Vào ngày 21 tháng 10, 2015 vừa qua, tại Diễn đàn về Nước, Lương thực và Năng lượng Vùng Mekong năm 2015
(2015 Greater Mekong Forum on Water, Food and Energy (GMF 2015)) ở
Phnom Penh, Cambodia, Ủy ban sông Mê Công Việt Nam (UBSMCVN) (Vietnam
National Mekong Committee (VNMC)) cùng với Viện Thủy lực Đan mạch
(Danish Hydraulic Institute (DHI)), Kỹ sư cố vấn của UBSMCVN [1], trình
bày kết quả sơ khởi về ảnh hưởng của 11 đập thủy điện được dự trù xây
trên dòng chính ở hạ lưu sông Mekong đối với Đồng bằng sông Cửu Long ở
Việt Nam (ĐBSCL), còn được gọi là Nghiên cứu Châu thổ Mekong (Mekong
Delta Study (MDS)) [2]. Kết quả nghiên cứu sơ khởi nầy đã bị cáo buộc là
“...nguy hiểm… thiếu trách nhiệm” [3,4]; “...làm người đọc
cảm nhận dường như những tác động của 11 đập thủy điện đang và dự kiến
xây dựng trên dòng chính Mêkông được làm cho bớt nghiêm trọng, không
đáng kể” [5]; và “...cần xem xét lại” [6].
Kết quả của MDS như thế nào? Nó có thực sự nguy hiểm, thiếu trách nhiệm
và cần xem xét lại hay không? Bài viết nầy trình bày, phân tích, và so
sánh kết quả của MDS được UBSMCVN và DHI trình bày tại GMF 2015 ở Phnom
Penh, Cambodia và kết quả của các nghiên cứu trước đây với mục đích trả
lời thỏa đáng những câu hỏi nêu trên.
Đập thủy điện trên dòng chính ở hạ lưu sông Mekong
Trong quá khứ, có nhiều kế hoạch khai thác thủy điện trên dòng chính ở
hạ lưu sông Mekong được đề ra. Trong thập niên 1960 và 1970, Ủy ban Quốc
tế Mekong (Mekong Committee) - tiền thân của Ủy hội sông Mekong (Mekong
River Commission (MRC)) hiện nay – đã có kế hoạch xây một bậc thang gồm
có 7 đập lớn ở hạ lưu vực sông Mekong; nhưng kế hoạch nầy, trong đó có
đập Pa Mong, bị các quốc gia thành viên bác bỏ trong thập niên 1980.
Vào năm 1994, Văn phòng Thường trực của Ủy ban Quốc tế Mekong (Mekong
Secretariat) phổ biến một nghiên cứu [7] đề nghị 12 đập thấp, với chiều
cao từ 20 đến 50 m so với đáy sông, từ Pak Beng, Oudomxay ở Lào cho đến
Tonle Sap ở Cambodia. Trong số nầy, có 8 đập nằm hoàn toàn trong lãnh
thổ Lào (Pak Beng, Luang Prabang, Xayaburi, Pak Lay, Sanakham, Latsua,
Don Sahong, và Thakho), 2 đập nằm hoàn toàn trong lãnh thổ Cambodia
(Stungtreng và Sambor), và 2 nằm trên biên giới Lào-Thái Lan (Pak Chom
và Ban Koum) [8]. Đập sẽ chắn ngang toàn thể chiều rộng của sông, ngoại
trừ Don Sahong được xậy trên một lòng lạch của sông Mekong và Thakho là
một dự án rẽ nước.
Các đập thủy điện nầy là đập dòng chảy (run-of-river), nghĩa là nó không
trữ nước mà chỉ trực tiếp sử dụng lưu lượng tự nhiên chảy qua đập. Tuy
nhiên, trong mùa khô, nước có thể bị đập giữ lại đến 3 tuần trong năm
trung bình và 1 tháng trong năm khô hạn. Các đập nầy có công suất tổng
cộng là 13.427 MW với sản lượng điện trung bình hàng năm là 64.229 GWh
[8].
Nghiên cứu Châu Thổ Mekong (MDS)
MDS là một dự án có trị giá 4,3 triệu USD được ký kết giữa UBSMCVN và
DHI tại Hà Nội, Việt Nam ngày 4 tháng 6 năm 2013. Dự án kéo dài 30 tháng
nhằm mục đích thu thập dữ kiện và tìm hiểu những ảnh hưởng môi trường,
xã hội, và kinh tế, nếu có, của 11 đập thủy điện - được dự trù xây trên
dòng chính ở hạ lưu sông Mekong ở Lào và Cambodia - đối với sông Mekong,
đặc biệt là châu thổ Mekong và Biển Hồ [1].
