lương cao
dù sức khoẻ kém thanh niên và cũng giải thích vì sao mà phụ nữ hay phái
yếu tham gia ngày càng nhiêu hơn vào tiến trình sản xuất. Yếu tố quan
trọng ở đây là cái đầu, hay năng suất, hơn là cánh tay. Mà điều kiện
then chốt cho sự thăng tiến đó là quyền tự do tìm nơi làm việc và học
nghề để có mức lương cao hơn khi đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Thứ hai là trong chế độ độc tài, công nhân viên
không có quyền tự do thành lập công đoàn hay hiệp hội độc lập để bảo vệ
quyền lợi. Các công đoàn nhà nước là công cụ chính trị của đảng độc
quyền và không chỉ giới hạn quyền tự do của thợ thuyền mà còn giúp nhà
nước bóc lột công nhân và làm cơ chế lương bổng bị sai lệch, thí dụ như
với chiến lược lương rẻ. Vì thế ta mới thấy có hiện tượng biểu tình
chính đáng mà vẫn bị coi là phi pháp tại Việt Nam và Trung Quốc.
Vai trò của Công đoàn
Vũ Hoàng:Đó
là về trường hợp của các nước độc tài, chứ công đoàn hay nghiệp đoàn
trong các quốc gia có tự do thì lại khác hẳn. Ông giải thích thế nào về
chuyện này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trong
các xã hội dân chủ, công đoàn được tự do thành lập để bảo vệ quyền lợi
công nhân đối diện với chủ nhân và đây là một nhu cầu chính đáng để định
chế hóa việc đàm phán hay ngã giá giữa công nhân viên và doanh nghiệp.
Khi người dân tại các nước độc tài đòi được quyền tự do lập hội và sinh
hoạt công đoàn thì cũng trong mục tiêu này.
Tuy nhiên, trong các nước dân chủ, người ta cũng
chứng kiến hiện tượng không hẳn có lợi cho quyền lợi công nhân và sinh
hoạt kinh tế. Trước hết là các công đoàn tự do có thể thành thế lực
chính trị và tác động vào chính trường cho nhiều chủ trương nằm bên
ngoài lĩnh vực kinh tế. Nạn chính trị hóa công đoàn là một lý do giải
thích vì sao mà ngày càng có ít công nhân trở thành đoàn viên là hiện
tượng đã thấy từ mấy chục năm nay.
Thứ nữa, công đoàn mà bị chính trị hóa thì dễ
cấu kết với bộ máy nhà nước và làm lệch lạc quy luật đàm phán giữa công
nhân và doanh nghiệp, có khi gây vấn đề kinh tế và dẫn đến nguy cơ thất
nghiệp. Nếu trong các nước dân chủ người ta lại theo quan điểm đấu tranh
giai cấp như mình vừa nhắc tới tại Pháp thì đấy là vấn đề. Cho nên việc
phân biệt này rất quan trọng khi ta nói đến vai trò của công đoàn ở hai
thế giới trái ngược, có tự do hay không.
Vũ Hoàng: Phần
bối cảnh và định nghĩa ấy dẫn ta về một đề tài thời sự là khi tập đoàn
sản xuất xe hơi Peugeot của Pháp quyết định đóng cửa một xưởng ráp chế
và sa thải tám ngàn nhân viên. Chính phủ Pháp đã phản đối và đòi can
thiệp để bảo vệ quyền lợi của công nhân. Ông nghĩ sao và giải thích thế
nào về chuyện này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa
rằng tổ hợp PSA sản xuất hai loại xe Peugeot và Citroen nổi tiếng của
Pháp đã quyết định hôm Thứ Năm vừa qua là sẽ đóng cửa một xưởng ráp chế
tại Aulnay Sous Bois và tái phối trí lại công nhân với hậu quả là cắt
mất tám ngàn việc trong hai năm tới. Lý do là nạn sản xuất thừa so với
yêu cầu của thị trường, hoặc nói đúng hơn là sức cạnh tranh sút kém
khiến xe bán không được và doanh nghiệp bị lỗ. Khi gặp một chuyện như
vậy, chính quyền tất nhiên là phải tìm hiểu và can thiệp để giúp đỡ các
công nhân có thể bị sa thải.
Trong các xã hội dân chủ, công đoàn được tự do thành lập để bảo vệ quyền lợi công nhân đối diện với chủ nhân và đây là một nhu cầu chính đáng để định chế hóa việc đàm phán hay ngã giá giữa công nhân viên và doanh nghiệp.Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nhưng then chốt ở đây là phải tìm hiểu vì sao
hãng PSA không thể sản xuất nhiều hơn và bán được nhiều hơn hầu có thêm
lợi nhuận và tạo thêm việc làm cho công nhân. Mối nguy trong vụ này là
giữa công nhân và doanh nghiệp lại xuất hiện một lực lượng thứ ba là nhà
nước, với lý do chính đáng về xã hội mà gây vấn đề về kinh tế là làm
cho các hãng xưởng của PSA tại Pháp bị lỗ và mất sức cạnh tranh nếu so
với cơ sở sản xuất cũng của PSA ở một nước Âu Châu khác, thí dụ như tại
Tây Ban Nha hay Slovakia.
