Sunday, June 26, 2011

Asia Times nhắc đến công hàm 1958, Việt Nam nói gì?














Vũ Thị Phương Anh - "Công hàm của cố TT Phạm Văn Đồng là một trong những lập luận chính của phía TQ. Nhưng Việt Nam dường như lại cố tình lờ đi chi tiết này trong các lập luận của mình. Tôi nghĩ, nếu cứ giữ thái độ như thế thì thế giới sẽ nghi ngờ mình có gì mờ ám ở đây, và sẽ nghiêng về phía ủng hộ Trung Quốc - trừ những quốc gia vốn đã có thiện cảm với VN và luôn ủng hộ VN, cho dù mọi việc có là gì đi nữa..."


*

Tờ Asia Times ngày 24/6 vừa qua có cho đăng bài viết về tình hình biển Đông với cái tựa tiếng Anh là "China runs gauntlet in South China Sea" (tạm dịch là Trung Quốc bị chỉ trích ở biển Đông). Có thể tìm thấy bài viết ấy ở đây..

Một bài viết không có gì đáng cho ta chú ý (vì luận điểm cũ kỹ, thông tin không mới), ngoại trừ đoạn có liên quan đến công hàm 1958 của cố TT PVĐ dưới đây:
Vietnam (and some other Southeast Asian countries) began to gradually colonize some islands and explore oil and gas in waters that Hanoi had previously recognized as China's sovereign territories. For instance, the People's Republic of China (PRC) issued a declaration on September 4, 1958, defining its territorial waters which encompassed the Nansha (Spratly) and Xisha (Paracel) Islands.

North Vietnam's then prime minister Pham Van Dong sent a diplomatic note to Chinese premier Zhou Enlai stating, "The Government of the Democratic Republic of Vietnam respects this decision and will give instructions to its State bodies to respect the 12-mile [19-kilometer] width of the territorial waters of China in all their relations in the maritime field with the PRC [People's Republic of China]." The diplomatic note was written on September 14 and was publicized on Vietnam's Nhan Dan newspaper on September 22, 1958.
Đáng chú ý hơn, để củng cố cho luận điệu của mình, các tác giả của bài viết còn nêu dẫn chứng về bức công hàm này trên trang "wikimedia" (thực ra là viết sai chính tả, phải là wikipedia mới đúng). Có thể tìm thấy một bản chụp của bức công hàm đó tại đây.

Nói thêm về các tác giả của bài viết. Chỉ cần nhìn tên tác giả thì ta cũng đủ thấy đây là những người Trung Quốc hoặc gốc Trung Quốc. Đặc biệt, trong hai người thì tác giả chính hiện đang là giảng viên tại ĐH Phúc Đán. Cho nên quan điểm của tác giả thể hiện quan điểm chính thống của TQ cũng là dễ hiểu thôi.

Như vậy, công hàm của cố TT Phạm Văn Đồng là một trong những lập luận chính của phía TQ. Nhưng Việt Nam dường như lại cố tình lờ đi chi tiết này trong các lập luận của mình. Tôi nghĩ, nếu cứ giữ thái độ như thế thì thế giới sẽ nghi ngờ mình có gì mờ ám ở đây, và sẽ nghiêng về phía ủng hộ Trung Quốc - trừ những quốc gia vốn đã có thiện cảm với VN và luôn ủng hộ VN, cho dù mọi việc có là gì đi nữa.

Công hàm của cố TT PVĐ cho đến nay không còn là điều gì bí mật đối với người dân trong nước nữa. Có muốn bí mật cũng không được, khi chính phía TQ đã sử dụng nó để làm lập luận chính chống lại VN. Vì vậy, thái độ đúng đắn nhất - và theo tôi là sẽ đem lại hiệu quả cao nhất - là lên tiếng chính thức về công hàm này. Người dân VN, với lòng yêu nước và sự trưởng thành của mình sẽ hiểu về lý do tại sao lúc ấy chúng ta lại có công hàm như vậy. Nó là một sản phẩm của lịch sử, của thời chiến tranh lạnh với thế giới 2 cực, và cũng là của sự ấu trĩ về tình hình thế giới của giới lãnh đạo VN ở miền Bắc vào lúc ấy.



























































Nếu có ai bất bình và phẫn nộ thì chắc cũng chỉ một lúc rồi cũng sẽ chấp nhận vì việc gì đã xảy ra thì đã xảy ra rồi. Vấn đề là thái độ hiện nay của chúng ta để giải quyết những hậu quả của công hàm ấy. Một phát biểu chính thức của đại diện cao nhất của nhà nước ta là rất cần thiết vào lúc này.

