Tác giả: Ông John McCain là Thượng nghị sĩ cao cấp của Mỹ từ bang Arizona và là thành viên cao cấp của Ủy ban Quân vụ Thượng viện. Bài viết này dựa trên bài phát biểu của ông tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế ở Washington, DC trong tháng này.
Thượng nghị sĩ John McCain nói rằng Hoa Kỳ vẫn là đối tác được nhiều nước châu Á lựa chọn. Nhưng Washington cần phải đặt chuyện tranh cãi chính trị của mình sang một bên.
Trong tháng này, tôi đã gặp một phái đoàn doanh nghiệp đến từ Malaysia, một người trong số họ đã nói với tôi rằng: “Thượng nghị sĩ McCain, khi chúng tôi nhìn vào nước Mỹ hiện giờ, dường như các ông hoàn toàn bị rối loạn. Hệ thống chính trị của các ông dường như không có khả năng đưa ra các quyết định cơ bản để khắc phục các vấn đề tài chính và cho thế giới thấy quyết tâm để giải quyết vấn đề“. Và nhân tiện, ông ấy cũng đã nói thêm: “Một số người ở châu Á sử dụng những thất bại đó để phá hoại lòng tin mà bạn bè của các ông vẫn còn tin vào các ông“. Tôi hoàn toàn đồng ý với ông ta.
Đây là một vấn đề rất lớn. Và điều này làm gia tăng nghi ngờ về sự
cam kết của chúng ta trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong khi nói về việc “chuyển hướng” sang châu Á là sai lầm,
nhưng ý kiến về việc chúng ta phải cân bằng lại chính sách đối ngoại
của Mỹ, chú trọng hơn nữa vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương thì hoàn
toàn đúng. Nhưng thách thức quan trọng mà chúng ta phải đối mặt đó là,
làm cách nào để cho nỗ lực tái cân bằng này có ý nghĩa, bởi vì vào lúc
này, giữa lúc chúng ta đang gặp khó khăn về các vấn đề chính trị và tài
chính, kết quả là chúng ta hứa hẹn quá nhiều, mà thực hiện thì quá ít
các cam kết mới của chúng ta ở Thái Bình Dương.
Khó có thể phóng đại tính nghiêm trọng về những sự lựa chọn đặt ra cho chúng ta hiện nay. Chúng ta phải đối mặt với các quyết định tức thời, sẽ định hướng cho sức mạnh của Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương – về mặt ngoại giao, kinh tế, và quân sự – trong nhiều thập niên tới. Chúng ta phải đi đúng hướng. Nếu đi sai đường, chúng ta sẽ bị vuột khỏi tiến trình và bị tụt lại phía sau. Tuy nhiên, nếu những quyết định lớn này được quyết định đúng, chúng ta có thể tạo ra các điều kiện bền vững để mở rộng sức mạnh của Mỹ, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Mỹ, và để bảo đảm lợi ích quốc gia của Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương.
Khó có thể phóng đại tính nghiêm trọng về những sự lựa chọn đặt ra cho chúng ta hiện nay. Chúng ta phải đối mặt với các quyết định tức thời, sẽ định hướng cho sức mạnh của Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương – về mặt ngoại giao, kinh tế, và quân sự – trong nhiều thập niên tới. Chúng ta phải đi đúng hướng. Nếu đi sai đường, chúng ta sẽ bị vuột khỏi tiến trình và bị tụt lại phía sau. Tuy nhiên, nếu những quyết định lớn này được quyết định đúng, chúng ta có thể tạo ra các điều kiện bền vững để mở rộng sức mạnh của Mỹ, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Mỹ, và để bảo đảm lợi ích quốc gia của Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương.
Cuối cùng, trong bối cảnh châu Á đang thay đổi, lợi ích của Mỹ ở
châu Á vẫn không có gì thay đổi. Chúng ta vẫn vươn tới các mục tiêu
tương tự như chúng ta vẫn luôn hướng tới, đó là khả năng phòng ngừa,
ngăn chặn, và nếu cần, đánh bại trong một cuộc xung đột, bảo vệ các
đồng minh của Mỹ, mở rộng tự do thương mại, thị trường tự do, tự do lưu
thông, và tự do trên vùng trời, vùng biển, không gian, và bây giờ là
không gian mạng. Và trên hết, duy trì sự cân bằng quyền lực để thúc đẩy
việc mở rộng nhân quyền, dân chủ, pháp luật, và các giá trị khác một
cách hòa bình, những giá trị mà chúng ta chia sẻ với những người dân
châu Á ngày càng tăng.
