Thursday, June 16, 2011

Biển Đông và bài ngửa đối với Việt Nam

Thời gian qua, với việc bám víu quá lâu – mà nói khác đi, là lạm dụng – vào chiến lược đi dây, đã biến Việt Nam thành một thành tố tĩnh trong một cục diện động và các thành tố động, khiến Hà Nội gần như bế tắc trong lựa chọn chiến lược bạn - thù. Điều này chủ yếu xuất phát từ việc đánh giá chiến lược không đầy đủ đối với tương quan địa chính trị, vốn đòi hỏi sự tiếp cận tỉnh táo và lạnh đầu.


Philippines dỡ bỏ cột chủ quyền trên các đảo có tranh chấp ở biển Ðông

Đặt mình vào vị thế cửa ngõ Đông Nam Á, như một nhân tố không thể thay thế trong bàn cờ địa chính trị của khu vực và châu lục khiến dễ nghĩ rằng ta có thể chủ động đặt các thành tố khác vào thế trận đi dây của chính ta, với những điều kiện và cái giá thuận lợi hơn so với họ. Thế nhưng, khi ta tĩnh trong thế đi dây quá lâu thì các yếu tố khác buộc phải động, và điều đó có thể nảy sinh những tình huống khôn lường.

1. Những trạng huống khả dĩ của cuộc chơi đi dây mới

Tình trạng cài răng lược về quan hệ thể chế và liên hệ đồng minh, đồng chí, trong bối cảnh tranh chấp khi lạnh khi nóng, cùng với việc thi thố đồng thời nhiều đối sách ngoại giao, chính trị, quân sự, khiến cho viễn cảnh can dự của nhiều chủ thể vào Biển Đông đồng nghĩa với việc có một cuộc chơi “đa dây”.

Tất nhiên, theo cách nhìn của giới thẩm quyền Việt Nam, khi không đủ cả thế và lực thì trạng thái tốt nhất là như hiện nay. Tức là, dù có lúc căng thẳng, thậm chí gặp tổn thất nhất định, nhưng không có xung đột quân sự với Trung Quốc khiến thay đổi hiện trạng biển, đảo, thì ta và bạn vẫn gắn bó. Còn với Mỹ, dù có thân thiện đến đâu, thậm chí là đi đến hợp tác nhất định về quân sự, nhưng do đối nghịch về ý thức hệ nên nước này vẫn chỉ là đối tác cơ hội, như một đối trọng dự phòng và từ xa để giữ nguyên trạng cho Biển Đông và nguyên trạng cho quan hệ với… Trung Quốc.

Về phía Hoa Kỳ, kịch bản tốt nhất vẫn là Việt Nam trở thành đồng minh đầy đủ trên mặt trận chống lại sự bành trướng hải dương của Hoa Lục. Nhưng đương nhiên, Mỹ cũng có thể vận dụng thể thức đối tác tương ứng mà Việt Nam chủ trương với họ. Với quan hệ kiểu này, họ vẫn không thất thế trên biển nhưng có phần bị động trước sự bất định triền miên, có chủ ý của Việt Nam. Tuy vậy, siêu cường này không thiếu đồng minh để chấm dứt sự bị động của họ. Việc “xuất hiện” Philippines có lẽ không nằm ngoài bước đi đó.

Một khi Phillippines nổi lên như một yếu tố chính trong tranh chấp ở nam Biển Đông thì Việt Nam sẽ phải chấp nhận một cuộc chơi đi dây mới, nhiều người chơi và luật chơi hơn, nhiều khó khăn và hiểm nghèo hơn.

Trước tiên trong đó, chính là cuộc chơi của Hoa Kỳ, giữa Việt Nam với Philippines (và có thể với các nước Đông Á khác có tranh chấp trên biển). Với vai trò đồng minh thể chế, sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đối với Philippines là điều khó nghi ngờ. Đồng thời, Việt Nam vẫn là một đồng minh tiềm tàng trong chiến lược ngăn chặn Trung Quốc trên biển, nên vẫn là một đối tác để Hoa Kỳ đu đưa.