Chuyện ấy cũng khiến ta nên nhớ lại là vì sao ba
hãng xe hơi Hoa Kỳ bị lỗ lã và nguy cơ phá sản cách đây mấy năm khi các
hãng xe của Nhật, Đức và Nam Hàn thiết lập tại Mỹ, tuyển dụng nhân công
Mỹ lại vẫn có lời mà chẳng phải cầu cứu nhà nước. Vấn đề là khả năng
cạnh tranh.
Vũ Hoàng: Ông
nhấn mạnh đến yếu tố cạnh tranh, tức là khả năng sản xuất và bán ra có
lời. Nhưng việc truy tìm lợi nhuận như vậy có gây thiệt hại cho công
nhân hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ta
nên nhắc lại mục tiêu phải được xem là chính đáng chứ không là một cái
tội của doanh nghiệp, đó là lợi nhuận. Ngày nào mà sản xuất thêm vẫn còn
có lãi thì doanh nghiệp còn tuyển thêm người. Muốn có lời cao thì doanh
nghiệp có thể nâng giá bán nhưng chỉ trong một mức nào đó mà thôi vì
đắt quá thì không thể cạnh tranh được và sẽ bị lỗ.
Giải pháp kia là giảm bớt phí tổn cho mỗi đơn vị
sản xuất thêm, tức là phải nâng cao năng suất, với công nhân có tay
nghề cao hơn qua tiến trình đào tạo và huấn luyện. Việc cân nhắc hơn
thiệt như vậy phải được thảo luận với công đoàn để đôi bên cùng thống
nhất về mục tiêu có lợi cho cả hai. Trong mối quan hệ song phương này,
nhà nước phải có mặt để đảm bảo là công đoàn và công nhân có quyền tự do
chứ không bị ép. Nhưng đôi khi nhà nước không chỉ giữ vị trí trọng tài
và tạo môi trường thuận lợi cho kinh doanh để kiếm lời trong điều kiện
lao động an toàn.
Nhà nước có thể gây ra hậu quả bất lường khi là
lực lượng can thiệp vào tiến trình thương thảo song phương giữa công
nhân và chủ nhân, giữa công đoàn và doanh nghiệp. Thí dụ như với lý do
đẩy lui nạn thất nghiệp, nhà nước hay các chính trị gia làm ra luật hoặc
áp dụng chính sách bảo vệ để doanh nghiệp không được sa thải công nhân
viên. Hậu quả bất lường ở đây là lý tưởng công bằng lại dẫn tới nạn thất
nghiệp!
Thị trường nhân dụng
Xếp hàng nộp hồ sơ xin việc về lĩnh vực y tế tại một hội chợ việc làm tổ chức ở New York vào 08/5/2009. AFP photo
Vũ Hoàng:Chuyện hậu quả bất lường này quả là ly kỳ. Vì sao mục tiêu ban đầu là giải trừ thất nghiệp lại có thể dẫn tới thất nghiệp?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng
ta nhắc đến một trường hợp phổ biến là các luật lệ bảo vệ quyền lao
động hoặc chính sách lương bổng gọi là "công bằng". Mục tiêu ở đây là
giúp công nhân viên đang có việc sẽ không mất việc và giữ được mức lương
cao. Nhưng kết quả là làm thị trường lao động bị sơ cứng và lương bổng
quá đắt khiến doanh nghiệp bị lỗ nên sẽ tìm giải pháp nâng cao năng suất
và khỏi tuyển thêm người mới. Hậu quả là người đã có việc thì được ngồi
mát ăn bát vàng, người chưa có việc thì tìm không ra doanh nghiệp tuyển
dụng và kinh tế nói chung sa sút vì cái lý tưởng cao quý đó.
Một thí dụ là trước khi cải cách kinh tế quãng
hai chục năm trước, xứ Ấn Độ đã có loại luật lệ bảo vệ lao động như vậy.