Kết quả được UBSMCVN và DHI trình bày ở GMF 2015 chỉ là một phần của MDS
liên quan đến thủy học, phù sa, chất dinh dưỡng, độ mặn, và thủy sản.
Dữ kiện căn bản gồm có dữ kiện thủy học từ 1985 đến 2013, trong đó năm
2000 và 2011 là năm có nhiều mưa, năm 1998 là năm hạn hán, và năm 2007
là năm trung bình; độ mặn ở ĐBSCL từ 2007 đến 2013; phù sa và chất dinh
dưỡng từ 2009 đến 2013; và tình trạng môi trường, xã hội và kinh tế từ
2011 đến 2012 cộng với dữ kiện thu thập trong năm 2014 [9].
Về thủy học, phù sa, chất dinh dưỡng, và độ mặn, MDS sử dụng các mô hình
toán SWAT và MIKE để ước tính lưu lượng, mực nước, phù sa, chất dinh
dưỡng, độ mặn, điều hành hồ chứa, và thủy lực [10].
Đối với lưu lượng của sông Mekong, các đập có “ảnh hưởng tương đối vừa phải ngoại trừ vùng ở ngay phía dưới đập hay trong trường hợp vỡ đập.”
Tại trạm Kratié, cách đập Sambor khoảng 40 km về phía hạ lưu, trong
những năm trung bình (như năm 2007), mực nước vào mùa lũ (từ tháng 7 đến
tháng 11) gần như không thay đổi trong khi mực nước vào mùa khô (từ
tháng 12 đến tháng 6) có thể dao động lên đến 2 m. Ảnh hưởng của các đập
đối với mực nước ở ĐBSCL tương đối nhỏ, trung bình thấp hơn 2 cm. Trong
trường hợp đập Sambor vỡ, ngập lụt sẽ sâu 8 m ở ngay hạ lưu đập nhưng
giảm còn khoảng 0,6 m ở Phnom Penh và thấp hơn 0,4 m ở ĐBSCL.
Đối với phù sa và chất dinh dưỡng, các đập có “ảnh hưởng nghiêm
trọng, làm giảm độ phù sa và bồi lắng trên đồng ruộng, làm suy giảm chất
dinh dưỡng, và giảm phù sa ở vùng cửa sông.” Trong những năm trung
bình (như năm 2007), phù sa tại Kratié giảm từ 54,6 triệu tấn/năm xuống
22,4 triệu tấn/năm và tại Tân Châu+Châu Đốc giảm từ 32,1 triệu tấn/năm
xuống 13,9 triệu tấn/năm (tức giảm khoảng 57%); P tại Kratié giảm từ
19.100 tấn/năm xuống 10.100 tấn/năm và tại Tân Châu+Châu Đốc giảm từ
11.600 tấn/năm xuống 6.300 tấn/năm (tức giảm khoảng 47%); và N tại
Kratié giảm từ 48.700 tấn/năm xuống 13.800 tấn/năm và tại Tân Châu+Châu
Đốc giảm từ 29.600 tấn/năm xuống 8.600 tấn/năm (tức giảm khoảng 71%)
[11].
Đối với sự xâm nhập của nước mặn, “có thể có vài ảnh hưởng tùy theo cách vận hành của các đập.”
Sự thay đổi của độ mặn ở ĐBSCL thì tương đối nhỏ, khoảng 1 g/l trong
những năm trung bình (như năm 2007) nếu các đập được vận hành hàng ngày.
Về thủy sản, MDS dựa trên nhiều yếu tố như sự thay đổi nơi cư trú, sự
thay đổi thủy học, sự thay đổi độ phù sa, chướng ngại đối với di ngư,
ảnh hưởng của sự thay đổi thủy học và phẩm chất nước đối với ngành nuôi
cá. Các đập thủy điện làm sản lượng thủy sản giảm 366.570 tấn/năm
(khoảng 53%) trong đó sản lượng cá giảm 341.499 tấn/năm (khoảng 49%) và
các loại thủy sản khác giảm 25.701 tấn/năm (khoảng 16%). Sản lượng thủy
sản ở Cambodia giảm 267.428 tấn/năm (khoảng 56%) trong đó sản lượng cá
giảm khoảng 51% và các loại thủy sản khác giảm khoảng 22%, cao hơn ĐBSCL
một ít.
