Sunday, May 27, 2012

Vì sao châu Á cần Mỹ?

 
Tác giả: Ông John McCain là Thượng nghị sĩ cao cấp của Mỹ từ bang Arizona và là thành viên cao cấp của Ủy ban Quân vụ Thượng viện. Bài viết này dựa trên bài phát biểu của ông tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế ở Washington, DC trong tháng này.
Thượng nghị  sĩ John McCain nói rằng Hoa Kỳ vẫn là đối tác được nhiều nước châu Á lựa  chọn. Nhưng Washington cần phải đặt chuyện tranh cãi chính trị của mình  sang một bên.
Trong tháng này, tôi đã gặp một phái đoàn doanh nghiệp đến từ Malaysia, một người trong số họ đã nói với tôi rằng: “Thượng  nghị sĩ McCain, khi chúng tôi nhìn vào nước Mỹ hiện giờ, dường như các  ông hoàn toàn bị rối loạn. Hệ thống chính trị của các ông dường như  không có khả năng đưa ra các quyết định cơ bản để khắc phục các vấn đề  tài chính và cho thế giới thấy quyết tâm để giải quyết vấn đề“. Và nhân tiện, ông ấy cũng đã nói thêm: “Một số người ở châu Á sử dụng những thất bại đó để phá hoại lòng tin mà bạn bè của các ông vẫn còn tin vào các ông“. Tôi hoàn toàn đồng ý với ông ta.
Đây là một vấn đề rất lớn. Và điều  này làm gia tăng nghi ngờ về sự cam kết của chúng ta trong khu vực châu  Á – Thái Bình Dương. Trong khi nói về việc “chuyển hướng” sang châu Á là sai lầm,  nhưng ý kiến về việc chúng ta phải cân bằng lại chính sách đối ngoại  của Mỹ, chú trọng hơn nữa vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương thì hoàn  toàn đúng. Nhưng thách thức quan trọng mà chúng ta phải đối mặt đó là,  làm cách nào để cho nỗ lực tái cân bằng này có ý nghĩa, bởi vì vào lúc  này, giữa lúc chúng ta đang gặp khó khăn về các vấn đề chính trị và tài  chính, kết quả là chúng ta hứa hẹn quá nhiều, mà thực hiện thì quá ít  các cam kết mới của chúng  ta ở Thái Bình Dương.
Khó có thể phóng đại tính nghiêm  trọng về những sự lựa chọn đặt ra cho chúng ta hiện nay. Chúng ta phải  đối mặt với các quyết định tức thời, sẽ định hướng cho sức mạnh của Mỹ  trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương – về mặt ngoại giao, kinh tế, và  quân sự – trong nhiều thập niên tới. Chúng ta phải đi đúng hướng. Nếu đi  sai đường, chúng ta sẽ bị vuột khỏi tiến trình và bị tụt lại phía sau.  Tuy nhiên, nếu những quyết định lớn này được quyết định đúng, chúng ta  có thể tạo ra các điều kiện bền vững để mở rộng sức mạnh của Mỹ, nhằm  tăng cường sự lãnh đạo của Mỹ, và để bảo đảm lợi ích quốc gia của Mỹ  trong khu vực Thái Bình Dương.
Cuối cùng, trong bối cảnh châu Á  đang thay đổi, lợi ích của Mỹ ở châu Á vẫn không có gì thay đổi. Chúng  ta vẫn vươn tới các mục tiêu tương tự như chúng ta vẫn luôn hướng tới,  đó là khả năng phòng ngừa, ngăn chặn, và nếu cần, đánh bại trong một  cuộc xung đột, bảo vệ các đồng minh của Mỹ, mở rộng tự do thương mại,  thị trường tự do, tự do lưu thông, và tự do trên vùng trời, vùng biển,  không gian, và bây giờ là không gian mạng. Và trên hết, duy trì sự cân  bằng quyền lực để thúc đẩy việc mở rộng nhân quyền, dân chủ, pháp luật,  và các giá trị khác một cách hòa bình, những giá trị mà chúng ta chia sẻ  với những người dân châu Á ngày càng tăng.
Tất cả những lợi ích này không có  điểm nào chống lại bất kỳ nước nào khác, kể cả Trung Quốc. Trung Quốc  tiếp tục phát triển hòa bình đó là lợi ích của chúng ta. Chúng ta phản  đối khái niệm cho rằng Hoa Kỳ muốn kiềm chế Trung Quốc,  hoặc [cho rằng] chúng ta đang nhắm tới một cuộc chiến tranh lạnh mới ở  châu Á, nơi mà các nước buộc phải lựa chọn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Tóm lại, câu hỏi mà chúng ta cần  phải trả lời là: chúng ta ở Hoa Kỳ, có thể ra các quyết định chiến lược  lớn ngay bây giờ, các quyết định sẽ mang lại sự thành công cho chúng ta  về lâu về dài ở châu Á?
