Phạm Hải
Cha ông chúng ta vẫn dậy dỗ con cháu: “Biết thì thưa thốt. Không biết thì
dựa cột mà nghe”. Biết điều hay lẽ phải thì
nói ra hoặc truyền dậy cho thiên hạ là một sứ mạng người chánh trực phải làm mà
không màng danh hám lợi. Biết điều sai
quấy mà không nói ra nào có khác chi tòng phạm với tội ác, với gian manh xảo
quyệt, đồng loã với bọn ác nhân ác đức.
Ngay thẳng nói ra để tôn trọng sự thật, vinh danh lẽ phải mà cũng chẳng khiếp sợ đàm tiếu hay hận thù.
1- Chuyện thứ nhất: Huỳnh Tấn Lê
Huỳnh Tấn Lê (trái, đồng thời là Trưởng Ban Tổ Chức tại hội trường Jerome, Santa Ana, ngày 23.6.2013)
Huỳnh
Tấn Lê tốt nghiệp khóa 17 Học Viện Quốc Gia
Hành Chánh. Ra trường làm việc tại bộ Dân
Vận dưới thời Hoàng Đức Nhã. Sau ngày Việt
Cộng cưỡng chiếm nước Việt Nam Cộng Hoà thì Huỳnh Tấn Lê cũng phải vào
tù nhưng
Lê là một thứ “tù cha” đi ra đi vô trại tù như đi chợ. Bọn cán bộ quản
giáo cũng phải kiêng mặt. Một ngày đẹp trời Lê thong thả bước ra cổng
trại tù và gia đình lên tầu vượt biên.
Sang Mỹ, Lê mở tiệm cho mướn video và rất phát đạt. Sau khi ổn định và có tiền, Lê kinh doanh chùa và càng ngày càng giầu hơn. Chẳng ai biết rõ hiện Lê có bao nhiêu chùa nhưng Huỳnh Tấn Lê là người đã sáng lập ra Tổng Hội Cư Sĩ và dùng tiền bạc cũng như phe phái khống chế hầu như toàn bộ các chùa Việt Nam ở hải ngoại. Chùa đã đem lại cho Lê tiền bạc và đồng thời Lê cũng biết khôn khéo gây bè kết phái để lũng đoạn các sinh hoạt tôn giáo thuần túy.
Gần đây, Huỳnh Tấn Lê đã tổ chức lễ tưởng niệm nhà sư Thích Quảng Đức “tự thiêu” hay bị thiêu sống. Những tấm ảnh một sát thủ hai tay cầm can xăng dội lên thân thể nhà sư rồi châm lửa đốt như một khí cụ để thoả mãn dục vọng và thi hành chỉ thị của bọn cộng sản Bắc Việt. Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đã thẳng tay giết cả trăm ngàn người trong phong trào Cải Cách Ruộng Đất để bước lần đến xã hội chủ nghĩa. Tính mạng và thân xác của một nhà sư già nào có đáng gì trong mưu đồ xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà. Người cộng sản dùng mọi phương tiện để đạt tới cứu cánh cho dù những phương tiện đó là máu lửa chết chóc. Nỡ lòng đốt chết một nhà sư có vợ con để châm ngòi cho cái gọi là “Phật giáo đấu tranh” thực sự đã là một kế hoạch của cộng sản Bắc Việt và bọn cán bộ đội lốt sư sãi lãnh nhiệm vụ thi hành.
Năm mươi năm sau ngày “tử đạo” của nhà sư Thích Quảng Đức, bọn cộng sản Hà Nội đã rầm rộ làm lễ tưởng niệm tại nhiều địa điểm trong nước và nước ngoài. Người được giao phó công việc tổ chức tại Hoa Kỳ là Huỳnh Tấn Lê. Trong vai trò trưởng ban tổ chức, Lê đã gây ra những phản ứng xấu xa chẳng những cho bản thân mà Phật giáo lại còn phải gánh chịu những điều tiếng oan trái.
Những người có lương tri nghĩ gì khi Huỳnh Tấn Lê đọc bài diễn văn khai mạc trước chư tăng của Viện Hoá Đạo và các Phật tử đã xiên xỏ chửi bới Thiên Chúa giáo một cách rất đểu cáng và tố khổ cá nhân Tổng Thống Ngô Đình Diệm giết chết ba trăm ngàn (300,000) Phật tử miền Trung. Lê quên không tính thêm số Phật tử bị giết ở miền Nam. Con số tổng cộng các “thánh tử đạo” có thể lên đến cả triệu?! Đó là ngôn ngữ của bọn côn đồ đầu đường xó chợ. Đó là thái độ của một đứa mất dậy ngu đần. Phật tử nào cũng phải bịt tai che mặt vì một đứa phản phúc đã làm mờ nhạt ánh hào quang của đạo vàng. Đạo Phật dậy con người ăn ngay ở lành, ăn nói điêu ngoa làm điều bất nhân bất nghĩa thì có bao nhiêu cảnh chùa cũng không thể nào thoát khỏi lửa thiêu đốt của a tỳ địa ngục.