Để củng cố niềm tin của người dân, một điều rất cần trong những lúc như thế này. Vì nếu không thì sẽ rơi vào tình trạng mà blogger Thanh Chung đã viết trên entry mới nhất của mình: "Mất dân trước khi mất nước!"
----
Nhân tiện, tôi tìm thấy trang này của TQ, một diễn đàn trao đổi về Trường Sa và Hoàng Sa của VN nhưng họ xem là của họ, và trao đổi bằng tiếng Anh. Nó ở đây. Chúng ta cần hiểu xem họ nói gì để còn biết đường và có thể chủ động trong cuộc chiến thông tin sắp đến.

Ngoài ra, có một độc giả blog này có gửi cho tôi một comment rất hay, xin các bạn xem trong phần comment. Đó chính là đóng góp của dân Việt cho nhà nước trong tình hình hiện nay. Rất mong được nhà nước lắng nghe!


http://bloganhvu.blogspot.com/2011/06/asia-times-nhac-en-cong-ham-1958-viet.html

----------------------



Phần trao đổi ý kiến với bạn đọc khác trên diễn đàn DLB


Đông A - THTNDC says:

Theo mình nghĩ, bức công hàm này tuy nội dung rõ ràng thể hiện quan điểm chư hầu của VN trước Trung Quốc, nhưng cũng không đến mức bị coi là công hàm bán nước vì các lý do sau đây.

1. Vào thời điểm ký công hàm, hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa không thuộc lãnh thổ của nước Việt nam dân chủ cộng hòa, mà thuộc lãnh thổ nước Việt nam cộng hòa. Hiệu lực của nó không thể phủ lên những gì nằm ngoài nước Việt nam dân chủ cộng hòa được. Ông Phạm Văn Đồng do đó đã cam kết một điều rất chung chung vì ông ta thấy rằng bản tuyên bố trên của Trung Quốc chẳng ảnh hưởng gì đến chủ quyền của miền bắc việt nam vào thời điểm đó cả.

2. Cứ cho là ông Đồng tán thành việc Trung Quốc có chủ quyền tại Trường Sa - Hoàng Sa, thì việc đó cũng không làm thay đổi một thực tế là hai quần đảo vào lúc đó không phải của miền bắc việt nam, do đó việc ông ta tuyên bố ủng hộ cũng không thể tương đương với việc ông ta dâng hai quần đảo này. Hiệu lực pháp lý của bức công hàm do đó cũng bị hạn chế. Không khác gì vào lúc đó Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên những đảo khác có tranh chấp với Nhật bản hay Nga. Ông Đồng có đồng ý với những điều này thì cũng chẳng có ý nghĩa pháp lý gì cả.

3. Câu hỏi được đặt ra là sau khi chiến tranh Việt nam kết thúc, bức công hàm này có còn hiệu lực nữa hay không. Việc này xin để các chuyên gia luật quốc tế trả lời. Tôi chỉ mong làm rõ một điểm mà rất nhiều chúng ta đã vội vàng kết luận nhầm là vào lúc đó ông Phạm Văn đồng bán nước. Tôi nghĩ rằng thực tế quan hệ Việt Trung lúc đó rất phức tạp và việc miền Bắc việt nam đưa một bức công hàm khá mơ hồ như vậy không nhất thiết là một xử lý thông minh, nhưng cũng không nhất thiết là một hành động ngu ngốc và bán nước.

----

Đức H. Vũ says: Đông A - THTNDC says:

1. Vào thời điểm ký công hàm, hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa không thuộc lãnh thổ của nước Việt nam dân chủ cộng hòa, mà thuộc lãnh thổ nước Việt nam cộng hòa. Hiệu lực của nó không thể phủ lên những gì nằm ngoài nước Việt nam dân chủ cộng hòa được. Ông Phạm Văn Đồng do đó đã cam kết một điều rất chung chung vì ông ta thấy rằng bản tuyên bố trên của Trung Quốc chẳng ảnh hưởng gì đến chủ quyền của miền bắc việt nam vào thời điểm đó cả.
......
-------------

Tôi không đồng ý với bạn khi cho rằng :

"Ông Phạm Văn Đồng do đó đã cam kết một điều rất chung chung vì ông ta thấy rằng bản tuyên bố trên của Trung Quốc chẳng ảnh hưởng gì đến chủ quyền của miền bắc việt nam vào thời điểm đó cả."