Một trong những quyết định lớn liên quan đến thương mại. Người ta thường nói rằng công việc của châu Á là kinh doanh, nhưng khi nói đến thương mại, thì Hoa Kỳ đứng bên lề, và châu Á đang tiến về phía trước mà không có chúng ta. Sau bốn năm, chính phủ này (ND: ý nói chính phủ Obama) vẫn chưa ký hay phê chuẩn một hiệp định thương mại tự do nào cho riêng mình. Mãi cho đến năm ngoái, họ mới thông qua Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với Hàn Quốc, Colombia và Panama mà chính phủ Bush đã đúc kết trước đó. Trong khi đó, từ năm 2003, chỉ riêng Trung Quốc đã ký chín hiệp định thương mại tự do với châu Á và châu Mỹ Latin. Họ đang đàm phán thêm năm hiệp định khác, và đang xem xét bốn hiệp định nữa.
Tất cả những lợi ích này không có
điểm nào chống lại bất kỳ nước nào khác, kể cả Trung Quốc. Trung Quốc
tiếp tục phát triển hòa bình đó là lợi ích của chúng ta. Chúng ta phản
đối khái niệm cho rằng Hoa Kỳ muốn kiềm chế Trung Quốc,
hoặc [cho rằng] chúng ta đang nhắm tới một cuộc chiến tranh lạnh mới ở
châu Á, nơi mà các nước buộc phải lựa chọn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Tóm lại, câu hỏi mà chúng ta cần phải trả lời là: chúng ta ở Hoa Kỳ,
có thể ra các quyết định chiến lược lớn ngay bây giờ, các quyết định
sẽ mang lại sự thành công cho chúng ta về lâu về dài ở châu Á?Một trong những quyết định lớn liên quan đến thương mại. Người ta thường nói rằng công việc của châu Á là kinh doanh, nhưng khi nói đến thương mại, thì Hoa Kỳ đứng bên lề, và châu Á đang tiến về phía trước mà không có chúng ta. Sau bốn năm, chính phủ này (ND: ý nói chính phủ Obama) vẫn chưa ký hay phê chuẩn một hiệp định thương mại tự do nào cho riêng mình. Mãi cho đến năm ngoái, họ mới thông qua Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với Hàn Quốc, Colombia và Panama mà chính phủ Bush đã đúc kết trước đó. Trong khi đó, từ năm 2003, chỉ riêng Trung Quốc đã ký chín hiệp định thương mại tự do với châu Á và châu Mỹ Latin. Họ đang đàm phán thêm năm hiệp định khác, và đang xem xét bốn hiệp định nữa.
Và không chỉ Trung Quốc. Trong tháng này, Thủ tướng Nhật Bản cũng đã
tuyên bố rằng ông muốn Nhật Bản bắt đầu đàm phán một khu vực thương
mại tự do với Trung Quốc và Hàn Quốc. Ấn Độ đang đàm phán một hiệp ước
thương mại tự do với Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không
hoàn thành hiệp ước đầu tư song phương hẹp với Ấn Độ, nói gì đến hiệp
ước thương mại tự do đầy đủ mà chúng ta nên có. Hồi năm ngoái, một báo
cáo cho thấy các nước châu Á đã ký hoặc đang thương lượng gần 300 hiệp
ước thương mại, không có hiệp ước nào trong số đó mà Mỹ đã tham gia.
Việc khởi động Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương đã làm cho hình
ảnh của chúng ta sáng sủa hơn một chút, nhưng để đi đến một thỏa thuận ,
có thể phải mất thêm nhiều năm nữa, nếu có điều đó xảy ra.
Thay vào đó, chúng ta nên đi tới một nghị trình thương mại song phương, bắt đầu với Ấn Độ và Đài Loan. Chúng ta cũng nên hành động tích cực hơn trong môi trường đa phương. Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương đã chia rẽ các nước ASEAN. Chúng ta, hoặc là đưa tất cả các nước ASEAN vào Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương, hoặc là thúc đẩy một hiệp ước tự do thương mại chính thức giữa Mỹ-ASEAN. Điểm mấu chốt là, thành công về kinh tế và chiến lược lâu dài của Mỹ đòi hỏi một chiến lược thương mại đầy tham vọng ở châu Á.