Một trong những quyết định lớn  liên quan đến thương mại. Người ta thường nói rằng công việc của châu Á  là kinh doanh, nhưng khi nói đến thương mại, thì Hoa Kỳ đứng bên lề, và  châu Á đang tiến về phía trước mà không có chúng ta. Sau bốn năm, chính  phủ này (ND: ý nói chính phủ Obama) vẫn chưa ký hay phê chuẩn một hiệp  định thương mại tự do nào cho riêng mình. Mãi cho đến năm ngoái, họ mới  thông qua Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với Hàn Quốc,  Colombia và Panama mà chính phủ Bush đã đúc kết trước đó. Trong khi đó,  từ năm 2003, chỉ riêng Trung Quốc đã ký chín hiệp định thương mại tự do  với châu Á và châu Mỹ Latin. Họ đang đàm phán thêm năm hiệp định khác,  và đang xem xét bốn hiệp định nữa.
Và không chỉ Trung Quốc. Trong  tháng này, Thủ tướng Nhật Bản cũng đã tuyên bố rằng ông muốn Nhật Bản  bắt đầu đàm phán một khu vực thương mại tự do với Trung Quốc và Hàn  Quốc. Ấn Độ đang đàm phán một hiệp ước thương mại tự do với Liên minh  châu Âu. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không hoàn thành hiệp ước đầu tư song  phương hẹp với Ấn Độ, nói gì đến hiệp ước thương mại tự do đầy đủ mà  chúng ta nên có. Hồi năm ngoái, một báo cáo cho thấy các nước châu Á đã  ký hoặc đang thương lượng gần 300 hiệp ước thương mại, không có hiệp ước  nào trong số đó mà Mỹ đã tham gia. Việc khởi động Hiệp ước Đối tác  xuyên Thái Bình Dương đã làm cho hình ảnh của chúng ta sáng sủa hơn một  chút, nhưng để đi đến một thỏa thuận , có thể phải mất thêm nhiều năm  nữa, nếu có điều đó xảy ra.
Thay vào đó, chúng ta nên đi tới  một nghị trình thương mại song phương, bắt đầu với Ấn Độ và Đài Loan.  Chúng ta cũng nên hành động tích cực hơn trong môi trường đa phương.  Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương đã chia rẽ các nước ASEAN. Chúng  ta, hoặc là đưa tất cả các nước ASEAN vào Quan hệ Đối tác xuyên Thái  Bình Dương, hoặc là thúc đẩy một hiệp ước tự do thương mại chính thức  giữa Mỹ-ASEAN. Điểm mấu chốt là, thành công về  kinh tế và chiến lược  lâu dài của Mỹ đòi hỏi một chiến lược thương mại đầy tham vọng ở châu Á.
Một quyết định thứ hai có tác động  lớn đó là, việc bố trí lực lượng của chúng ta trong khu vực. Tất cả  chúng ta đều chia sẻ cùng mục tiêu: tăng cường quan hệ liên minh Mỹ –  Nhật, trong khi vẫn duy trì các cam kết chiến lược của chúng ta trong  khu vực châu Á – Thái Bình Dương, thông qua sự hiện diện mạnh mẽ của các  lực lượng quân sự triển khai về phía trước. Tuy nhiên, cũng như nhiều  người trong số quý vị, một số vị trong Ủy ban Quân vụ Thượng viện đã chỉ  trích kế hoạch trước đó là, tổ chức lại lực lượng Hoa Kỳ ở đảo Okinawa  và đảo Guam, kế hoạch này hoàn toàn không có khả năng chi tiêu. Chỉ  riêng kinh phí bố trí binh lính ở đảo Guam không thôi cũng đã tăng gấp  đôi trong bảy năm, lên tới hơn 20 tỷ đô la.
