Nguyễn Kim Khánh
Giáo lý nhà Phật rao giảng thập nhị
nhân duyên, để đi đến kết luận triệt để là bài trừ sắc tướng. Đạo Phật
cũng như Đạo Thiên Chúa cao khiết mênh mông, bao trùm toàn thể nhân
loại, là gia sản chung của toàn thể loài người, không thể đóng khuôn đạo
giáo trong một văn bản của một quốc gia. Các nhà lãnh đạo của đạo Phật
đã mắc vào vòng sắc tướng và họ đã chịu hậu quả như thế này: Cộng Sản
Bắc Việt cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa ngày 30.4.1975, chúng tuyên bố
hủy bỏ tất cả luật lệ của Việt Nam Cộng Hòa. Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất được thành lập do sắc lệnh 158/SL/CP, ngày 14.5.1964. Sắc
lệnh ấy, cũng cũng chịu chung số phận với mọi văn bản lập pháp,
lập quy của Việt Nam Cộng Hòa.
Kỳ thị Phật giáo trong chính sách và xã hội:
Trước kia, Phật giáo Thống nhất đã
đòi: Một trong năm nguyện vọng của Phật giáo đồ" là yêu cầu chế độ Ngô
Đình Diệm để cho tăng ni được tự do truyền đạo và hành đạo". Có lẽ trong
trí các vị này nghĩ rằng Phật giáo bị kỳ thị nên tăng ni không được tự
do hành đạo và tự do truyền đạo. Nhưng họ lại không đưa ra được bằng
chứng nào cụ thể chứng minh chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra những khó
khăn hoặc ngăn cản việc truyền đạo hay hành đạo.
Ngược lại người ta có rất nhiều bằng
chứng, chứng minh đạo Phật đã phục hưng rất mạnh trong chín năm cầm
quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trước nhất, là số chùa được xây cất.
-Trongcuốn "Our Vietnam Nightmare" bà Maguerite Higgins cho biết: "1275 ngôi chùa được xây cất, 1295 ngôi chùa được trùng tu dưới trào Ngô Đình Diệm".
-
Theo cụ Đoàn Thêm và cụ Mai Thọ Truyền thì trước khi Tổng thống Ngô
Đình Diệm cầm quyền, Nam Việt Nam chỉ có 2206 ngôi chùa, đến năm 1963 số
chùa tăng lên thành 4766 ngôi. Nhiều ngôi chùa được quốc gia trợ cấp
tiền bạc để xây cất.
- Về các sở văn hóa, trước khi Tổng
thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, đạo Phật chưa mở trường học. Dưới chế độ
Tổng thống Ngô Đình Diệm, hệ thống Trung tiểu học Bồ Đề ra đời.Đỗ
Mậu cho biết năm 1970 Phật giáo có 160 trường trung tiểu học trong cả
nước. Đa số trường này được xây cất trước ngày 1.11.1963.
Đọc những thành quả trên, liệu người ta có dám kết luận Tổng thống Ngô Đình Diệm và chế độ của ông đã "kỳ thị Phật giáo" không ?
Xét chung trên bình diện chính sách
quốc gia cũng như thành quả của đạo Phật trong chín năm cầm quyền của
Tổng thống Ngô Đình Diệm, người ta không tìm ra được bằng cớ nào chứng
tỏ Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính quyền của ông kỳ thị đạo Phật, kỳ
thị giáo hội Phật giáo, kỳ thị tín đồ đạo Phật.
Khi tôi đưa ra một vài vấn đề để viết
bảng so sánh dưới đây, tôi không đề cao Công giáo hay miệt thị Phật
giáo. Tạm thời tôi chỉ nói về:
Yếu tính đạo giáo
- Đạo Phật không hẳn là một tôn giáo, vì tôn giáo phải có Thần Linh.
Đức Phật không phải là Thần Linh. Ngài
chỉ là bậc Đại giác, bậc Chánh Đẳng Chánh giác, nói theo chữ Phạn là
A-niệu-da-la Tam-niệu Tam bồ đề (Amuttara Samyak Samboddhi). Các đệ tử
theo ngài đều là tỳ kheo như nhau, không đẳng cấp. Đã không không hẳn là
tôn giáo, thì cũng không hẳn phải có giáo hội mà chỉ có những tu hội
quy tụ những người đồng một chí hướng trong một tu viện hay một ngôi
chùa.