Trừ trường hợp không quan trọng những tính toán sách lược hay chiến lược với Hoa Kỳ, Việt Nam sẽ phải giữ cho đầu dây của mình tạo được sự cân bằng. Tình huống xấu nhất của cục diện này là Hoa Kỳ ngã hẳn về Philippines, chẳng hạn do sự cân bằng đó bị mất, do vai trò đồng minh cơ hội của Việt Nam không còn nữa... Khi đó, chẳng những mất cơ may thắng lợi hoặc cùng thắng trong tranh chấp với Philippines và những nước phía nam khác, ta chắc chắn sẽ thất bại trong tranh chấp với Trung Quốc vì đối với họ, khả năng dàn xếp “nội bộ” với Việt Nam về một giải pháp đôi bên cùng thắng là bất khả.

Hoa Kỳ cũng có thể đi dây giữa Việt Nam với Trung Quốc. Khách quan mà nói, sau sự kiện Hoàng Sa năm 1974, đến nay, các nước đi của Hoa Kỳ với Trung Quốc không gây phương hại đến chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Nhưng trong cục diện mới, điều đó có thể thay đổi.

Kiềm tỏa sự độc chiếm của Trung Quốc là một trong hai mục tiêu chính của Hoa Kỳ tại Biển Đông. Điều đó cũng nhằm phục vụ cho mục tiêu còn lại, là bảo đảm cho nhu cầu và quyền tự do hải hành trên vùng biển quốc tế có tuyến hải lưu quan trọng bậc nhất thế giới. Ở cả hai mục tiêu này, Hoa Kỳ đều cần đến quan hệ đồng minh với các nước phía nam Trung Hoa, đặc biệt là mục tiêu đầu. Với mục tiêu đó, sẽ thành công cao nhất nếu Việt Nam là đồng minh của họ. Nhưng điều đó không có nghĩa là chỉ khi có sự “thiên vị” của Việt Nam thì mới có được thành công.

Trong trường hợp xấu nhất, Việt Nam nghiêng nhiều hay nghiêng hẳn về Trung Quốc, mức độ hoàn thành mục tiêu thứ nhất sẽ thấp nhất đối với Hoa Kỳ, nhưng cũng là nguy hiểm nhất đối với Việt Nam. Khi đó, bên cạnh việc chịu sự “bảo hộ” tuyệt đối của Trung Quốc, Việt Nam chẳng những mất một quan hệ đồng minh tiềm tàng, đối trọng khả dĩ với tham vọng của Hoa Lục ở Biển Đông, mà còn có thể bị đồng minh hờ này đem ra đổi chác.

Với lựa chọn như thế của Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ phải thích ứng, giảm mức độ của mục tiêu thứ nhất. Nếu vậy, đối với Bắc Kinh, một mặt, Washington mặc cho việc biến vịnh Bắc Bộ thành ao nhà; nhưng mặt khác, sẽ tăng cường hậu thuẫn cho các đồng minh thực ở phía nam để giữ vững ảnh hưởng ở trung và hạ Biển Đông. Đối với Hà Nội, do không còn giá trị đồng minh, một mặt họ sẽ mặc cả với Bắc Kinh bằng quyền lợi của Việt Nam để đổi lấy quyền lợi tối đa có thể được trên vùng biển gần Việt Nam mà họ nay không có nhiều cơ hội để gia tăng ảnh hưởng; và đồng thời, sẽ là sự hậu thuẫn cao nhất dành cho các đồng minh phía nam trong tranh chấp với Việt Nam, với mục đích là mở rộng tối đa vùng lãnh hải mà họ có thể duy trì sức mạnh, nhằm bảo đảm cao nhất cho mục tiêu thứ hai trên Biển Đông.