Tôi không nghĩ bạn muốn bào chữa cho tên Việt gian Phạm văn Đồng, nhưng đứng trên quan điểm của người cùng chung màu da, chung nòi giống Lạc Việt gọi là "đồng bào" thì cho dù tên Việt gian có ở khác chiến tuyến thì cũng biết HS là biển đảo của tổ quốc VN dù đất nước có chia đôi, dù Quốc Cộng lằn ranh có phân định thì cũng không thể muối mặt làm chuyện đó được

Tôi nghĩ tên Việt gian HCM, PVD và đồng bọn của chúng đều có tội

Trong bất kỳ gia đình nào anh chị em nào cũng có chuyệc xích mích bất đồng ý kiến, nhưng không vì chuyện bất hòa đó mà muối mặt làm chuyện đưa dao cho thằng hàng xóm lụi vào anh em mình . Giả sử chính quyền miền nam VN - VNCH làm chuyện đó với miền Bắc VN thì tôi cũng lên án và nguyền rủa không tiếc lời

Đó là ý kiến của tôi
Cảm ơn
--------
Tài liệu phụ chú :

Nhà báo Ngô Nhân Dụng nói về công hàm "bán nước" của Việt gian Phạm văn Đồng

http://www.nguoi-viet.com/avc20/avc-view.aspx?videoid=262&categoryid=





Công hàm của ông Phạm Văn Đồng:
một vấn đề pháp lý
Trương Nhân Tuấn

“…Trên tinh thần (hoà giải dân tộc) đó, với sự hưởng ứng của toàn khối dân tộc, VN sẽ đứng ở thế mạnh, hay ở thế không ai có thể bắt nạt, toàn dân một lòng chắc chắn đủ khả năng để tự bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải của tổ tiên để lại…”

Trong hồ sơ chứng minh chủ quyền của TQ tại hai quần đảo HS và TS, công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là một bằng chứng quan trọng.

Công bố của TQ về lãnh hải ngày 4 tháng 9 năm 1958 gồm 4 điều, nội dung phần quan trọng tóm lược như sau:


Điều 1: Lãnh hải của TQ rộng 12 hải lý. Điều 2: Điều này áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ TQ, các hải đảo Đài Loan và các đảo phụ thuộc, đảo Bành Hồ và các đảo phụ thuộc, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa)… Điều 3: Tất cả phi cơ, thuyền bè không được phép của TQ thì không được xâm phạm vào không và hải phận của nước TQ. Điều 4: Nguyên tắc qui định ở điều 3 (và 2) được áp dụng cho cả HS và TS.


Ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm công nhận công bố về lãnh hải của TQ, nguyên văn như sau:


Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.


Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.

<="" p="" height="350" width="250">

Công hàm của Thủ tướng Bắc Việt
gửi Chu Ân Lai ngày 14/9/1958

[xem hình khổ lớn]


Trước đó, năm 1956, ông Ung Văn Khiêm, nhân tiếp phái đoàn ngoại giao TQ, Thứ Trưởng bộ Ngoại Giao có tuyên bố với Li Zhimin, tham tán sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam: chiếu theo tài liệu VN thì HS và TS thuộc về TQ. Ông Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào: Theo sử liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài «Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa».

Năm 1977 cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng giải thích quan điểm của ông về công hàm này như sau: «
đó là thời chiến nên phải nói như vậy thôi»!

Sau đó ông Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Bộ Trưởng bộ Ngoại Giao, trong một cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 2 tháng 12 năm 1992, nói như sau:


« Các nhà lãnh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa và Trường Sa như vậy là do theo hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông Dương thì tất cả lãnh thổ từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào Nam là thuộc chính quyền miền Nam, kể cả hai quần đảo này.