- Đạo Công giáo rõ ràng là một Tôn giáo vì có Thần Linh Tối Cao là Thiên Chúa,
và có hàng giáo phẩm thống thuộc từ cao xuống thấp tỏa rộng sinh hoạt
trong cộng đồng tín đồ. Chúa Jêsu đã thiết lập giáo hội, đặt ông Phê-rô
làm đầu chăn "các chiên mẹ và chiên con". Chúa như cây nho, tín đồ là
cành nho. Thánh Phao-lô gọi giáo hội là là "thân thể mầu nhiệm" của
Chúa. Giáo hội trở thành keo sơn liên kết người sống và kẻ chết: Giáo
hội đang chiến đấu là giáo hội hữu hình, gồm toàn dân Thiên Chúa ở trần
gian, giáo hội khải hoàn là toàn thể dân Chúa trên Thiên đàng, giáo hội
đau khổ là toàn thể dân Chúa đang chịu thanh luyện sau khi chết, để nhập
vào giáo hội khải hoàn.
-
Hệ quả: Chữ Giáo Hội trong đạo Phật là mượn của Đạo Thiên Chúa: Là
Ecclesia, Église, Church, theo Thánh Kinh (Mat.16,19), nhưng chỉ mượn
được "sắc tướng" thôi, chứ bản chất thì không thể mượn được.
Vì thế, tín đồ Công giáo đoàn kết keo sơn thành một cộng đồng rõ nét,
và tuân lệnh chủ chiên của mình là hàng giáo phẩm trong vấn đề đức tin.
Đời sống giáo hội thông hiệp với tín đồ bằng lời Chúa do giáo sĩ giảng
dạy và nuôi dưỡng tinh thần tín đồ bằng các phép Bí tích. Bí tích Thánh
thể trung tâm của đời sống Công giáo. Điều này, đạo Phật không thể có
được, vì trong đạo Phật ai tu nấy chứng. Trong Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng
ai cũng phải tự mình mà đạt tới. Chính đức Phật đã dạy:
"Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành" và "Chúng sanh hãy tự đốt đuốc tìm đường mà đi".
Tuy gọi là "quy y Tam Bảo", nhưng tín
đồ đạo Phật hoàn toàn tự do, không lệ thuộc vào ai. Đã không lệ thuộc
ai, thì sự giao tế trong một cộng đồng chỉ còn là giao tế xã hội hàng
ngang. Kết quả sự tôn kính dành cho kẻ truyền pháp (tương đương với giáo
sĩ truyền giáo) giảm. Những cái giảm kia xẩy ra ngay trong cộng đồng
đạo Phật tỏa rộng ra toàn xã hội, đưa đến Ngộ Nhận là "kỳ thị Phật
giáo".
- Về những người làm việc tôn giáo
- Đạo Phật: Các tu sĩ đồng hạng đều là
tỳ kheo, tức là những người sống theo lối tu hành của Đức Phật. Muốn
làm tỳ kheo chỉ cần tâm nguyện xuất gia là đủ. Xuất gia rồi, thì giữ
giới luật là thành tỳ kheo. Không bắt buộc trình độ văn hóa hoặc là phải
tu học bao lâu. Không có các trường chuyên nghiệp bắt buộc đào tạo tỳ
kheo theo một học trình mở rộng cả đạo lẫn đời. Thường thì các vị sư cụ
(đại lão Hòa thượng, Thượng tọa) thu nhận một số đệ tử rồi tự các ngài
huấn luyện lấy, xong cho thụ giới thành tỳ kheo. Bởi đó, trình độ văn
hóa tổng quát của các vị tỳ kheo thường yếu kém, nhiều vị ngay sự hiểu
biết về Phật pháp cũng rất lờ mờ, pha trộn tín ngưỡng dân gian, ngoại
đạo. Ấy là chưa nói tới một số kẻ lợi dụng như: họ nguyên chỉ là thầy
cúng của "đạo" dân gian, bỗng chốc mặc áo tỳ kheo nhập hàng tu sĩ của
đạo Phật.