Tương tự, khả dĩ Trung Quốc cũng đi dây giữa Hoa Kỳ với Việt Nam. Trong điều kiện chưa hoặc không thể độc chiếm hoàn toàn Biển Đông, chia sẻ ảnh hưởng với Hoa Kỳ là điều họ buộc lòng phải chọn. Trong thời gian phải “chịu đựng” như thế, tăng cường tối đa và củng cố phạm vi kiểm soát của mình trên biển là chiến lược của họ. Vùng biển quanh Hoàng Sa, quanh những đảo mà họ chiếm đóng tại Trường Sa, cùng với vùng “phụ cận” tiếp giáp với Việt Nam mà họ kiểm soát, là những đối tượng hàng đầu cho sự tăng cường đó. Thỏa hiệp nhất định với Hoa Kỳ để củng cố những phạm vi này, là điều họ đương nhiên tính đến. Và lúc này, một khi Hà Nội không là đồng minh của mình, do ưu thế mà Bắc Kinh có được từ việc kiểm soát Hoàng Sa, Washington không cớ gì mà không “hy sinh” quyền lợi của Việt Nam nhằm đổi lấy nhượng bộ nào đó từ Trung Quốc. Với vị thế chỉ vừa nổi lên trên biển mà Hoa Lục đã có thể trắng trợn đề nghị Hoa Kỳ chia đôi Thái bình dương, thì việc đưa những đề xuất “chia sẻ” khác, khả thi hơn, hẳn là cũng chẳng cần phải giấu giếm.

Trung Quốc cũng có nhiều khả năng đi dây giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á khác có mặt trong tranh chấp. Xé lẻ ASEAN, vô hiệu hóa giải pháp đa phương, đơn độc hóa Việt Nam trong tranh chấp vẫn luôn là chiến lược và sách lược của Hoa Lục. Bằng ưu thế chính trị và kinh tế, ngoại giao và quân sự, bất kỳ lợi lộc nào mà một nước Đông Nam Á có được từ hợp tác với Việt Nam cũng có thể dễ dàng bị họ làm cho suy yếu hoặc triệt tiêu, khi so sánh với lợi lộc tương ứng nếu hợp tác với Trung Quốc.

Phần các nước trong khu vực, ngoài Campuchia và Lào, Việt Nam chưa bao giờ là đồng minh thân cận, xét cả về thể chế lẫn văn hóa, lịch sử lẫn hiện tại. Trước sức ép từ sự bành trướng của Trung Hoa, khi so với Việt Nam, họ ở một vị trí địa lý ít nguy hiểm hơn nhưng lại có một liên hệ đồng minh vững vàng hơn. Do vậy, thật khó tìm được lý do để họ phải vì Việt Nam mà đưa ra những lựa chọn không có lợi ích trực tiếp đối với họ. Liên hệ đồng minh song phương nào đó mà Việt Nam có thể tạo lập với một trong những nước này, nếu không xem chỉ như bước đệm để có một liên hệ đồng minh thực chất hơn với bên thứ ba, thì cũng chỉ là nhất thời, thiếu hiệu quả, sớm muộn sẽ đứt lìa trước những sức ép hay liên hệ khác, thực chất hơn mà nước đó có được từ nước Đông Nam Á khác, từ Hoa Kỳ hay Hoa Lục…