Thêm vào đó, vào lúc ấy Việt Nam phải tập trung hết mọi lực lượng vào cuộc chiến chống Mỹ nên cần bạn bè khắp nơi. Tình hữu nghị Việt-Trung đang thắm thiết và hai nước hoàn toàn tin cậy lẫn nhau. Việt Nam xem Trung Quốc là một nguồn hỗ trợ to lớn và giá trị.


Trong tinh thần đấy thì do tình thế cấp bách, quan điểm của lãnh đạo ta (tức ủng hộ Trung Quốc công bố chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) là cần thiết vì nó phục vụ cho cuộc chiến bảo vệ tổ quốc.


Đặc biệt, việc này còn nhắm vào nhu cầu cấp thiết lúc đó là ngăn ngừa đế quốc Mỹ không sử dụng các quần đảo đó để tấn công chúng ta. Việc lãnh đạo ta tạm công nhận như thế với Trung Quốc không có can hệ gì đến chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cả».


Thông tấn xã Việt Nam ghi lại và đăng ngày 3 tháng 12 năm 1992.


Ý của ông Cầm là vì HS và TS lúc đó thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) nên việc công nhận như thế chỉ là «tạm công nhận», không quan hệ gì đến «chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam».


Nhưng một công hàm quốc gia đâu thể nào công nhận «vào thời chiến» và không công nhận vào thời khác, nói như ông Đồng, hay «tạm công nhận» như ông Cầm như thế được?


Công hàm của ông Phạm Văn Đồng là văn bản có tầm quan trọng ở mức quốc gia. Quốc gia có tên gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) (gián tiếp) công nhận chủ quyền HS và TS thuộc về quốc gia có tên gọi Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Nội dung công hàm này không thể thay đổi theo thời gian hay thay đổi theo tình trạng chính trị. Lời nói chữa lại của ông Đồng hay của ông Cầm là những lời tráo trở, chỉ làm cho cái chế độ gọi làViệt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, sau đó là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, thêm xấu hổ chứ không hề có giá trị phủ nhận công hàm ghi trên.


Công hàm của ông Đồng có hai ý nghĩa: 1/ công nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS. 2/ Phủ nhận chủ quyền của VNDCCH tại HS và TS.


Lời nói chữa lại của ông Đồng năm 1977 và của ông Cầm năm 1992 củng cố thêm hai ý nghĩa này.


Nhưng dầu vậy, ta có thể hoá giải công hàm này qua một số thủ tục cần thiết.


Bà Monique Chemillier-Gendreau, tác giả cuốn
La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys (Paris: L'Harmattan, 1996) có cho rằng công hàm của ông Đồng không có giá trị pháp lý vì lý do «người ta không thể cho cái mà người ta không có». Ý kiến này dựa trên tinh thần hiệp định Genève, ông Nguyễn Mạnh Cầm có nhắc lại. Hai quần đảo HS và TS trong giai đoạn 1954-1975 thuộc quyền quản lý của VNCH. VNDCCN không có thẩm quyền gì ở HS và TS nên tuyên bố của ông Đồng không có giá trị.

Một vài nhà nghiên cứu VN dựa lên thuyết này (estoppel) để khai triển thêm, chứng minh công hàm của ông Đồng không có giá trị về chủ quyền TQ ở HS và TS.

Như thế, theo thuyết này công hàm của ông Đồng không có giá trị, TQ không có chủ quyền tại HS và TS. Nhưng chủ quyền của VNDCCH có được xác lập tại nơi đây hay chưa? Không có gì chắc chắn hết.


Bà M. Chemillier-Gendreau dựa lên thuyết «liên tục quốc gia» để cho rằng VNDCCH có thể kế thừa VNCH để có quyền chủ quyền tại HS và TS.

Nhà nước VNCH, tiếp nối nhà nước thực dân Pháp, vốn là đại diện triều đình nhà Nguyễn, quản lý liên tục và khai thác HS và TS. Như thế chủ quyền của VN tại HS và TS liên tục từ nhiều thế kỷ, từ chúa Nguyễn, Tây Sơn, nhà Nguyễn, thực dân Pháp cho đến thời VNCH. Sau 1975, chính phủ lâm thời CHMNVN chưa bao giờ tuyên bố HS và TS thuộc về TQ.

Như thế, sau khi hiệp thương thống nhất đất nước 1976, CHXHCNVN có thể lựa chọn lập trường của VNCH và CPLTCHMNVN để khẳng định chủ quyền của VN tại HS và TS.