- Đạo Công giáo: Người giáo sĩ Thiên
Chúa dù là giáo sĩ dòng hay giáo sĩ triều (thuộc mỗi địa phận) được đào
tạo trong các trường chuyên nghiệp, theo học một học trình Quốc Tế là
bảy năm, sau khi tốt nghiệp bậc trung học hay "phổ thông". Ở Đại Chủng
Viện, họ được học đủ các môn học về đạo và đời, học về phương pháp
truyền giáo, và học cả về các tôc giáo khác… Đại Chúng Viện trang bị cho
họ đủ khả năng trở thành những "cán bộ" tôn giáo xuất sắc. Nhiều người
trong số họ uyên bác và nói chung đều có học thức.
- Hệ quả: Xã hội Việt Nam trọng kẻ sĩ,
những kẻ có học thức thường được kính trọng. Các nhà sư nhiều người
xuất thân từ thầy cúng, hoặc là đệ tử của các sư cụ khả năng yếu kém,
thì sẽ không đủ uy tín lãnh đạo và không tạo được sự kính trọng của
người khác. Điều này, đem so sánh với giáo sĩ Công giáo sẽ tạo ra sự ngộ
nhận là "kỳ thị Phật giáo".
Trước năm 1955, đạo Phật ở Việt Nam
chỉ là những "tập đoàn" rời rạc, quy tụ chung quanh một ngôi chùa hay
một tu viện, lấy việc tu niệm làm chính. Các "giáo hội" Tăng già, Thiền
tịnh đạo tràng, Tăng sĩ Theravada, Tăng già nguyên thủy… giữ nguyên bản
sắc của mình giống như dòng tu riêng biệt, không lệ thuộc một "giáo
hội" trung tâm như Công giáo. Các vị tỳ kheo tu hành thuần túy không
màng tới chuyện đời, không lưu tâm tới vật chất. Những dòng tu hoằng
dương đạo pháp, không lệ thuộc một giáo quyền nào cả. Ở thôn quê có các
ngôi chùa làng. Chùa làng là công sức và của cải của dân làng chung lưng
mà dựng nên, không thuộc tập đoàn Phật giáo nào. Khi đã có chùa rồi,
thì hội đồng kỳ mục tự tìm kiếm lấy sư để mời về trụ trì, và dân làng
cũng có quyền trục xuất vị sư ra khỏi chùa, nếu ông ta phạm giới.
Từ năm 1955, do cố gắng
vượt bực về tài chánh, do chính quyền giúp đỡ, Tổng giáo hội Phật giáo
Việt Nam đã có các hoạt động xã hội và từ thiện: hệ thống trung tiểu học
Bồ Đề ra đời, mà trước đó không có.
Đồng hóa đạo Phật với dân tộc:
Chắc
chắn dân tộc Việt Nam đã có một đạo giáo khác hẳn với đạo Phật. Đạo ấy,
là việc thờ cúng tổ tiên và trọng thánh thần. Việc thờ cúng tổ tiên
minh thị chấp nhận như chân lý của dân tộc là linh hồn bất diệt. Vì linh
hồn bất diệt cho nên mới có việc thờ cúng người chết, xem người chết
như còn hiện diện và vẫn tác động vào các sinh hoạt của người sống.
Trong
khi đó, thì giáo lý căn bản làm nên Phật pháp của đạo Phật là thuyết
luân hồi, phủ nhận linh hồn hằng sống. Đức Phật không dạy rõ, nếu linh
hồn không bất diệt thì cái gì sẽ làm cho các pháp (con người cũng là một
pháp) được tái sinh vào các cảnh giới trước khi chấm dứt sinh tử thoát
khỏi luân hồi mà vào Niết Bàn ???
Các nhà Phật học đã sáng chế ra duy
thức học. Cái thức cuối cùng là A-lại-da thức, tiếng Việt dịch là Tâm
thức, tức là cái thức "máy móc" tạo thành cái nghiệp theo luân hồi. Dù
sao thì thuyết luân hồi cũng trái hẳn với tín ngưỡng của dân tộc là
lòng tin vào linh hồn bất diệt qua việc thờ cúng người chết.