Ngoài cái chức danh là “chủ chùa” ngồi đếm tiền của bá tánh thập phương dâng cúng, Huỳnh Tấn Lê còn làm thêm công việc đưa các thanh niên dưới dạng sư sãi sang Hoa Kỳ tu học. Nếu thật sự những người này thành tâm thiện ý muốn tu học thì họ phải đi sang những đất Phật như Ấn Độ, Tây Tạng, Thái Lan... mà tu dưỡng trong môi trường thuần túy Phật giáo với những phong cảnh sinh hoạt và kinh kệ tràn ngập hương sắc từ bi. Hoa Kỳ là một quốc gia Thiên Chúa giáo hoàn toàn không có những điều kiện tối thiểu cho một người tu hành Phật giáo. Vậy những thanh niên được Huỳnh Tấn Lê đưa sang Mỹ qua diện tu học chỉ thuộc vào loại hoặc là cán bộ cộng sản có nhiệm vụ hoạt động theo chỉ thị và sách lược của Hà Nội, hoặc là con cái của những đại gia muốn sang Mỹ để làm đầu cầu cho cả gia đình “vượt biên”. Việt Nam có cả chục đại học và học viện Phật giáo. Tại sao không ở Việt Nam mà sang Mỹ đã không có lấy một chỗ tu học lại khác biệt về ngôn ngữ và văn hoá. Hùynh Tấn Lê kiếm chác bộn trong dịch vụ đưa thanh niên Việt nam sang Mỹ tu học đồng thời còn thi hành một cách đắc lực kế hoạch kiểm soát và chỉ đạo sinh hoạt của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Hoa Kỳ.
Sang Mỹ, Lê mở tiệm cho mướn video và rất phát đạt. Sau khi ổn định và có tiền, Lê kinh doanh chùa và càng ngày càng giầu hơn. Chẳng ai biết rõ hiện Lê có bao nhiêu chùa nhưng Huỳnh Tấn Lê là người đã sáng lập ra Tổng Hội Cư Sĩ và dùng tiền bạc cũng như phe phái khống chế hầu như toàn bộ các chùa Việt Nam ở hải ngoại. Chùa đã đem lại cho Lê tiền bạc và đồng thời Lê cũng biết khôn khéo gây bè kết phái để lũng đoạn các sinh hoạt tôn giáo thuần túy.
Gần đây, Huỳnh Tấn Lê đã tổ chức lễ tưởng niệm nhà sư Thích Quảng Đức “tự thiêu” hay bị thiêu sống. Những tấm ảnh một sát thủ hai tay cầm can xăng dội lên thân thể nhà sư rồi châm lửa đốt như một khí cụ để thoả mãn dục vọng và thi hành chỉ thị của bọn cộng sản Bắc Việt. Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đã thẳng tay giết cả trăm ngàn người trong phong trào Cải Cách Ruộng Đất để bước lần đến xã hội chủ nghĩa. Tính mạng và thân xác của một nhà sư già nào có đáng gì trong mưu đồ xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà. Người cộng sản dùng mọi phương tiện để đạt tới cứu cánh cho dù những phương tiện đó là máu lửa chết chóc. Nỡ lòng đốt chết một nhà sư có vợ con để châm ngòi cho cái gọi là “Phật giáo đấu tranh” thực sự đã là một kế hoạch của cộng sản Bắc Việt và bọn cán bộ đội lốt sư sãi lãnh nhiệm vụ thi hành.
Năm mươi năm sau ngày “tử đạo” của nhà sư Thích Quảng Đức, bọn cộng sản Hà Nội đã rầm rộ làm lễ tưởng niệm tại nhiều địa điểm trong nước và nước ngoài. Người được giao phó công việc tổ chức tại Hoa Kỳ là Huỳnh Tấn Lê. Trong vai trò trưởng ban tổ chức, Lê đã gây ra những phản ứng xấu xa chẳng những cho bản thân mà Phật giáo lại còn phải gánh chịu những điều tiếng oan trái.