Chưa hết, Đài Loan cũng là một thành tố tiềm ẩn. Trên trường quốc tế, vị thế chính trị của họ rất yếu nhưng không thể do đó mà Việt Nam có thể xem thường, vì vị thế chiến lược và quân sự của họ trong tranh chấp Biển Đông lại không như vậy. Sự có mặt của họ ở nơi thuộc nhóm đảo trung tâm của Trường Sa tạo nên một tình thế zigzag. Với tư cách đồng minh sống còn của hòn đảo đang muốn giành sự độc lập đầy đủ này, có thể xem như Hoa Kỳ đã đứng một chân vào vị trí mà Đài trấn giữ, và thế đan xen đó tiềm ẩn những tình huống khác thường. Trong thời điểm nổi sóng khi đăng ký thềm lục địa mở rộng, Đài dường như không nổi bật so với các nước có tranh chấp khác, nhưng họ sẽ là một trong những quân bài năng động nhất khi đến thời điểm. Không thể chính danh như một quốc gia để đưa tranh chấp ra quốc tế như Philippines, nhưng với mối nối của Hoa Kỳ, khi cần, hai chủ thể này có thể tạo thế liên kết. Với tuyên bố chủ quyền trên toàn thể Trường Sa và có các đồng minh thể chế – dù chỉ ẩn tàng nhưng ổn định và vững chắc – Đài Loan cũng có thể trở thành một đầu chung dây với Việt Nam, mà các thế lực khác đi trên đó.

Như thế, trong cục diện mới đang định hình ở Biển Đông, thế đi dây của Việt Nam đã vỡ, vì khác với trước, khi còn chủ động giăng một sợi dây và đi trên đó, nay thì chính Hà Nội bị đặt thụ động vào nhiều đầu dây.

Các lựa chọn cũng sẽ gay gắt hơn nhiều. Trừ khi diễn biến trên Biển Đông chỉ dừng lại như hiện nay, tức dù có những đụng độ cục bộ và có sự hiện diện nhất định của Hoa Kỳ nhưng hiện trạng trấn đóng và xung đột không thay đổi; bằng không, dù có những dị biệt nhất định, ngoài Việt Nam, các nước nhỏ khác có tranh chấp chắc chắn sẽ nghiêng hẳn về Mỹ như thế lực chính hậu thuẫn cho họ.

Ở tình huống đó, trừ khi Trung Quốc từ bỏ hẳn dã tâm thôn tính nốt Trường Sa và Biển Đông, cuối cùng thì Việt Nam sẽ hoặc là cùng nằm trong nhóm đồng minh này, hoặc nghiêng hẳn về Trung Quốc. Khả năng thứ ba, Hà Nội tiếp tục giữ tính “độc lập”, thì sẽ phải chơi cuộc chơi đơn độc, để vừa chống lại sự tước đoạt chủ quyền biển của Trung Quốc vừa kháng cự trước sự tranh giành quyền kiểm soát Biển Đông của các thế lực đại dương khác. Còn khả năng thứ tư, Việt Nam tạo liên hệ đồng minh với các thế lực khác ngoài các thành tố vừa nêu, là bất khả, vì hoặc là các thành tố đó chung cuộc cũng quy về nhóm đồng minh đông và nam Biển Đông, hoặc là thế và lực của họ không đủ để trở thành một thành tố riêng lẻ, độc lập và có ảnh hưởng trong khu vực.

2. Ý thức hệ và dân tộc

Cần khẳng định dứt khoát, rằng lãnh thổ và chủ quyền, trước hết và quyết định, là vấn đề quốc gia - dân tộc, mà không phải là vấn đề ý thức hệ. Trong quan hệ với Trung Hoa, điều đó lại càng không.

Khi tiếp xúc với các giới chức và lãnh đạo Việt Nam, đặt biệt vào thời điểm có vấn đề về lãnh thổ hay chủ quyền, người bạn phương bắc thường nhấn mạnh đến đại cuộc. Chữ “đại cuộc” này thường được hiểu là đại cuộc của chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, lịch sử Trung Hoa từ khi có Đảng Cộng sản, đối với bên ngoài, chưa bao giờ họ đặt đại cuộc của chủ nghĩa xã hội lên trên cái đại cuộc đại Hán. Trước đây đã thế, mà nay cũng thế. Đồng minh gần gũi nhất của họ, cả ở vị trí địa lý lẫn trên trường quốc tế, cả về ý thức hệ lẫn đường hướng phát triển xã hội, lại là đối tượng bị họ uy hiếp nhất. Đơn giản là vì với Việt Nam, hệ ý thức để quy chiếu là “chủ nghĩa”, thì đối với họ là “trung Hoa”. Đối ứng thích hợp là chúng ta phải trả quan hệ lãnh thổ và chủ quyền về với hệ quy chiếu của chính nó: quốc gia - dân tộc.