Nhưng hiện nay người ta đều biết MTGPMN chỉ là con bài do đảng CSVN lập ra. Và cách hành xử của đảng CSVN cho thấy chế độ VNDCCH phủ nhận chế độ VNCH, xem thực thể chính trị này là «nguỵ», tức là cái giả, cái không có.


Sau ngày 30-4-1975 không hề có một buổi lễ bàn giao chính quyền giữa VNCH và VNDCCH hay với MTGPMN. Thực thể chính trị VNCH bị mất đi và di sản của nó bị tước đoạt, nếu không nói là bị đánh cướp (dùng chữ của CSVN: “cướp” chính quyền). Quân nhân, công chức… phục vụ cho chính quyền này bị gọi là «giặc», «giặc nguỵ»; dân chúng cũng bị nghi ngờ, xếp vào thành phần «phản động», «nguỵ dân».


Không có bàn giao quyền lực thì làm sao có kế thừa?


Gọi VNCH là «nguỵ», tức là giả, không phải là một thực thể chính trị, thì không thể có việc kế thừa. Không thể kế thừa một cái gì đó không có thật (nguỵ).


Như thế chế độ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) là tiếp nối đương nhiên của VNDCCH và phủ nhận VNCH.


Nội dung công hàm và lời nói chữa lại của ông Đồng và ông Cầm càng khẳng định thêm VNDCCH đã phủ nhận chủ quyền tại HS và TS.


Như thế lý thuyết «kế thừa» của bà Monique Chemillier-Gendreau đề nghị thì không thể áp dụng cho VN trong tình huống như thế.


Tuy nhiên, việc này không phải là không có phương cách cứu vãn. Vì đến hôm nay, sau hơn 33 năm, việc kế thừa vẫn chưa muộn, nếu lãnh đạo CSVN muốn làm việc này.


Thủ tục kế thừa: thông qua
chính sách hoà giải dân tộc (mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đề ra trong Dự Án Chính Trị Đa Nguyên).

Nhà nước CSVN bỏ tên nước, đặt lại tên nước, thí dụ: Cộng Hoà Việt Nam, thay đổi quốc kỳ, quốc ca, hiến pháp… thay đổi tất cả những gì dính líu đến VNDCCH và CHXHCNVN để lập một nền cộng hoà mới, tổ chức bầu cử tự do, lập chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân; đoạn tuyệt với quá khứ sai lầm của VNDCCH.


Nhà nước mới, trên nền tảng dân chủ, thảo luận về một bộ luật «hoà giải dân tộc», trong đó qui định phương cách phục hồi danh dự cũng như việc đền bồi xứng đáng cho các thành phần quân nhân công chức VNCH nạn nhân của chính sách học tập cải tạo. Lập ra điều luật cấm sử dụng tiếng «nguỵ» đối với những người thuộc chế độ cũ. Đền bồi cho các nạn nhân do cải tạo công thuơng nghiệp, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới; làm luật phục hồi danh dự (cho người quá vãng) và đền bồi tương xứng cho nạn nhân của cộng sản như vụ Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án «xét lại chống đảng» v.v. Nếu những người này đã mất thì đền bồi cho con cháu của họ. Cho tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ, không phân biệt nam bắc, dân tộc kinh, thuợng, không phân biệt cuộc chiến 1975, 1979 hay cuộc chiến với Kampuchia v.v.


Đứng trên quan điểm đó, một nước VN mới, dân chủ, hoàn toàn đủ tư cách và tính chính thống, long trọng tuyên bố trước cộng đồng thế giới kế thừa di sản VNCH. Trên căn bản như thế VN đương nhiên có chủ quyền tại HS và TS, như VNCH, từ đó làm căn bản giải quyết các tranh chấp chủ quyền HS và TS bằng một trọng tài quốc tế, sau đó phân định hải phận Biển Đông với các nước khác.


Trên tinh thần (hoà giải dân tộc) đó, với sự hưởng ứng của toàn khối dân tộc, VN sẽ đứng ở thế mạnh, hay ở thế không ai có thể bắt nạt, toàn dân một lòng chắc chắn đủ khả năng để tự bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải của tổ tiên để lại.

Trương Nhân Tuấn

0 comments:

Powered By Blogger