Thay vào đó, chúng ta nên đi tới một nghị trình thương mại song phương, bắt đầu với Ấn Độ và Đài Loan. Chúng ta cũng nên hành động tích cực hơn trong môi trường đa phương. Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương đã chia rẽ các nước ASEAN. Chúng ta, hoặc là đưa tất cả các nước ASEAN vào Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương, hoặc là thúc đẩy một hiệp ước tự do thương mại chính thức giữa Mỹ-ASEAN. Điểm mấu chốt là, thành công về kinh tế và chiến lược lâu dài của Mỹ đòi hỏi một chiến lược thương mại đầy tham vọng ở châu Á.
Một quyết định thứ hai có tác động
lớn đó là, việc bố trí lực lượng của chúng ta trong khu vực. Tất cả
chúng ta đều chia sẻ cùng mục tiêu: tăng cường quan hệ liên minh Mỹ –
Nhật, trong khi vẫn duy trì các cam kết chiến lược của chúng ta trong
khu vực châu Á – Thái Bình Dương, thông qua sự hiện diện mạnh mẽ của
các lực lượng quân sự triển khai về phía trước. Tuy nhiên, cũng như
nhiều người trong số quý vị, một số vị trong Ủy ban Quân vụ Thượng viện
đã chỉ trích kế hoạch trước đó là, tổ chức lại lực lượng Hoa Kỳ ở đảo
Okinawa và đảo Guam, kế hoạch này hoàn toàn không có khả năng chi tiêu.
Chỉ riêng kinh phí bố trí binh lính ở đảo Guam không thôi cũng đã tăng
gấp đôi trong bảy năm, lên tới hơn 20 tỷ đô la.
Cuộc khủng hoảng này thực sự là một cơ hội để chúng ta có một cái
nhìn rộng hơn về việc sắp xếp lại lực lượng trong khu vực. Một số nước
châu Á thể hiện sự quan tâm mới đối với sự luân chuyển lớn của lực
lượng Hoa Kỳ trong khu vực. Thỏa thuận gần đây là đưa 2.500 lính thủy quân lục chiến Mỹ tới Úc,
có thể xem như một mô hình cho các hoạt động tương tự ở những nơi
khác, chẳng hạn như Philippines. Cuối cùng, những điều này và những
phát triển mới khác đã tạo cơ hội để có được suy nghĩ sáng tạo và toàn
diện về việc sắp xếp lại lực lượng quân sự trong khu vực, việc sắp xếp
này bao gồm những thay đổi mới, trong v iệc tổ chức lại binh lính trên
đảo Okinawa và đảo Guam. Đó là lý do vì sao quốc hội nên có một điều
khoản trong Đạo luật Ủy nhiệm Quốc phòng hồi năm ngoái, cho một đánh
giá độc lập về những câu hỏi liên quan đến việc bố trí lực lượng này.
Vẫn chưa rõ tuyên bố chung gần đây
của Hội đồng Tư vấn An ninh Mỹ – Nhật sẽ phù hợp với yêu cầu đánh giá
sâu rộng hơn về việc bố trí lực lượng của chúng ta trong khu vực như
thế nào. Hiện tuyên bố chung đó đặt ra nhiều câu hỏi hơn là có được câu
trả lời – trong đó, các câu hỏi về ước tính chi phí, các yêu cầu hậu
cần, duy trì lực lượng, các kế hoạch lớn, và đề nghị này liên quan đến
khái niệm chiến lược rộng lớn hơn của các hoạt động trong khu vực như
thế nào. Chúng ta cần thực hiện đúng những quyết định quan trọng này.
Và đó là lý do tại sao, ngay cả khi chúng ta tìm thêm chi tiết trong
bản tuyên bố chung, quốc hội sẽ không có bất kỳ quyết định tài trợ lớn
nào cho đến khi chúng ta nhận được và đánh giá các đánh giá độc lập về
tình hình lực lượng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, theo quy
định của pháp luật.
