ĐƠN TỐ CÁO
(V/v: Xâm phạm chỗ ở, vu khống, bắt giữ người trái pháp luật, cố ý gây thương tích)
Kính gửi: - Công an thành phố Đà Nẵng
- Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng
- Viện Trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao
- Bộ Trưởng Bộ Công an
- Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc
Đại sứ quán Mỹ, Đại sứ quán Đức, Đại sứ quán Na Uy, Đại sứ quán Úc, Đại sứ quán Canada, Đại sứ quán Pháp, Đại sứ quán New Zealand (Để biết)
Tôi là Nguyễn Đức Quốc,
Sinh năm 1970; Chứng minh nhân dân số: 191082311 do Công an tỉnh Thừa
Thiên Huế cấp ngày: 08/04/2010 ;Trú tại: tại 284 Lạc Long Quân, thị trấn
Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế; Điện thoại: 0905607003.
Tôi
làm đơn này, tố cáo một nhóm khoảng hơn 20 Công an thuộc Công an phường
Hòa Minh, quận Liên Chiểu và Công an thành phố Đà Nẵng đã có hành vi
xâm phạm chỗ ở của tôi, vu khống, bắt giữ tôi trái phép, đánh đập tôi dã
man dẫn đến chấn thương sọ não phải cấp cứu.
Nội dung sự việc cụ thể như sau:
Vào
hồi 22h45 phút ngày 07/12/2013, tại phòng nghỉ của tôi thuê tại Nhà
nghỉ Hồng Ngọc, đường Nguyễn Huy Tự, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng,
một nhóm người lạ mặt khoảng hơn 20 người (trong đó có một người tên
Dũng còn những người khác tôi không biết tên) mặc thường phục, xưng là
Công an thành phố Đà Nẵng đạp cửa xông vào phòng của tôi, lục soát nơi ở
của tôi và khám xét toàn bộ cơ thể của tôi. Khi thực hiện hành vi này,
họ nói họ là Công an thành phố Đà Nẵng nhưng đều mặc thường phục và
không xuất trình thẻ ngành. Trước khi họ lục soát nơi ở và khám toàn bộ
cơ thể của tôi, họ không đọc và giao bất cứ một văn bản nào cho tôi, họ
chỉ nói miệng rằng: tôi có mang theo hàng lậu.
Khoản 1, Điều 127 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định về việc Khám người theo thủ tục hành chính như sau: “Việc
khám người theo thủ tục hành chính chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho
rằng người đó cất giấu trong người đồ vật, tài liệu, phương tiện được
sử dụng để vi phạm hành chính”. Điều 140 Bộ luật Tố tụng hình sự
cũng quy định về căn cứ khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ
vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm như sau: “Việc khám người,
chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận
định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công
cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật,
tài liệu khác có liên quan đến vụ án.”
Tôi không biết Công an thành phố Đà Nẵng khám chỗ ở của tôi, khám người tôi vào đêm ngày 07/12/2013
là thực hiện theo thủ tục hành chính hay tố tụng hình sự. Tuy nhiên, dù
khám người theo thủ tục hành chính hay theo trình tự tố tụng hình sự
thì đều không có căn cứ. Họ cho rằng, tôi có mang theo hàng lậu
nhưng lại không đưa ra được căn cứ nào mà chỉ là lời nói từ miệng của
họ, không có văn bản nào chứng minh điều họ nói là có cơ sở. Ngoài ra,
hành vi không giao cho tôi một Biên bản khám người, không giao cho tôi
một bản Quyết định hay Lệnh khám người là vi phạm Khoản 5, Điều 127 Luật
xử lý vi phạm hành chính “Mọi trường hợp khám người đều phải lập
biên bản. Quyết định khám người và biên bản khám người phải được giao
cho người bị khám 01 bản” và vi phạm Điều 142 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Khi
bắt đầu khám người, phải đọc lệnh khám và đưa cho đương sự đọc lệnh
khám đó; giải thích cho đương sự và những người có mặt biết quyền và
nghĩa vụ của họ”.