Hệ quy chiếu giai cấp đã đưa đến tiếp cận đồng chí, trong khi lẽ ra, với quy chiếu quốc gia - dân tộc, sẽ đưa đến tiếp cận đồng minh. Khi gặp vấn đề, tiếp cận đồng chí khiến ta cứ loay hoay với bạn để thu xếp về lãnh thổ và chủ quyền, trong khi với tiếp cận đồng minh, ta sẽ mạnh dạn đến với các đối tác khác để bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền đó.

3. Quyền lợi của Trung Quốc, và Việt Nam

Trong bối cảnh biển cả ngày càng đóng vai trò lớn về kinh tế, chính trị và quân sự, thì một khi nhìn nhận quyền lợi của Hoa Kỳ tại Biển Đông, ta cũng phải thấy và tôn trọng quyền lợi của Trung Hoa tại vùng biển phía nam của họ.

Do vị trí địa lý của mình, sống hòa thuận và hòa bình với Trung Hoa luôn là nguyện vọng của nước Việt. Qua những gì đã trải nghiệm nhiều ngàn năm, ngày nay, ta ở vào tư thế sẵn sàng và thật lòng hòa hảo tối đa với Trung Quốc để duy trì sự bình yên.

Thế nhưng, trong khi quan niệm hòa hảo của Hà Nội là tình anh em và sự bảo trợ cho nhau của những người láng giềng có chung ý thức hệ, thì hòa hảo theo kiểu Bắc Kinh là đối tác phương nam phải thuần phục, chịu mất đất, mất biển và chấp nhận vị thế sân sau, ao nhà của họ. Ngặt hơn nữa, cái sân sau, ao nhà này lại là bước đầu tiên không thể nào bỏ qua trong cái chiến lược đại dương có ý chí mang sức mạnh dồn nén của mấy ngàn năm bỏ quên biển trên hành trình bành trướng. Không như Hoa Kỳ, không “có” Việt Nam mà vẫn không “mất” Đông Nam Á, Trung Quốc không chiếm hữu “Nam Hải” thì không thể hoàn thành giấc mộng biển cả.

Cũng khác biệt như thế, việc bảo đảm quyền lợi của Hoa Kỳ được đặt trên cơ sở tôn trọng chủ quyền biển và hợp tác an ninh với các nước quanh Biển Đông, đồng thời tôn trọng quyền tự do đi lại trên hải phận quốc tế đối với mọi chủ thể; thì quyền lợi của Trung Quốc lại xuất phát từ sự chiếm đoạt, ngang ngược và tự đoạt hải hành. Việc thừa nhận và tôn trọng quyền lợi Trung Hoa trên Biển Đông thực tế đã bị chính họ dịch chuyển, không còn là vấn đề về quyền lợi hợp pháp và hợp lý, mà là chuyện về tham vọng quá đỗi của họ.

4. Tự lực và đồng minh

Từ khi định hình các hình thức cộng đồng, do có sự khác biệt về địa bàn, dân số, sự hưng thịnh…, và vì các lý do về chính trị, quân sự, kinh tế…, việc liên kết hay phân ly giữa các khối người trở thành một trong những đặc điểm tồn tại của xã hội loài người. Khi đã có quốc gia - dân tộc, điều này càng rõ rệt. Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, liên kết này càng có vai trò quan trọng hơn và thể hiện ở mọi mặt, theo hình thức đặc thù của từng lĩnh vực. Với tương tác chính trị và quân sự, hình thức đó là liên hệ đồng minh hoặc đồng chí.

Có hai ý kiến được đưa ra để củng cố quan điểm cho rằng trong đối sách với Trung Quốc, Việt Nam không cần hoặc không nên có quan hệ đồng minh.