Một quyết định tương tự và lớn hơn nhiều mà chúng ta cũng cần phải
quyết định đúng, đó là chi tiêu quốc phòng. Khu vực châu Á – Thái Bình
Dương chủ yếu là một đấu trường trên biển, nên khả năng phô trương sức
mạnh quân sự của chúng ta phần lớn phụ thuộc vào Hải quân Hoa Kỳ. Tuy
nhiên, Hải quân vẫn thiếu 313 tàu so với chỉ tiêu. Điều tệ hại hơn là
chính quyền hiện nay đề xuất loại bỏ 7 tàu tuần dương sớm hơn dự định,
loại bỏ 2 tàu vận chuyển loại lớn mà lực lượng Thủy quân Lục chiến cần,
và hoãn việc mua lại một chiếc tàu đổ bộ có boong lớn, một tàu ngầm
tấn công loại Virginia, 2 tàu chiến duyên hải, và tám tàu vận tải tốc
độ cao. Hiện chúng ta loại bỏ các con tàu nhanh hơn là chúng ta có thể
thay t hế chúng. Cắt giảm khả năng hải quân như thế mà không có một kế
hoạch bù lại, sẽ đặt mục tiêu của chúng ta ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương vào rủi ro lớn hơn.
Và tất cả những điều nói trên hiện đang đứng trước ảnh hưởng luật
mới. Việc cắt giảm ngân sách quốc phòng của chúng ta, nếu được thực
hiện theo quy định của luật mới này sẽ chẳng khác gì một hành động đơn
phương giải trừ quân bị, chắc chắn dẫn đến sự giảm sút thực sự về sức
mạnh quân sự của Mỹ. Một số vị trong quốc hội đã đưa ra đề nghị tránh
chuyện tự động cắt giảm ngân sách quốc phòng theo luật định, nhưng
chúng ta không có được độc quyền về những ý kiến hay (*). Chúng ta muốn
ngồi xuống với Tổng thống để cho ra một thỏa thuận lưỡng đảng, nhưng
tổng thống đã từ chối tham gia. Ông ấy không có đề nghị nào để ngăn
chuyện cắt giảm ngân sách quốc phòng mà Bộ trưởng Quốc phòng của � �ng gọi là những cắt giảm “chết người”.
Trừ khi tổng thống tham gia vào về vấn đề này, nếu không thì ông ấy sẽ
làm tổng thống trong thời kỳ các lực lượng vũ trang của chúng ta bị
thiếu hụt tồi tệ nhất trong giai đoạn lịch sử gần đây.
Ngoài sự hiện diện quân sự, chúng ta cần duy trì các phương diện ngoại giao ở châu Á. Và ở đây, chúng tôi có một câu chuyện hay hơn để kể – cám ơn ngoại trưởng của chúng ta rất nhiều, bà đang làm cho chính sách ngoại giao của Mỹ hiện diện trong khu vực và ảnh hưởng hơn bao giờ hết. Điều đó nói rằng, chúng ta hiện phải đối mặt với những thử thách lớn, những thử thách này báo hiệu cho biết Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò gì ở châu Á, cũng như chúng ta liên quan đến những thách thức của châu Á như thế nào.
Ngoài sự hiện diện quân sự, chúng ta cần duy trì các phương diện ngoại giao ở châu Á. Và ở đây, chúng tôi có một câu chuyện hay hơn để kể – cám ơn ngoại trưởng của chúng ta rất nhiều, bà đang làm cho chính sách ngoại giao của Mỹ hiện diện trong khu vực và ảnh hưởng hơn bao giờ hết. Điều đó nói rằng, chúng ta hiện phải đối mặt với những thử thách lớn, những thử thách này báo hiệu cho biết Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò gì ở châu Á, cũng như chúng ta liên quan đến những thách thức của châu Á như thế nào.
Một
trong những thử thách đó là biển Đông. Hoa Kỳ không có yêu sách trong
vụ tranh chấp này, và chúng ta không nên đứng về phía bên nào trong các
nước tranh chấp. Tuy nhiên, việc tranh chấp này đi vào trọng tâm lợi
ích của Mỹ ở châu Á – không chỉ vì các thương vụ trị giá 1.200 tỷ của
Mỹ đi ngang qua biển Đông mỗi năm, và cũng không phải vì Philippines,
một trong các nước tranh chấp, là đồng minh của Mỹ, mà là vì rất quan
trọng để một châu Á đang trỗi dậy tránh được những mãng tối của chính
sách thực dụng, nơi mà những nước mạnh muốn làm gì thì làm và những
nước yếu hơn thì phải chịu đựng. Cuối cùng, vụ tranh chấp này không chỉ
giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, mà là mối quan hệ của Trung Quốc với các
nước láng giềng. N hưng chúng ta phải hỗ trợ các đối tác ASEAN của
chúng ta – khi họ yêu cầu – để họ có thể nhận ra mục đích của họ về
việc cho ra một mặt trận thống nhất và giải quyết những sự khác biệt
của họ một cách hoà bình, trên cơ sở đa phương.