Những người có lương tri nghĩ gì khi Huỳnh Tấn Lê đọc bài diễn văn khai mạc trước chư tăng của Viện Hoá Đạo và các Phật tử đã xiên xỏ chửi bới Thiên Chúa giáo một cách rất đểu cáng và tố khổ cá nhân Tổng Thống Ngô Đình Diệm giết chết ba trăm ngàn (300,000) Phật tử miền Trung. Lê quên không tính thêm số Phật tử bị giết ở miền Nam. Con số tổng cộng các “thánh tử đạo” có thể lên đến cả triệu?! Đó là ngôn ngữ của bọn côn đồ đầu đường xó chợ. Đó là thái độ của một đứa mất dậy ngu đần. Phật tử nào cũng phải bịt tai che mặt vì một đứa phản phúc đã làm mờ nhạt ánh hào quang của đạo vàng. Đạo Phật dậy con người ăn ngay ở lành, ăn nói điêu ngoa làm điều bất nhân bất nghĩa thì có bao nhiêu cảnh chùa cũng không thể nào thoát khỏi lửa thiêu đốt của a tỳ địa ngục.
Ngoài cái chức danh là “chủ chùa” ngồi đếm tiền của bá tánh thập phương dâng cúng, Huỳnh Tấn Lê còn làm thêm công việc đưa các thanh niên dưới dạng sư sãi sang Hoa Kỳ tu học. Nếu thật sự những người này thành tâm thiện ý muốn tu học thì họ phải đi sang những đất Phật như Ấn Độ, Tây Tạng, Thái Lan... mà tu dưỡng trong môi trường thuần túy Phật giáo với những phong cảnh sinh hoạt và kinh kệ tràn ngập hương sắc từ bi. Hoa Kỳ là một quốc gia Thiên Chúa giáo hoàn toàn không có những điều kiện tối thiểu cho một người tu hành Phật giáo. Vậy những thanh niên được Huỳnh Tấn Lê đưa sang Mỹ qua diện tu học chỉ thuộc vào loại hoặc là cán bộ cộng sản có nhiệm vụ hoạt động theo chỉ thị và sách lược của Hà Nội, hoặc là con cái của những đại gia muốn sang Mỹ để làm đầu cầu cho cả gia đình “vượt biên”. Việt Nam có cả chục đại học và học viện Phật giáo. Tại sao không ở Việt Nam mà sang Mỹ đã không có lấy một chỗ tu học lại khác biệt về ngôn ngữ và văn hoá. Hùynh Tấn Lê kiếm chác bộn trong dịch vụ đưa thanh niên Việt nam sang Mỹ tu học đồng thời còn thi hành một cách đắc lực kế hoạch kiểm soát và chỉ đạo sinh hoạt của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Hoa Kỳ.
2- Chuyện thứ hai: Nhất Linh
Ngày 6 và 7 tháng Bẩy năm 2013, báo Người Việt ở
California tổ chức hội thảo về tổ chức và văn phong của Tự Lực Văn Đoàn và cũng
nhằm ngày Nhất Linh tự tử. Những người đứng
ra tổ chức cái gọi là cuộc “hội thảo” này đã không dám công khai đặt tên cho buổi
tập hợp này là lễ giỗ hay tưởng niệm Nhất Linh.
Thật ra buổi “hội thảo” này cũng là một hoạt động tiếp nối các buổi tưởng
niệm nhà sư Thích Quảng Đức.
Nhất Linh có can dự một cách rất tiêu cực trong vụ đám quân nhân nổi loạn vào ngày 11 tháng Mười Một năm 1960. Tất cả những người tham gia một cách tích cực hoặc các chính khách xa lông khi nghe tiếng súng thì chạy ra ăn có vào giờ thứ 25 nếu không chạy thoát sang Cao Miên thì đều bị bắt giam. Chỉ riêng Nhất Linh không bị tống giam và còn được đối xử rất trân trọng.