Chính vì thế, nên cho dù đạo Phật đã
vào nước Việt sớm hơn đạo Thiên Chúa, nhưng mỗi ngày càng xa rời với
niềm tin của Đạo Việt tin vào linh hồn hằng sống; đến khi thấy con số
tín hữu Công giáo tăng lên vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa, thì các tăng lữ
đạo Phật vì không biết làm gì hơn, nên đã lên án chế độ của Tổng thống
Ngô Đình Diệm là "kỳ thị Phật giáo", là bất công và gian trá.
Nhưng đánh thẳng vào Công giáo không
được, vì phạm tới tín ngưỡng của người khác, được xem là tội mọi rợ, bị
cả thế giới lên án, vì đó là nhân quyền căn bản và thiêng liêng nhất của
con người. Ngay cả cộng sản bài trừ tôn giáo triệt để, nhưng cũng không
dám công khai xúc phạm thẳng tới tôn giáo, họ phải nhờ cái cầu "giai
cấp". Ở Việt Nam những người thù nghịch Thiên Chúa Giáo đánh Công giáo
bằng cách chụp cho Công giáo một cái mặt nạ, một cái mũ. Mặt nạ ấy, là
Cần Lao, nhà Ngô và chủ nghĩa Thực dân Pháp. Đọc những lời lên án Công
giáo đầy rẫy ta thấy rõ "Thực dân, Cần Lao, nhà Ngô chỉ là cái diện để
những người thù nghịch đánh vào Công giáo, không những Công giáo Việt
Nam mà cả Công giáo hoàn cầu, là Tòa Thánh La Mã.
Nghiên cứu về mưu kế, sách lược này
được sách "Tam thập lục kế" gọi là "Thanh Đông kích Tây hay dương Đông
kích Tây". Ở đây không phải là nhà Ngô hay thực dân, mà chính là Đạo
Thiên Chúa vậy.
Trở lại cuộc đấu tranh của đạo Phật
vào năm 1963. Đa số các tông phái của đạo Phật chỉ lo tu thân, học Phật,
nhiều tông phái không muốn lao thân vào cuộc đấu tranh lật đổ "nhà
Ngô". Nhiều vị tỳ kheo đức độ nhìn nhận Tổng thống Ngô Đình Diệm là
người có công giúp cho các đạo giáo phục hưng và phát triển ở miền Nam,
trong đó có đạo Phật. Nếu cứ để tình trạng ấy thì các nhà sư chính khách
không thể thực hiện được mưu đồ của mình, mà việc trước mắt là đoàn kết
các tông phái rời rạc trong cùng một đạo thu về một mối. Họ đã phát
động cuộc đấu tranh: Tổng thống Ngô Đình Diệm trở thành thứ "oan dương"
cho họ đổ lên đầu những tội lỗi tưởng tượng.
Kẻ làm chính trị được phép sử dụng
những thủ đoạn, được quyền dùng những giả diện để chiếm mục tiêu, nhưng
phải thành thật với chính mình, nếu không thì chết. Hứa Du hỏi Tào Tháo
về quân lương. Tào Tháo làm mặt bảnh nói quanh, nhưng trong bụng thì lo
lắm vì quân hết lương rồi. Sau phải thưa thiệt để Hứa Du hiến kế.
Những kẻ nhận phần trăm dân số đạo
Phật ở Việt Nam đã vẽ ra một tương lai tươi sáng cho "đạo pháp và dân
tộc" bằng không tưởng, rồi quyết tâm hạ bệ "nhà Ngô". Đến khi "nhà Ngô"
đổ rồi, thì đạo pháp trở thành mạt pháp, còn dân tộc thì điêu linh khốn
cùng tới tận đất đen. Các tay chính khách đạo Phật từng ngụy trang thành
tăng sĩ chính khách, đã đồng hóa đạo Phật với dân tộc, để nhận cái số
đông quần chúng làm quần chúng của mình theo cái cách thức của những kẻ
làm chính trị. Công thức "đạo pháp và dân tộc" không những trái với lịch
sử mà còn tỏ ra là gian dối. Nay họ vẫn chưa từ bỏ tham vọng, dù thực
chất của họ chẳng có gì. Những ai có lòng với đất nước Việt Nam không
nên ngại ngùng gì mà phải đưa vấn đề ra trước ánh sáng, để quốc dân biết
mà tránh sau này.
Nguyễn Kim Khánh(Phan Thiết)
0 comments:
Post a Comment