Một thách thức lớn cho ngoại giao Mỹ là Miến Điện. Tôi đã đi đến Miến Điện hai lần trong năm qua.
Chắc chắn là họ vẫn còn một chặng đường dài để đi tới, đặc biệt trong
việc ngăn chặn bạo lực và theo đuổi tiến trình hòa giải thật sự với
cộng đồng các dân tộc thiểu số của đất nước. Nhưng tôi tin là tổng
thống Miến Điện và các đồng minh của ông trong chính phủ chân thành
trong cải cách, và họ đang tiến bộ thực sự.
Trong năm qua, tôi đã nói rằng các hành động cụ thể của chính phủ Miến Điện đối với cải cách dân chủ và kinh tế, cần được đáp lại bằng các hành động đối ứng của Hoa Kỳ để có thể giúp gia tăng những cải cách này, mang lại lợi ích cho những người Miến Điện bình thường, và cải thiện mối quan hệ của chúng ta. Cuộc bầu cử mới đây đã đưa bà Aung San Suu Kyi và Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ vào quốc hội, tôi nghĩ rằng bây giờ đã đến lúc nên ngưng các biện pháp trừng phạt của Mỹ, ngoại trừ lệnh cấm vận vũ khí và các biện pháp mà chúng ta duy trì, nhằm chống lại các cá nhân và các tổ chức ở Miến Điện phá hoại nền dân chủ, vi phạm nhân quyền, và cướp bóc tài nguyên của quốc gia. Đây không phải là dỡ bỏ lệnh trừng phạt, mà chỉ tạm dừng. Và bước này cũng như bất kỳ sự nới lỏng các biện pháp trừng phạt, sẽ tùy thuộc vào sự tiến bộ và cải cách liên tục ở Miến Điện.
Trong năm qua, tôi đã nói rằng các hành động cụ thể của chính phủ Miến Điện đối với cải cách dân chủ và kinh tế, cần được đáp lại bằng các hành động đối ứng của Hoa Kỳ để có thể giúp gia tăng những cải cách này, mang lại lợi ích cho những người Miến Điện bình thường, và cải thiện mối quan hệ của chúng ta. Cuộc bầu cử mới đây đã đưa bà Aung San Suu Kyi và Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ vào quốc hội, tôi nghĩ rằng bây giờ đã đến lúc nên ngưng các biện pháp trừng phạt của Mỹ, ngoại trừ lệnh cấm vận vũ khí và các biện pháp mà chúng ta duy trì, nhằm chống lại các cá nhân và các tổ chức ở Miến Điện phá hoại nền dân chủ, vi phạm nhân quyền, và cướp bóc tài nguyên của quốc gia. Đây không phải là dỡ bỏ lệnh trừng phạt, mà chỉ tạm dừng. Và bước này cũng như bất kỳ sự nới lỏng các biện pháp trừng phạt, sẽ tùy thuộc vào sự tiến bộ và cải cách liên tục ở Miến Điện.
Chúng ta cũng phải thiết lập các
chuẩn mực mang tính nguyên tắc, và cả ràng buộc về trách nhiệm cho các
hoạt động kinh doanh của Mỹ ở Miến Điện. Bà Aung San Suu Kyi đã nêu ra
những điều phân biệt giữa các loại đầu tư đúng và sai. Đầu tư đúng đắn
sẽ đẩy mạnh khu vực kinh tế tư nhân ở Miến Điện, mang lại lợi ích cho
người dân Miến, và cuối cùng là nới lỏng sự kiểm soát của quân đội đối
với nền kinh tế và chính phủ dân sự. Đầu tư sai lầm thì sẽ đi ngược
lại, tạo ra một tập đoàn chính trị mới và đẩy lùi sự phát triển của
Miến Điện trong nhiều thập kỷ. Vì lý do đó, tôi tin rằng vào lúc này
các công ty Mỹ không nên được cấp giấp phép làm ăn với các công ty
chính phủ Miến Điện, hiện vẫn còn do quân đội điều hành.