Đầu tiên là việc đề cập đến nội lực, xem đó gần như là cái duy nhất để chú trọng phát triển, nhằm đương đầu với tham vọng lãnh hải của phương bắc.

Phát triển nội lực để xây dựng một quốc gia thịnh vượng, đủ sức đối mặt với mọi thách thức là một quan điểm hoàn toàn đúng, nhưng “mở rộng” thêm từ đây, rằng phải tự lực chứ không cần đến ngoại lực, không cần đến đồng minh, là hoàn toàn sai, vì:

Thứ nhất, như trên đã nói, liên hệ đồng minh, dù là đồng minh về văn hóa, thể chế, hay đồng minh về chính trị, quân sự, là một thực tế khách quan trong quan hệ giữa các quốc gia. Khi có tranh chấp hoặc xung đột, điều đó càng không thể tránh khỏi.

Thứ hai, trong những yếu tố góp phần phát triển nội lực, có bối cảnhthời gian. Trong tình thế hết sức yếu kém trước một Trung Hoa đang trở thành siêu cường và lăm le nuốt lấy Biển Đông, nơi mà vì điều đó cũng đang trở thành điểm hút của nhiều thế lực vượt trội hơn hẳn Việt Nam, nếu nói chúng ta phải tự lực hay đợi đủ nội lực để đáp lại nguy cơ bành trướng, thì về mặt nhận thức, đó chẳng qua chỉ là sự lặp lại máy móc, phi lịch sử và phi thực tế một khái niệm xác thực. Về mặt chiến lược, nó lấy cái dài hạn thay cho cái cấp bách, nhầm lẫn giữa tương quan kinh tế - xă hội với tương quan chính trị - quân sự. Còn về chiến thuật, đó chẳng khác nào tự trói tay trước một đối thủ vũ trang hiện đại đầy mình.

Ý kiến thứ hai thì trưng dẫn cuộc chiến Gruzia – Nga (2008) như một minh chứng, rằng việc tạo liên minh với nơi khác trong khi liền kề với nước lớn đang uy hiếp mình là sai, vì nếu có chiến tranh xảy ra, nước nhỏ vẫn chịu thiệt và đồng minh cũng không can dự vào.

Thật ra, với những nhà làm chiến lược có lý trí, có lẽ không ai lại nghĩ rằng ở thời nay, tạo quan hệ đồng minh là để những nước này lập tức tham chiến, bất kể nguyên nhân, thời cuộc và chiến cuộc. Liên minh với các cường quốc càng không phải như vậy. Trong trường hợp có yếu tố Mỹ – Nga, lại càng hơn thế. Quyền lợi toàn cầu, trước nguy cơ của một cuộc đối đầu hay chiến tranh thế giới, luôn được đặt cao hơn quyền lợi và xung đột cục bộ của một quốc gia có vị thế nhỏ. Với liên minh phòng vệ, quan hệ đồng minh là để gia tăng vị thế và giảm thiểu nguy cơ hay thiệt hại cho các quốc gia của liên minh, chứ không phải là tăng nguy cơ cho nhiều nước và giảm cơ hội hòa hoãn. Nhưng, cùng với việc xử trí khéo léo về sách lược và chiến thuật, liên hệ đồng minh là điều kiện chiến lược không thể thiếu, vì đó không những là thế lực răn đe từ xa và hỗ trợ về quốc phòng, mà còn là lực lượng ngoại giao, chính trị và kinh tế trực tiếp hậu thuẫn cho quốc gia đồng minh, khi hữu sự cũng như vô sự.

Cụ thể, trong cục diện địa chính trị ngày nay, xét tất cả những gì đã nói, với tư cách siêu cường chính trị - quân sự, cả trên bộ lẫn trên biển, đủ sứcsẵn sàng đối trọng với những thách thức nhắm vào thế cân bằng chiến lược toàn cầu, thì Hoa Kỳ là đồng minh mà Việt Nam cần có. Họ không phải là đối tác duy nhất trong chiến lược kiềm chế và đối trọng với tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng là đối tác khả dụng nhấtquyết định nhất.