Cuộc khủng hoảng này thực sự là  một cơ hội để chúng ta có một cái nhìn rộng hơn về việc sắp xếp lại lực  lượng trong khu vực. Một số nước châu Á thể hiện sự quan tâm mới đối với  sự luân chuyển lớn của lực lượng Hoa Kỳ trong khu vực. Thỏa thuận gần đây là đưa 2.500 lính thủy quân lục chiến Mỹ tới Úc,  có thể xem như một mô hình cho các hoạt động tương tự ở những nơi khác,  chẳng hạn như Philippines. Cuối cùng, những điều này và những phát  triển mới khác đã tạo cơ hội để có được suy nghĩ sáng tạo và toàn diện  về việc sắp xếp lại lực lượng quân sự trong khu vực, việc sắp xếp này  bao gồm những thay đổi mới, trong v iệc tổ chức lại binh lính trên đảo  Okinawa và đảo Guam. Đó là lý do vì sao quốc hội nên có một điều khoản  trong Đạo luật Ủy nhiệm Quốc phòng hồi năm ngoái, cho một đánh giá độc  lập về những câu hỏi liên quan đến việc bố trí lực lượng này.
Vẫn chưa rõ tuyên bố chung gần đây  của Hội đồng Tư vấn An ninh Mỹ – Nhật sẽ phù hợp với yêu cầu đánh giá  sâu rộng hơn về việc bố trí lực lượng của chúng ta trong khu vực như thế  nào. Hiện tuyên bố chung đó đặt ra nhiều câu hỏi hơn là có được câu trả  lời – trong đó, các câu hỏi về ước tính chi phí, các yêu cầu hậu cần,  duy trì lực lượng, các kế hoạch lớn, và đề nghị này liên quan đến khái  niệm chiến lược rộng lớn hơn của các hoạt động trong khu vực như thế  nào. Chúng ta cần thực hiện đúng những quyết định quan trọng này. Và đó  là lý do tại sao, ngay cả khi chúng ta tìm thêm chi tiết trong bản tuyên  bố chung, quốc hội sẽ không có bất kỳ quyết định tài trợ lớn nào cho  đến khi chúng ta nhận được và  đánh giá các đánh giá độc lập về tình hình  lực lượng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, theo quy định của pháp  luật.
Một quyết định tương tự và lớn hơn  nhiều mà chúng ta cũng cần phải quyết định đúng, đó là chi tiêu quốc  phòng. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương chủ yếu là một đấu trường trên  biển, nên khả năng phô trương sức mạnh quân sự của chúng ta phần lớn phụ  thuộc vào Hải quân Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Hải quân vẫn thiếu 313 tàu so với  chỉ tiêu. Điều tệ hại hơn là chính quyền hiện nay đề xuất loại bỏ 7 tàu  tuần dương sớm hơn dự định, loại bỏ 2 tàu vận chuyển loại lớn mà lực  lượng Thủy quân Lục chiến cần, và hoãn việc mua lại một chiếc tàu đổ bộ  có boong lớn, một tàu ngầm tấn công loại Virginia, 2 tàu chiến duyên  hải, và tám tàu vận tải tốc độ cao. Hiện chúng ta loại bỏ các con tàu  nhanh hơn là chúng ta có thể thay t hế chúng. Cắt giảm khả năng hải quân  như thế mà không có một kế hoạch bù lại, sẽ đặt mục tiêu của chúng ta ở  khu vực châu Á-Thái Bình Dương vào rủi ro lớn hơn.
Và tất cả những điều nói trên hiện  đang đứng trước ảnh hưởng luật mới. Việc cắt giảm ngân sách quốc phòng  của chúng ta, nếu được thực hiện theo quy định của luật mới này sẽ chẳng  khác gì một hành động đơn phương giải trừ quân bị, chắc chắn dẫn đến sự  giảm sút thực sự về sức mạnh quân sự của Mỹ. Một số vị trong quốc hội  đã đưa ra đề nghị tránh chuyện tự động cắt giảm ngân sách quốc phòng  theo luật định, nhưng chúng ta không có được độc quyền về những ý kiến  hay (*). Chúng ta muốn ngồi xuống với Tổng thống để cho ra một thỏa  thuận lưỡng đảng, nhưng tổng thống đã từ chối tham gia. Ông ấy không có  đề nghị nào để ngăn chuyện cắt giảm ngân sách quốc phòng mà Bộ trưởng  Quốc phòng của � �ng gọi là những cắt giảm “chết người”.  Trừ khi tổng thống tham gia vào về vấn đề này, nếu không thì ông ấy sẽ  làm tổng thống trong thời kỳ các lực lượng vũ trang của chúng ta bị  thiếu hụt tồi tệ nhất trong giai đoạn lịch sử gần đây.