Cựu Đại Tá Lê Nguyên Phu người giữ vai trò công tố vụ án nổi loạn của một đám quân nhân ngày 11 tháng 11 năm 1960 trong cuốn sách Trong Bóng Tối Lịch Sử (2008, Montreal) có viết vài trang về sự can dự của Nhất Linh. Theo ông Lê Nguyên Phu thì Nhất Linh bị truy tố vì ra lệnh cho thuộc hạ chăng biểu ngữ và rải truyền đơn trước dinh Độc Lập. Những người trong phe nhóm của Nhất Linh đều khai báo rằng chính Nhất Linh đã ra lệnh cho đàn em làm công việc chăng biểu ngữ và rải truyền đơn. Nhưng trong cả hai lần khai báo ở phòng Dự Thẩm thì Nhất Linh đều một mực từ chối đã không ra lệnh cho thuộc hạ làm như vậy. Một sự việc đặc biệt cần lưu ý là tại phòng dự thẩm Nhất Linh đã nhiều lần khẩn khoản nài nỉ ông Lê Nguyên Phu xin không phải đối chất với đàn em tại pháp đình trước nhiều đại diện ngoại giao và một lực lượng truyền thông hùng hậu tham dự. Do vậy tiến trình của phiên xử đã không có tiết mục đối chất giữa Nhất Linh và các thuộc hạ. Nhưng nếu luật sư của các thuộc hạ này xin toà cho đối chất với Nhất Linh thì vị chánh án sẽ không thể từ chối.
Tại sao Nhất Linh lại sợ hãi không dám đối chất với đàn em trước toà. Đối chất về việc có hay không Nhất Linh ra lệnh cho đàn em chăng biểu ngữ và rải truyền đơn trước dinh Độc Lập chắc chắn không phải là một nguyên cớ đã đẩy Nhất Linh vào một quyết định phải chết để trốn tránh những búa rìu của công luận. Lợi dụng tiếng súng của bọn phản loạn rải mấy cái truyền đơn, chăng vài cái biểu ngữ gặp ông toà dễ tính thì chắc cũng được tha bổng với lời khuyên lần sau nhớ đi xem “ngày lành tháng tốt” trước khi hành động! Vậy sự việc gì mà Nhất Linh sợ hãi không dám đối mặt và đối chất với đàn em trước ba toà quan lớn.
Một sự thật rất ít người biết là gần như suốt cả thời Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam thì mỗi tháng Nhất Linh đều nhận được một số tiền mười ngàn đồng bạc từ văn phòng Nghiên Cứu Chánh Trị do bác sĩ Trần Kim Tuyến điều hành. Số tiền này được cấp phát cho Nhất Linh để tổ chức một lực lượng đối lập cuội che mắt Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Âu. Lực lượng đối lập này đồng thời cũng được giao cho một căn nhà ở cuối đường Phan Thanh Giản gần cầu ra xa lộ để làm trụ sở. Nhất Linh “lãnh lương” mỗi tháng và có một cuộc sống khá phong lưu. Bọn đàn em không được chia chác nên nội bộ trở nên bất hoà. Do vậy những người này đã đồng lòng khai báo sự thật khi được hỏi cung. Một trong số những người này khi bị giam ở khám lớn Chí Hoà đã viết thư về cho gia đình kể rõ sự tình khúc nhôi. Nhất Linh có một cuộc sống cá nhân nhàn nhã nhờ tiền “trợ cấp” của văn phòng Nghiên Cứu Chánh Trị, trong khi gia đình Nhất Linh chẳng giầu có gì, bà vợ chỉ buôn bán cau khô tiền tặn sống chật vật qua ngày mà thôi.
Nhất Linh sợ hãi khi phải đối chất với bọn đàn em không phải vì vài cái biểu ngữ hay mấy tờ truyền đơn mà vì những đồng tiền từ chính quyền đương thời. Còn gì là mặt mũi với đàn em thuộc hạ, còn gì là tình nghĩa với những người đã nể nang trân trọng gia ân cho mình, còn gì là tiếng tăm trong thế giới văn chương thơ phú và nhất là có còn dám bước ra ngoài đường nhìn mặt đồng bào không? Nhục nhã và nhơ nhơp quá. Do vậy chỉ có chết là hết chuyện mà lại còn được vinh danh là anh hùng vì dân vì nước chống “độc tài”, chống “đàn áp tôn giáo”, chống ‘gia đình trị”.
Sự thật dù trong bất cứ hoàn cảnh và trường hợp nào cũng phải được đề cao và tôn trọng mặc dù đôi khi đó là những sự thật đắng cay phũ phàng.
Nhất Linh có can dự một cách rất tiêu cực trong vụ đám quân nhân nổi loạn vào ngày 11 tháng Mười Một năm 1960. Tất cả những người tham gia một cách tích cực hoặc các chính khách xa lông khi nghe tiếng súng thì chạy ra ăn có vào giờ thứ 25 nếu không chạy thoát sang Cao Miên thì đều bị bắt giam. Chỉ riêng Nhất Linh không bị tống giam và còn được đối xử rất trân trọng.