5. Sự trở lại của Hoa Kỳ, và Việt Nam

Tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ASEAN Regional Forum, ARF) lần thứ 16, diễn ra ngày 23/07/2009, Ngoại trưởng H. Clinton đã ký vào Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Đông Nam Á (Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia), đánh dấu sự trở lại của Hoa Kỳ ở vùng này.

Ngay trước đó, trong chuyến thăm Ấn Độ (18–22/07/2009) của Ngoại trưởng Mỹ, hai bên đã có những thỏa thuận cả về quân sự lẫn dân sự ấn tượng, mà thực chất là định hình quan hệ đồng minh. Như vậy, quan hệ đối tác chiến lược của Hoa Kỳ quanh vành đai bán đảo Trung – Ấn và các cung đảo Đông Nam Á đã tạo thành một thế liên hoàn, tiếp nối với vành đai Đông Bắc Á.

Trong cục diện chính trị hải dương mới này, quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ có thể vẫn như trước nay được không? Về chủ quan, Hà Nội muốn điều đó, tức vẫn ở “cửa giữa”, nhưng thông qua cơ chế ASEAN để nhận thêm lợi ích từ Washington do Hoa Kỳ đã chuyển hướng chiến lược. Nhưng về khách quan, điều này bất khả.

Dù có sự gắn liền địa lý biển với Việt Nam, thì việc Hoa Kỳ có nhiều lợi ích ở Biển Đông cũng không đồng nghĩa với việc những lợi ích này song trùng ở Việt Nam, nên việc bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ ở Biển Đông không có nghĩa là bảo vệ lợi ích của Việt Nam.

Tương tự, dù Việt Nam có chân trong Hiệp hội Đông Nam Á, nếu Hoa Kỳ cam kết bảo vệ ASEAN cũng không có nghĩa là đương nhiên bảo vệ Việt Nam, không chỉ vì ASEAN là một khối không thuần nhất và khập khểnh, mà còn vì Việt Nam có chấp nhận sự bảo vệ ấy hay không.

Tại cuộc điều trần ngày 15/07/2009, do Ủy ban Đối ngoại Thượng viện tổ chức, về Tranh chấp Biển và Tranh cãi Chủ quyền tại Đông Á (Maritime Disputes and Sovereignty Issues in East Asia), thái độ của siêu cường này đối với tranh chấp tại Biển Đông đã được minh định. Họ khẳng định sự mù mờ trong tuyên bố chủ quyền của Hoa Lục và nhận định rằng Việt Nam là nước trực tiếp chịu nhiều thiệt thòi do yêu sách lãnh hải đó, nhưng cũng nói rằng họ trung lập giữa các tranh chấp. Song song đó, họ dứt khoát về quyền lợi của Hoa Kỳ, quyền tự do đi lại trên vùng biển quốc tế, phản đối việc dùng vũ lực và dọa nạt. Cùng với việc khuyến khích ASEAN thống nhất lập trường và hành động đa phương, họ cũng sẵn sàng hậu thuẫn cho đồng minh và đối tác, dù nói rằng sự hiện diện của họ chỉ để kiềm chế chứ không nên để xảy ra những tính toán sai lầm.

Đường hướng đó kiên quyết nhưng cũng mềm dẻo, vừa bao quát đối tượng nhưng cũng cụ thể với các đối tác. Nó không mập mờ nhưng đủ lưng chừng để xử thế linh hoạt, tùy chủ thể và trạng huống. Nó chứa đựng khả năng để Washington định hình một liên minh cơ hữu và trọn vẹn, dù là dưới hình thức không hiệp ước, với các chủ thể có liên quan để chống lại sự cưỡng đoạt và bành trướng của Bắc Kinh trên biển; mà cũng dành sẵn cơ hội để họ đi dây trên khắp các thế trận, với mọi đối tượng, nhằm bảo đảm tự do hải hành và sự thống lĩnh truyền thống của họ trên đại dương.