Ngoài sự hiện diện quân sự, chúng  ta cần duy trì các phương diện ngoại giao ở châu Á. Và ở đây, chúng tôi  có một câu chuyện hay hơn để kể – cám ơn ngoại trưởng của chúng ta rất  nhiều, bà đang làm cho chính sách ngoại giao của Mỹ hiện diện trong khu  vực và ảnh hưởng hơn bao giờ hết. Điều đó nói rằng, chúng ta hiện phải  đối mặt với những thử thách lớn, những thử thách này báo hiệu cho biết  Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò gì ở châu Á, cũng như chúng ta liên quan đến  những thách thức của châu Á như thế nào.
Một trong những thử thách đó là  biển Đông. Hoa Kỳ không có yêu sách trong vụ tranh chấp này, và chúng ta  không nên đứng về phía bên nào trong các nước tranh chấp. Tuy nhiên,  việc tranh chấp này đi vào trọng tâm lợi ích của Mỹ ở châu Á – không chỉ  vì các thương vụ trị giá 1.200 tỷ của Mỹ đi ngang qua biển Đông mỗi  năm, và cũng không phải vì Philippines, một trong các nước tranh chấp,  là đồng minh của Mỹ, mà là vì rất quan trọng để một châu Á đang trỗi dậy  tránh được những mãng tối của chính sách thực dụng, nơi mà những nước  mạnh muốn làm gì thì làm và những nước yếu hơn thì phải chịu đựng. Cuối  cùng, vụ tranh chấp này không chỉ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, mà là mối  quan hệ của Trung Quốc với các nước láng giềng. N hưng chúng ta phải hỗ  trợ các đối tác ASEAN của chúng ta – khi họ yêu cầu – để họ có thể nhận  ra mục đích của họ về việc cho ra một mặt trận thống nhất và giải quyết  những sự khác biệt của họ một cách hoà bình, trên cơ sở đa phương.
Một thách thức lớn cho ngoại giao Mỹ là Miến Điện. Tôi đã đi đến Miến Điện hai lần trong năm qua.  Chắc chắn là họ vẫn còn một chặng đường dài để đi tới, đặc biệt trong  việc ngăn chặn bạo lực và theo đuổi tiến trình hòa giải thật sự với cộng  đồng các dân tộc thiểu số của đất nước. Nhưng tôi tin là tổng thống  Miến Điện và các đồng minh của ông trong chính phủ chân thành trong cải  cách, và họ đang tiến bộ thực sự.
Trong năm qua, tôi đã nói rằng các hành động cụ thể của chính phủ Miến Điện đối với cải cách dân chủ và kinh tế,  cần được đáp lại bằng các hành động đối ứng của Hoa Kỳ để có thể giúp  gia tăng những cải cách này, mang lại lợi ích cho những người Miến Điện  bình thường, và cải thiện mối quan hệ của chúng ta. Cuộc bầu cử mới đây  đã đưa bà Aung San Suu Kyi và Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ vào quốc  hội, tôi nghĩ rằng bây giờ đã đến lúc nên ngưng các biện pháp trừng phạt  của Mỹ, ngoại trừ lệnh cấm vận vũ khí và các biện pháp mà chúng ta duy  trì, nhằm chống lại các cá nhân và các tổ chức ở Miến Điện phá hoại  nền  dân chủ, vi phạm nhân quyền, và cướp bóc tài nguyên của quốc gia. Đây  không phải là dỡ bỏ lệnh trừng phạt, mà chỉ tạm dừng. Và bước này cũng  như bất kỳ sự nới lỏng các biện pháp trừng phạt, sẽ tùy thuộc vào sự  tiến bộ và cải cách liên tục ở Miến Điện.
Chúng ta cũng phải thiết lập các  chuẩn mực mang tính nguyên tắc, và cả ràng buộc về trách nhiệm cho các  hoạt động kinh doanh của Mỹ ở Miến Điện. Bà Aung San Suu Kyi đã nêu ra  những điều phân biệt giữa các loại đầu tư đúng và sai. Đầu tư đúng đắn  sẽ đẩy mạnh khu vực kinh tế tư nhân ở Miến Điện, mang lại lợi ích cho  người dân Miến, và cuối cùng là nới lỏng sự kiểm soát của quân đội đối  với nền kinh tế và chính phủ dân sự. Đầu tư sai lầm thì sẽ đi ngược lại,  tạo ra một tập đoàn chính trị mới và đẩy lùi sự phát triển của Miến  Điện trong nhiều thập kỷ. Vì lý do đó, tôi tin rằng vào lúc này các công  ty Mỹ không nên được cấp giấp phép làm ăn với các công ty chính phủ  Miến Điện, hiện vẫn còn do quân  đội điều hành.