Phần thảo luận
Bảng 1 - Ảnh hưởng đối với lưu lượng sông Mekong tại Kratié [13]
Trên phương diện thủy học, kết quả sơ khởi của MDS do UBSMCVN và DHI
trình bày tại GMF 2015 ở Phnom Penh, Cambodia phù hợp với nguyên tắc
thủy học áp dụng cho các đập dòng chảy; đó là ít có ảnh hưởng đến lưu
lượng của sông ở hạ lưu mà điển hình là ảnh hưởng đối với mực nước của
sông Mekong tại Kratié, Cambodia. Kết quả của MDS hoàn toàn phù hợp với
kết quả của nghiên cứu trước đây cho thấy 11 đập ở hạ lưu vực sông
Mekong làm lưu lượng sông Mekong tại Kratié giảm 400 m3/sec (so với
36.700 m3/sec [12]) trong mùa lũ và tăng 200 m3/sec (so với 2.220 m3/sec
[12]) trong mùa khô. Như vậy, ảnh hưởng của 11 đập ở hạ lưu vực đối với
lưu lượng của sông Mekong tại Kratié là không đáng kể. Đối với các nhóm
đập khác thì ảnh hưởng của 11 đập thủy điện ở hạ lưu rõ ràng “không
nghiêm trọng, không đáng kể, và không nguy hiểm” bằng (các đập ở Trung
Hoa làm lưu lượng tại Kratié giảm 1.807 m3/sec trong mùa lũ và tăng 812
m3/sec trong mùa khô; các đập trên phụ lưu Sesan, Sekong và Sre Pok làm
lưu lượng tại Kratié giảm 4.000 m3/sec trong mùa lũ và tăng 2.200 m3/sec
trong mùa khô [13]).
Ảnh hưởng của 11 đập ở hạ lưu vực sông Mekong đối với lượng phù sa trong
sông Mekong do MDS ước tính tại Kratié (giảm khoảng 32.2 triệu tấn/năm)
thì ít hơn ảnh hưởng do Đánh giá Môi trường Chiến lược (Strategic
Environmental Assessment (SEA) [8]) ước tính (giảm khoảng 47 triệu
tấn/năm). Nhưng tại Tân Châu+Châu Đốc (tức ĐBSCL), ảnh hưởng do MDS ước
tính (giảm khoảng 18.2 triệu tấn/năm) lại cao hơn rất nhiều so với ước
tính của SEA (giảm khoảng 7 triệu tấn/năm). Sự khác biệt giữa ước tính
của MDS và SEA có thể do phương pháp tính toán và dữ kiện sử dụng, nhưng
MDS cho thấy ảnh hưởng của 11 đập ở hạ lưu sông Mekong đối với lượng
phù sa ở ĐBSCL là đáng kể và nghiêm trọng. Do đó, ảnh hưởng đối với
lượng phù sa ở ĐBSCL do MDS và SEA cần được xem xét lại để có một kết
quả đáng tin cậy.
Đối với sản lượng cá, ước tính của MDS cho thấy ảnh hưởng rất nghiêm
trọng của 11 đập ở hạ lưu sông Mekong vì các đập nầy làm giảm 341.499
tấn/năm (khoảng 49%) ở ĐBSCL và 244.425 tấn/năm (khoảng 51%) ở Cambodia.
Ước tính của MDS thì cao hơn rất nhiều so với ước tính của Đánh giá Ảnh
hưởng Tổng hợp của các Chương trình Phát triển Thủy lợi của Quốc gia
Duyên hà, kể cả đập trên dòng chính và dự án rẽ nước (Cumulative impact
assessment of the riparian countries’ water resources development plans,
including mainstream dams and diversion (CIA)) [14] trước đây, trong đó
sản lượng cá chỉ giảm 12% ở ĐBSCL và 29% ở Cambodia [13]. Một lần nữa,
sự khác biệt bất thường nầy có thể do phương pháp tính toán và dữ kiện
sử dụng, nhưng ước tính của MDS có vẻ không thực tế bằng ước tính của
CIA.
Kết luận
Tại GMF 2015 ở Phnom Penh, Cambodia, UBSMCVN cùng Kỹ sư cố vấn DHI đã
trình bày một phần kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của 11 đập thủy điện
được dự trù xây trên dòng chính ở hạ lưu Mekong, còn được gọi là MDS,
đối với châu thổ Mekong (bao gồm Cambodia và ĐBSCL). Kết quả của MDS đã
bị cáo buộc là “...làm người đọc cảm nhận dường như những tác động
của 11 đập thủy điện đang và dự kiến xây dựng trên dòng chính Mêkông
được làm cho bớt nghiêm trọng, không đáng kể;” “...là vô cùng nguy hiểm
vì nó liên quan đến môi trường, sản xuất nông nghiệp và thủy sản, đời
sống của gần 18 triệu người dân ở đồng bằng... cách làm của những người
trực tiếp thực hiện dự án này là thiếu trách nhiệm;” và “...cần xem xét
lại.”