Cựu Đại Tá Lê Nguyên Phu người giữ vai trò công tố vụ án nổi loạn của một đám quân nhân ngày 11 tháng 11 năm 1960 trong cuốn sách Trong Bóng Tối Lịch Sử (2008, Montreal) có viết vài trang về sự can dự của Nhất Linh. Theo ông Lê Nguyên Phu thì Nhất Linh bị truy tố vì ra lệnh cho thuộc hạ chăng biểu ngữ và rải truyền đơn trước dinh Độc Lập. Những người trong phe nhóm của Nhất Linh đều khai báo rằng chính Nhất Linh đã ra lệnh cho đàn em làm công việc chăng biểu ngữ và rải truyền đơn. Nhưng trong cả hai lần khai báo ở phòng Dự Thẩm thì Nhất Linh đều một mực từ chối đã không ra lệnh cho thuộc hạ làm như vậy. Một sự việc đặc biệt cần lưu ý là tại phòng dự thẩm Nhất Linh đã nhiều lần khẩn khoản nài nỉ ông Lê Nguyên Phu xin không phải đối chất với đàn em tại pháp đình trước nhiều đại diện ngoại giao và một lực lượng truyền thông hùng hậu tham dự. Do vậy tiến trình của phiên xử đã không có tiết mục đối chất giữa Nhất Linh và các thuộc hạ. Nhưng nếu luật sư của các thuộc hạ này xin toà cho đối chất với Nhất Linh thì vị chánh án sẽ không thể từ chối.
Tại sao Nhất Linh lại sợ hãi không dám đối chất với đàn em trước toà. Đối chất về việc có hay không Nhất Linh ra lệnh cho đàn em chăng biểu ngữ và rải truyền đơn trước dinh Độc Lập chắc chắn không phải là một nguyên cớ đã đẩy Nhất Linh vào một quyết định phải chết để trốn tránh những búa rìu của công luận. Lợi dụng tiếng súng của bọn phản loạn rải mấy cái truyền đơn, chăng vài cái biểu ngữ gặp ông toà dễ tính thì chắc cũng được tha bổng với lời khuyên lần sau nhớ đi xem “ngày lành tháng tốt” trước khi hành động! Vậy sự việc gì mà Nhất Linh sợ hãi không dám đối mặt và đối chất với đàn em trước ba toà quan lớn.
Một sự thật rất ít người biết là gần như suốt cả thời Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam thì mỗi tháng Nhất Linh đều nhận được một số tiền mười ngàn đồng bạc từ văn phòng Nghiên Cứu Chánh Trị do bác sĩ Trần Kim Tuyến điều hành. Số tiền này được cấp phát cho Nhất Linh để tổ chức một lực lượng đối lập cuội che mắt Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Âu. Lực lượng đối lập này đồng thời cũng được giao cho một căn nhà ở cuối đường Phan Thanh Giản gần cầu ra xa lộ để làm trụ sở. Nhất Linh “lãnh lương” mỗi tháng và có một cuộc sống khá phong lưu. Bọn đàn em không được chia chác nên nội bộ trở nên bất hoà. Do vậy những người này đã đồng lòng khai báo sự thật khi được hỏi cung. Một trong số những người này khi bị giam ở khám lớn Chí Hoà đã viết thư về cho gia đình kể rõ sự tình khúc nhôi. Nhất Linh có một cuộc sống cá nhân nhàn nhã nhờ tiền “trợ cấp” của văn phòng Nghiên Cứu Chánh Trị, trong khi gia đình Nhất Linh chẳng giầu có gì, bà vợ chỉ buôn bán cau khô tiền tặn sống chật vật qua ngày mà thôi.
Nhất Linh sợ hãi khi phải đối chất với bọn đàn em không phải vì vài cái biểu ngữ hay mấy tờ truyền đơn mà vì những đồng tiền từ chính quyền đương thời. Còn gì là mặt mũi với đàn em thuộc hạ, còn gì là tình nghĩa với những người đã nể nang trân trọng gia ân cho mình, còn gì là tiếng tăm trong thế giới văn chương thơ phú và nhất là có còn dám bước ra ngoài đường nhìn mặt đồng bào không? Nhục nhã và nhơ nhơp quá. Do vậy chỉ có chết là hết chuyện mà lại còn được vinh danh là anh hùng vì dân vì nước chống “độc tài”, chống “đàn áp tôn giáo”, chống ‘gia đình trị”.
Sự thật dù trong bất cứ hoàn cảnh và trường hợp nào cũng phải được đề cao và tôn trọng mặc dù đôi khi đó là những sự thật đắng cay phũ phàng.
Phạm Hải
E.M.
0 comments:
Post a Comment