Cụ thể là kỹ sư trong doanh nghiệp nhà nước về điện thoại có quy chế
làm việc toàn thời và vĩnh viễn, tức là không bao giờ bị sa thải. Kết
quả là doanh nghiệp bị lỗ, nhân viên vẫn có việc có lương mà chẳng sản
xuất gì nhiều. Sau khi cải cách và phải cổ phần hóa hay tư nhân hoá các
cơ sở sản xuất này, tức là bán cho tư doanh, thì tư doanh bị kẹt vì hợp
đồng bảo vệ đó. Họ không tham gia đầu tư và không tạo thêm việc làm cho
kinh tế Ấn Độ cho tới khi xứ này phải sửa lại luật lệ. Chính là sự can
thiệp của nhà nước để đẩy lui thất nghiệp lại là yếu tố gây ra thất
nghiệp.
Vũ Hoàng: Bây
giờ thì thính giả của chúng ta có thể hiểu vì sao ông nói rằng nhà nước
không có chức năng tạo ra việc làm vì đấy là vai trò của doanh nghiệp
khi truy tìm lợi nhuận.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nếu
không hiểu quy luật kinh tế thông thường thì người ta có thể nghĩ lý
luận đó nhuốm mùi phản động nhằm bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp hay
giới chủ nhân. Sự thật nó phức tạp hơn thế. Tôi xin lấy một thí dụ tại
Hoa Kỳ này từ ba chục năm về trước để mình nhìn ra toàn cảnh.
Năm 1982, tạp chí chuyên đề về kinh doanh là
Forbes đã lần đầu tiên trình bày danh sách 400 người giàu nhất của nước
Mỹ, trong đó có 23 người thuộc dòng họ du Pont, 14 người thuộc dòng
Rockefeller và 11 người họ Hunt, là các đại gia tỷ phú từ nhiều đời. Hai
chục năm sau, danh mục này chỉ còn ba ông Rockfeller, một ông Hunt và
chẳng còn tay du Ponts nào nữa. Điều ấy có nghĩa là xã hội thường xuyên
chuyển dịch và đào thải chứ không thể có hiện tượng con vua lại cứ làm
vua. Khi tìm hiểu thêm về các đại gia tỷ phú đó thì mình còn thấy rằng
nhiều người khởi nghiệp rất sớm, từ khi còn ở tuổi thiếu niên. Họ cứ thế
mà học nghề từ dưới lên, cho đến khi làm chủ doanh nghiệp xưa kia đã
tuyển họ nên hiểu rất thấu đáo tiến trình sản xuất và kinh doanh.
Yếu tố ảnh hưởng đến nhân dụng chính là tính toán đầu tư của loại doanh nghiệp này và tạo ra môi trường thuận lợi cho đầu tư chính là một cách thiết thực để đẩy lui thất nghiệp.Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Yếu tố then chốt ở đây là quyền tự do và khả
năng thay đổi chứ không nằm trong chế độ bảo vệ. Khi nhà nước thi hành
chính sách bảo vệ, dù là vì động lực xã hội cao đẹp, thí dụ như về lương
bổng, phúc lợi và điều kiện lao động, kể cả quyền nghỉ hè mà vẫn ăn
lương, nhà nước lại góp phần gây ra tình trạng thất nghiệp lưu cữu ở mức
cao, kéo dài khá lâu cho những người mất việc. Chúng ta có thấy hiện
tượng đó tại Âu Châu nếu so sánh với Hoa Kỳ.
Vũ Hoàng: Chúng
ta đi đến đoạn kết là tính toán kinh doanh với ảnh hưởng vào lĩnh vực
nhân dụng như ông nói. Xin ông trình bày cho tiến trình này.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thực
tế thì doanh nghiệp phải tính toán làm sao để mỗi khi sản xuất thêm một
đơn vị thì vẫn còn có lời và còn có lời thì còn sản xuất. Đó là hoàn
cảnh chung, nhưng các tổ hợp lớn thật ra chẳng là những cơ sở tuyển dụng
nhiều nhất. Khi nghiên cứu thị trường nhân dụng và cần giải quyết nạn
thất nghiệp người ta mới thấy rằng các doanh nghiệp loại nhỏ và trung
bình mới tuyển dụng nhiều nhất trong vòng năm năm mới được thành lập.
Yếu tố ảnh hưởng đến nhân dụng chính là tính toán đầu tư của loại doanh
nghiệp này và tạo ra môi trường thuận lợi cho đầu tư chính là một cách
thiết thực để đẩy lui thất nghiệp.
Ngược lại, khi nhìn sự thể với nhãn quan đấu
tranh theo lối hơn bù kém nghĩa là cái được của người này là cái mất của
người khác, thì nhà nước tạo ra hiện tượng tranh ăn vì phe nào cũng
muốn giành cho mình một phần bánh lớn hơn thay vì nghĩ đến sản xuất một
cái bánh to hơn. Hậu quả của tâm lý đó là làm sản xuất co cụm và thất
nghiệp kéo dài.
Vũ Hoàng: Xin cảm ơn ông Nghĩa về những lý luận rất cơ bản này của kinh tế học.
0 comments:
Post a Comment