Cách doanh nghiệp Hoa Kỳ sẽ không bao giờ thắng trong một cuộc đua
ngược dòng với một số đối thủ cạnh tranh ở châu Á, và ngay cả châu Âu.
Không nên cố đua như vậy. Thay vào đó, họ nên hợp tác với bà Aung San
Suu Kyi và người dân Miến Điện, những người muốn sự đầu tư có trách
nhiệm, tiêu chuẩn lao động và môi trường cao, và ủng hộ nhân quyền và
chủ quyền quốc gia, được xác định làm ăn với người Mỹ là tốt nhất. Mục
tiêu của chúng ta là thiết lập các tiêu chuẩn toàn cầu về trách nhiệm
xã hội cho các tập đoàn công ty ở Miến Điện, một tiêu chuẩn mà chúng ta,
cũng như bà Aung San Suu Kyi, có thể dùng để áp lực lên những công ty
khác làm theo chúng ta, và điều đó có thể trở thành cơ sở cho luật pháp
mới Miến Điện.
Những thách thức này chắc chắn là lớn, và nó đòi hỏi tất cả chúng ta
phải đặt những tranh cãi chính trị và ghi điểm sang một bên, để thúc
đẩy một số lợi ích an ninh quốc gia quan trọng nhất của chúng ta. Tôi
tin tưởng rằng chúng ta có thể ngồi lại với nhau và làm điều này. Tôi
tin rằng các tiên đoán về suy sụp của Mỹ một lần nữa được chứng minh là
sai. Và tôi sẽ cho quý vị biết lý do tại sao – bởi vì ngay cả khi
chúng ta làm việc để giữ vững sức mạnh của Mỹ, nhu cầu về sức mạnh quân
sự của Mỹ ở châu Á chưa bao giờ lớn hơn như bây giờ.
Ví dụ, trong chuyến đi thăm Miến Điện vừa rồi, tôi đã gặp tổng thống Miến. Hầu hết các thành viên trong nội các của ông cũng có mặt ở đó, và sau cuộc họp, tôi bước tới bắt tay họ. Khi tôi đi xuống, một người trong số họ đã nói: “Fort Leavenworth, 1982″. Rồi một người khác nói: “Fort Benning, 1987″. Và cứ tiếp tục như thế. Tôi nhận ra rằng: nhiều người trong số những người này là các cựu sĩ quan quân đội, những người đã tham gia vào các chương trình trao đổi quân sự của chúng ta, trước khi chúng ta cắt đứt quan hệ với quân đội Miến Điện. Ngay cả sau một thời gian như thế, đã trải qua giai đoạn lịch sử sóng gió như thế, nhưng họ vẫn nhớ đến Mỹ một cách trìu mến, và họ muốn được gần gũi hơn với Mỹ.
Ví dụ, trong chuyến đi thăm Miến Điện vừa rồi, tôi đã gặp tổng thống Miến. Hầu hết các thành viên trong nội các của ông cũng có mặt ở đó, và sau cuộc họp, tôi bước tới bắt tay họ. Khi tôi đi xuống, một người trong số họ đã nói: “Fort Leavenworth, 1982″. Rồi một người khác nói: “Fort Benning, 1987″. Và cứ tiếp tục như thế. Tôi nhận ra rằng: nhiều người trong số những người này là các cựu sĩ quan quân đội, những người đã tham gia vào các chương trình trao đổi quân sự của chúng ta, trước khi chúng ta cắt đứt quan hệ với quân đội Miến Điện. Ngay cả sau một thời gian như thế, đã trải qua giai đoạn lịch sử sóng gió như thế, nhưng họ vẫn nhớ đến Mỹ một cách trìu mến, và họ muốn được gần gũi hơn với Mỹ.