Sau
khi khám nơi ở, khám người tôi không phát hiện ra “hàng lậu”, cũng
không có dấu vết của tội phạm, nhưng họ vẫn thu giữ của tôi 01 máy ảnh
hiệu Nikon D90 kèm ống kính, 01 máy thu âm, 01 Điện thoại cầm tay, 01
tài liệu “14 điều cam kết mà Việt Nam đã ký tại Hội đồng Nhân quyền Liên
Hợp Quốc”, 01 tài liệu “Công ước chống tra tấn của Đại Hội Đồng Liên
Hợp Quốc”, 01 tài liệu “Nhật ký làm việc với phòng PA61 công an thành
phố Đà Nẵng (Nguyễn Văn Thạnh)”, 01 xe gắn máy và giấy tờ tùy thân
(CMND). Chẳng lẽ tất cả những đồ dung cá nhân, tài liệu đọc tham khảo
này là “hàng lậu”? Dù không tìm được “hàng lậu”, không có căn cứ tôi
phạm tội quả tang, nhưng họ vẫn cưỡng chế, áp tải tôi về Trụ sở Công an
phường Hoà Minh và giam tôi trong phòng để tạm giữ. Hành vi này đã vi phạm Điều 6 Bộ luật Tố tụng Hình sự: “Không
ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê
chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang”.
Điều 48 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về người bị tạm giữ như sau: “Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.”. Khoản 1 Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về những trường hợp bắt người khẩn cấp như sau: “1.
Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp: A) Khi có căn cứ
để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; B) Khi người bị hại hoặc người có
mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là
người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó
trốn; C) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của
người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc
người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.” Theo như quy định trên, tôi
không thuộc trường hợp phạm tội quả tang, không thuộc các trường hợp bị
bắt khẩn cấp và hiện tại tôi không bị truy nã về bất cứ tội danh nào, do
đó không có căn cứ để tạm giữ đối với tôi.
Tóm
lại, Công an thành phố Đà Nẵng đột nhập thô bạo, khám xét nơi ở của
tôi, cưỡng bức tôi ra khỏi nơi ở của tôi mà không có Lệnh, không có
Quyết định của người có thẩm quyền là phạm Tội xâm phạm chỗ ở của công dân (Điều
124 Bộ luật Hình sự). Công an thành phố Đà Nẵng bắt tôi, tạm giữ tôi
không theo trình tự là vi phạm Bộ luật Tố tụng hình sự, những cá nhân
thừa hành việc bắt tôi là phạm Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều
123 Bộ luật Hình sự 1999). Công an thành phố Đà Nẵng cho rằng tôi mang
theo hàng lậu, nhưng lại không có căn cứ, không khám xét được “hàng lậu”
tại nơi ở của tôi, trên cơ thể của tôi thì thông tin đó là bịa đặt, làm
ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của tôi. Vậy cá nhân nào đã cho rằng
tôi mang theo hàng lậu là phạm vào Tội vu khống (Điều 122 Bộ luật
Hình sự). Những người đã đánh đập tôi dã man ngày 10/12/2013 khiến tôi
bất tỉnh, hôn mê sâu, bị chấn thương sọ não là phạm Tội cố ý gây thương tích (Điều 104 Bộ luật hình sự).
Hành
vi xâm phạm chỗ ở của tôi, vu khống tôi mang theo hàng lậu, bắt giữ tôi
và gây thương tích cho tôi do người tên Dũng và những người có mặt đêm
ngày 07 và ngày 08/12/2013 thực hiện, hành vi cố ý gây thương tích cho
tôi vào ngày 10/12/2013 của công an trước Trụ sở Công an phường Hòa Minh
(tôi không rõ là Công an phường Hòa Minh hay Công an thành phố Đà Nẵng)
là vi phạm pháp luật hình sự. Do họ không đeo biển tên, không xuất
trình thẻ ngành và khi thực hiện hành vi họ cũng không giới thiệu tên,
nên tôi không biết được danh tính cụ thể của từng người. Tuy nhiên, nếu
gặp lại tôi có thể nhận diện được từng người.
Vì
tất cả các lý do trên, tôi làm đơn này kính đề nghị các cơ quan có thẩm
quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với người tên Dũng và một nhóm
người (khoảng hơn 20 người) thuộc Công an thành phố Đà Nẵng, Công an
phường Hòa Minh đã có những hành vi phạm tội trong sự việc nêu trên với
các tội danh sau: Tội xâm phạm chỗ ở của công dân (Điều 124 Bộ luật Hình sự), Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 123 Bộ luật Hình sự 1999), Tội vu khống (Điều 122 Bộ luật Hình sự) và Tội cố ý gây thương tích (Điều 104 Bộ luật hình sự).
Trên đây là toàn bộ Đơn tố cáo của tôi, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền, xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Trân trọng cảm ơn.
Lăng Cô, ngày 13 tháng 01 năm 2014
(Đã Ký)
Chuyển bài: Yêu Chuộng Công Lý và Sự Thật
0 comments:
Post a Comment