Kết quả của MDS được trình bày tại GMF 2015 cho thấy:
- Đối với lưu lượng của sông Mekong, các đập có “ảnh hưởng tương đối vừa
phải ngoại trừ vùng ở ngay phía dưới đập hay trong trường hợp vỡ đập.”
Mực nước ở ĐBSCL thay đổi khoảng 2 cm và dâng lên khoảng 0,4 m nếu vỡ
đập Sambor.
- Đối với phù sa và chất dinh dưỡng, các đập có “ảnh hưởng nghiêm trọng,
làm giảm độ phù sa và bồi lắng trên đồng ruộng, làm giảm chất dinh
dưỡng, và giảm độ phù sa ở vùng cửa sông.” Ở ĐBSCL, lượng phù sa giảm
57% (18,2 triệu tấn/năm), P giảm 47% (5.300 tấn/năm), và N giảm 71%
(21.000 tấn/năm).
- Đối với sự xâm nhập của nước mặn, “có thể có vài ảnh hưởng tùy theo
cách vận hành của các đập.” Độ mặn ở ĐBSCL thay đổi trong khoảng 1 g/l.
- Đối với thủy sản, các đập có ảnh hưởng nghiêm trọng, làm giảm 49% sản
lượng cá ở ĐBSCL (341.499 tấn/năm) và 51% sản lượng cá ở Cambodia
(244.425 tấn/năm).
Như vậy, ngoại trừ ảnh hưởng đối với lưu lượng và sự xâm nhập của nước
mặn là tương đối nhỏ hoặc không đáng kể, phù hợp với nguyên tắc thủy học
của các đập dòng chảy, và phù hợp với kết quả của SEA và CIA; ảnh hưởng
của MDS đối với phù sa, chất dinh dưỡng, và thủy sản thì rất nghiêm
trọng, đặc biệt là nghiêm trọng hơn kết quả của SEA và CIA.
Ước tính của MDS về ảnh hưởng đối với phù sa, chất dinh dưỡng, và thủy
sản khác biệt nhiều so với kết quả của SEA và CIA, có lẽ do phương pháp
tính toán và dữ kiện sử dụng; tuy nhiên, nó có vẻ không tương ứng với
ảnh hưởng đối với lưu lượng (vì lưu lượng là một yếu tố quan trọng của
phù sa, chất dinh dưỡng, và thủy sản). Thêm vào đó, ảnh hưởng đối với
thủy sản ở Cambodia ít hơn ở ĐBSCL (244.425 so với 341.499 tấn/năm) có
vẻ thiếu thực tế vì Cambodia có 2 đập lớn là Stungtreng và Sambor trong
khi ĐBSCL thì không có đập nào. Do đó, sự khác biệt nầy cần được xem xét
lại.
MDS có nguy hiểm hay cần được xem xét lại hay không có lẽ là điều không
đáng quan tâm, vì theo Thỏa ước Hợp tác Phát triển Khả chấp Lưu vực sông
Mekong 1995 (Agreement on the Cooperation of the Sustainable
Development of the Mekong River Basin – 5 April 1995) [15], các quốc gia
duyên hà, kể cả Việt Nam, không còn quyền phủ quyết các dự án trong hạ
lưu vực Mekong. Điều đáng quan tâm là làm thế nào để (1) có thể tính
toán tương đối chính xác những ảnh hưởng đối với ĐBSCL sau khi các đập
nầy được xây cất và vận hành, (2) đòi hỏi các quốc gia hoặc công ty chủ
quản các đập chia sẻ lợi tức từ các đập như một biện pháp giảm nhẹ ảnh
hưởng tiêu cực của chúng đối với ĐBSCL (nếu không muốn nói là bồi thường
thiệt hại), và (3) tìm kiếm các biện pháp khoa học, kỹ thuật, và ngoại
giao để thích ứng với những thay đổi do các đập trên dòng chính hoặc phụ
lưu Mekong gây ra cho ĐBSCL. Để làm được như thế, cần phải một hệ thống
trạm quan trắc, một chương trình đo đạc tổng thể, và một kho dữ kiện
điện tử (database) để thu thập và lưu trữ đầy đủ dữ kiện chính xác về
thủy học, phẩm chất nước, thủy sản, nông nghiệp… cho toàn thể ĐBSCL
trước và sau khi các đập nầy được xây cất. Hệ thống trạm quan trắc,
chương trình đo đạc tổng thể, và kho dữ kiện điện tử như thế đáng lý
phải được thực hiện từ lâu, nhưng vẫn chưa quá muộn để bắt tay vào việc!