Một ví dụ khác: Vì sao các nhà bất đồng chính kiến và người xin tị nạn ở Trung Quốc lại chạy vào Đại Sứ quán Mỹ,
khi sự an toàn của họ bị đe dọa? Họ không chạy vào Đại Sứ quán Nga,
hay Đại Sứ quán Nam Phi, hay thậm chí các đại sứ quán châu Âu. Vì sao
vậy? Bởi vì chúng ta mạnh? Chắc chắn, nhưng các nước khác cũng là những
cường quốc. Phải chăng vì chúng ta là một nước dân chủ, bênh vực cho
các quyền bình đẳng và nhân phẩm của tất cả mọi người? Chắc chắn là như
thế, nhưng các giá trị này là không phải chỉ có mỗi chúng ta có.
Vậy thì vì lý do gì?
Tóm lại, đó là vì chúng ta ràng buộc sức mạnh vĩ đại và các giá trị
dân chủ của chúng ta lại với nhau, và chúng ta hành động dựa trên cơ sở
này. Đó là vì, trong cộng đồng các quốc gia, thì nước Mỹ vẫn là nước
độc nhất – một nước đặc biệt – một cường quốc dân chủ, sử dụng ảnh
hưởng chưa từng có không chỉ để nâng cao lợi ích hẹp hòi của mình, mà
còn đẩy mạnh một loạt các giá trị siêu việt. Trên hết, đây là lý do vì
sao rất nhiều nước ở châu Á và ở những nơi khác bị chúng ta hấp dẫn –
bởi vì chúng ta đem sức mạnh của chúng ta vào phục vụ cho những nguyên
tắc của chúng ta. Đó là lý do tại sao, trong các chuyến đi của tôi đến
châu Á, tôi đã gặp hết người này đến người, hết lãnh đạo này đ ến lãnh
đạo khác, những người muốn chọn Mỹ làm đối tác. Họ không muốn ít mà họ
muốn nhiều hơn nữa từ Mỹ – thương mại nhiều hơn, hỗ trợ ngoại giao của
chúng ta nhiều hơn, và hỗ trợ quân sự và hợp tác của chúng ta nhiều
hơn.
Nguồn: The Diplomat/ Basam
Và vào lúc mà hầu hết người Mỹ nói
rằng, họ đang mất niềm tin vào chính phủ của chúng ta, chúng ta nên
nhớ rằng, có hàng triệu người trên thế giới, đặc biệt ở khu vực châu
Á-Thái Bình Dương, những người này vẫn còn tin tưởng vào Hoa Kỳ, và họ
vẫn muốn sống trong một thế giới được định hình bởi sức mạnh của Mỹ,
các giá trị Mỹ, và sự lãnh đạo của Mỹ. Với rất nhiều người đang trông
cậy vào chúng ta – và không có cách nào để loại chúng ta ra ngoài – ít
nhất chúng ta có thể làm là nỗ lực hơn nữa để xứng đáng với sự kỳ vọng
mà họ đặt vào chúng ta.
———-
Ghi chú:
Để hiểu đoạn này, cần hiểu bối cảnh cắt giảm ngân sách ở Mỹ. Đề nghị
đưa ra là sẽ cắt 1.200 tỉ trong 10 năm tới. Trong khi Đảng Cộng hòa
muốn cắt ngân sách liên quan đến các chương trình xã hội (non-security
programs), thì Đảng Dân chủ muốn cắt ngân sách liên quan đến các chương
trình an ninh (security programs), như ngân sách quốc phòng. Cả hai
đảng không thể đi đến một thỏa thuận, nên theo luật mới ra cách đây
không lâu là sẽ tự động cắt, nghĩa là sẽ chia đều ra, mỗi bên bị cắt
phân nửa, non-security programs: 600 tỉ và security programs: 600 tỉ,
trong đó, ngân sách quốc phòng có thể bị cắt 500 tỉ.
Ông John McCain thuộc Đảng Cộng hòa và đã từng là một sĩ quan
hải quân, dĩ nhiên là ông phản đối việc cắt giảm ngân sách quốc phòng.
Ông nói: “Một số vị trong quốc hội đã đưa ra đề nghị tránh chuyện tự
động cắt giảm ngân sách quốc phòng theo luật định, nhưng chúng ta không
có được độc quyền về những ý kiến hay”. Câu này có nghĩa là, ông cho
chuyện không ủng hộ cắt giảm ngân sách quốc phòng của những người trong
quốc hội là ý kiến hay, bởi vì đó cũng là ý kiến của ông.Nguồn: The Diplomat/ Basam
0 comments:
Post a Comment