Với tư cách thành viên ASEAN và đối tác tham gia vào Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác của khối này, quan hệ hiện nay giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, chỉ một bước là đã có thể rất gần nhưng cũng có thể rất xa. Nếu gần, Việt Nam sẽ có đầy đủ tư thế chung mà thân hữu của Hoa Kỳ có. Nếu xa, chỉ với một từ “đồng minh” làm tiêu chí, thì Việt Nam đã nằm ngoài quan hệ chiến lược của Hoa Kỳ với khối Đông Nam Á.

6. Luật pháp quốc tế và pháp lý đặc thù

Rất rõ ràng, con đường bảo vệ chủ quyền không tốn kém xương máu và nhẹ nhàng nhất, căn cơ và triển vọng nhất, là con đường pháp lý. Chúng ta sẽ phải dựa vào luật pháp quốc tế để đấu tranh kiên quyết hơn trên mặt trận này. Mà đã là luật pháp quốc tế thì phải là những chuẩn mực phổ quát, không phải là những tiêu chí nội bộ và riêng biệt của một hay một nhóm quốc gia.

Vậy mà, đối với công chúng thế giới, Trung Quốc và Việt Nam là anh em hữu hảo, tương đồng nhau về hệ thống chính trị - pháp lý, xác tín chung và mạnh mẽ nhiều giá trị được cho là đặc thù. Do vậy, một khi ta nhất mực và đồng tâm với Trung Hoa, trong cách nhìn và cách quyết của những hành xử theo tiêu chí đó, thì e là trong cách nhìn và cách quyết của bên ngoài cũng sẽ như thế, rằng những người bạn có thể tự xử trí nội bộ với nhau được, theo đúng những giá trị có chung đó. Nói cách khác, trước công luận toàn cầu, một khi ta còn chưa hòa nhập thật sựđầy đủ vào những giá trị pháp lý phổ quát, thì còn khó có thể yêu cầu từ đó sự hậu thuẫn thật sựhiệu quả bằng luật pháp quốc tế.

7. Thay đổi tư duy

Thay đổi tư duy là điều kiện đầu tiên, từ đó mới có được những bước đi chiến lược và sách lược thích hợp.

Không chỉ là một tư duy địa chính trị mới, thực tế và cụ thể, thấy những vấn đề đơn thể nhưng cũng nhìn được những cái toàn thể; tư duy chiến lược nên tránh nếp nghĩ bị ảnh hưởng quá lâu bởi những lập luận có tính tuyên truyền, khi đặt mình vào trung tâm mà xem nhẹ những thành tố khác. Tư duy dân tộc cần được đặt ở vị trí thích đáng và hiệu quả hơn so với tư duy ý thức hệ, để tránh lặp lại những sai sót của quá khứ, khi ta thuần lòng với giá trị giai cấp còn người dốc lòng với cơ đồ đại tộc. Cũng thế, khi cuộc đấu tranh pháp lý sẽ cùng với đấu tranh chính trị - quân sự và đấu tranh ngoại giao trở thành ba mặt trận đối ngoại để bảo vệ chủ quyền, thì tư duy pháp lý phổ quát là điều cần hướng đến, thay cho tư duy pháp luật “nội bộ”.

Sự thay đổi đó đã đến lúc phải quyết đoán, không chỉ vì sự lạc hậu và trì trệ bên trong về tư duy đã đến lúc không thể cứ kéo dài, mà còn vì áp lực bên ngoài không tiếp tục cho phép. Chần chừ, với Việt Nam lúc này, đồng nghĩa với việc tiếp tục đẩy mình vào cảnh thân cô thế cô, và đem lại lợi thế cho cả Trung Quốc lẫn các thành tố khác tại Biển Đông.

Lê Tuấn Huy

0 comments:

Powered By Blogger