Tháng 11 năm 2015
Tác giả là Kỹ sư Công chánh Chuyên nghiệp (Professional Civil
Engineer) của Tiểu bang California. Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh tại
Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ, Sài Gòn năm 1972; Trưởng ty Kế
hoạch của Ủy ban Quốc gia Thủy lợi thuộc Bộ Công chánh và Giao thông đến
tháng 4 năm 1975. Tốt nghiệp Cao học Thủy lợi tại Ðại học Nebraska, Hoa
Kỳ năm 1985; Chuyên viên Thủy học (Hydrologist) của Sở Quản trị Thủy
lợi, Broward County, Florida đến năm 1989. Từ năm 1990 đến 2015, Kỹ sư
Giám sát trưởng (Senior Supervising Engineer) của Stetson Engineers
Inc., một công ty cố vấn về thủy lợi và ô nhiễm nguồn nước, thành lập
năm 1957 ở Los Angeles.
Tài liệu tham khảo:
[1] DHI Group. 6 June 2013. “New contract signed with the Vietnam National Mekong River Committee.” Hà Nội, Việt Nam.
[2] VNMC. October 2015. MDS Impact Assessment Framework, Approach,
and Results Overview. Greater Mekong Forum on Water, Food and Energy.
Phnom Penh, Cambodia.
[3] GS. TSKH Nguyễn Ngọc Trân. 31 tháng 10 năm 2015. “Một kết luận nguy hiểm về những con đập trên sông Mekong.” Tuổi Trẻ.
[4] Nguyễn Văn Tuấn. 31 tháng 10 năm 2015. “Một kết luận nguy hiểm!” https://www.facebook.com/drtuanvnguyen/posts/1509319532714501
[5] Anh Thi. 3 tháng 11 năm 2015. “Tác động thủy điện trên Mêkông:
nghiêm trọng hay không đáng kể?” Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online.
[6] Trần Thạnh. 3 tháng 11 năm 2015. “Kết luận về những con đập trên
sông Mekong: Tại sao cần xem xét lại.” Bauxite Việt Nam.
[7] Mekong Secretariat. December 1994. Mekong Mainstream
Run-Of-River Hydropower – Executive Summary. Compagnie Nationale du
Rhône, Lyon, France.
[8] Mekong River Commission (MRC). October 2010. Strategic
Environmental Assessment of Hydropower on the Mekong Mainstream. Final
Report. Prepared for MRC by International Centre for Environmental
Management. Glen Iris, Australia.
[9] VNMC, DHI, and HDR. October 2015. “MDS Impact Assessment
Framework, Approach, and Results Overview.” Greater Mekong Forum on
Water, Food and Energy. Phnom Penh, Cambodia.
[10] VNMC, DHI, and HDR. October 21, 2015. “Study of the Impacts of
Mainstream Hydropower on the Mekong Delta – Modelling.” Greater Mekong
Forum on Water, Food and Energy. Phnom Penh, Cambodia.
[11] VNMC, DHI, and HDR. October 21, 2015. “Study of the Impacts of
Mainstream Hydropower on the Mekong Delta – Fisheries Impact
Assessment.” Greater Mekong Forum on Water, Food and Energy. Phnom Penh,
Cambodia.
[12] MRC. November 2005. Overview of the Hydrology of the Mekong Basin. MRC. Vientiane, Lao PDR.
[13] Nguyễn Minh Quang. Tháng 10 năm 2014. “Ảnh hưởng của các đập trên phụ lưu sông Mekong.” Tinh thần Việt Nam Cộng Hòa.
[14] MRC. April 2011. Assessment of Basin-wide Development Scenarios –
Cumulative impact assessment of the riparian countries’ water resources
development plans, including mainstream dams and diversions. Main
Report. MRC. Vientiane, Lao PDR.
[15] MRC. 5 April 1995. Agreement on the Cooperation on the
Sustainable Development of the Mekong River Basin – 5 April 1995. MRC.
Chiang Rai, Thailand.







0 comments:
Post a Comment