Cách doanh nghiệp Hoa Kỳ sẽ không  bao giờ thắng trong một cuộc đua ngược dòng với một số đối thủ cạnh  tranh ở châu Á, và ngay cả châu Âu. Không nên cố đua như vậy. Thay vào  đó, họ nên hợp tác với bà Aung San Suu Kyi và người dân Miến Điện, những  người muốn sự đầu tư có trách nhiệm, tiêu chuẩn lao động và môi trường  cao, và ủng hộ nhân quyền và chủ quyền quốc gia, được xác định làm ăn  với người Mỹ là tốt nhất. Mục tiêu của chúng ta là thiết lập các tiêu  chuẩn toàn cầu về trách nhiệm xã hội cho các tập đoàn công ty ở Miến Điện, một tiêu chuẩn mà chúng ta, cũng như bà Aung San Suu Kyi, có thể  dùng để áp lực lên những công ty khác làm theo chúng ta, và điều đó có  thể trở thành cơ sở cho luật pháp mới Miến Điện.
Những thách thức này chắc chắn là  lớn, và nó đòi hỏi tất cả chúng ta phải đặt những tranh cãi chính trị và  ghi điểm sang một bên, để thúc đẩy một số lợi ích an ninh quốc gia quan  trọng nhất của chúng ta. Tôi tin tưởng rằng chúng ta có thể ngồi lại  với nhau và làm điều này. Tôi tin rằng các tiên đoán về suy sụp của Mỹ  một lần nữa được chứng minh là sai. Và tôi sẽ cho quý vị biết lý do tại  sao – bởi vì ngay cả khi chúng ta làm việc để giữ vững sức mạnh của Mỹ,  nhu cầu về sức mạnh quân sự của Mỹ ở châu Á chưa bao giờ lớn hơn như bây  giờ.
Ví dụ, trong chuyến đi thăm Miến  Điện vừa rồi, tôi đã gặp tổng thống Miến. Hầu hết các thành viên trong  nội các của ông cũng có mặt ở đó, và sau cuộc họp, tôi bước tới bắt tay  họ. Khi tôi đi xuống, một người trong số họ đã nói: “Fort Leavenworth,  1982″. Rồi một người khác nói: “Fort Benning, 1987″. Và cứ tiếp tục như  thế. Tôi nhận ra rằng: nhiều người trong số những người này là các cựu  sĩ quan quân đội, những người đã tham gia vào các chương trình trao đổi  quân sự của chúng ta, trước khi chúng ta cắt đứt quan hệ với quân đội  Miến Điện. Ngay cả sau một thời gian như thế, đã trải qua giai đoạn lịch  sử sóng gió như thế, nhưng họ vẫn nhớ đến Mỹ một cách trìu mến, và họ  muốn được gần gũi hơn với Mỹ.
Một ví dụ khác: Vì sao các nhà bất đồng chính kiến và người xin tị nạn ở Trung Quốc lại chạy vào Đại Sứ quán Mỹ,  khi sự an toàn của họ bị đe dọa? Họ không chạy vào Đại Sứ quán Nga, hay  Đại Sứ quán Nam Phi, hay thậm chí các đại sứ quán châu Âu. Vì sao vậy?  Bởi vì chúng ta mạnh? Chắc chắn, nhưng các nước khác cũng là những cường  quốc. Phải chăng vì chúng ta là một nước dân chủ, bênh vực cho các  quyền bình đẳng và nhân phẩm của tất cả mọi người? Chắc chắn là như thế,  nhưng các giá trị này là không phải chỉ có mỗi chúng ta có.
Vậy thì vì lý do gì?
Tóm lại, đó là vì chúng ta ràng  buộc sức mạnh vĩ đại và các giá trị dân chủ của chúng ta lại với nhau,  và chúng ta hành động dựa trên cơ sở này. Đó là vì, trong cộng đồng các  quốc gia, thì nước Mỹ vẫn là nước độc nhất – một nước đặc biệt – một  cường quốc dân chủ, sử dụng ảnh hưởng chưa từng có không chỉ để nâng cao  lợi ích hẹp hòi của mình, mà còn đẩy mạnh một loạt các giá trị siêu  việt. Trên hết, đây là lý do vì sao rất nhiều nước ở châu Á và ở những  nơi khác bị chúng ta hấp dẫn – bởi vì chúng ta đem sức mạnh của chúng ta  vào phục vụ cho những nguyên tắc của chúng ta. Đó là lý do tại sao,  trong các chuyến đi của tôi đến châu Á, tôi đã gặp hết người này đến  người, hết lãnh đạo này đ ến lãnh đạo khác, những người muốn chọn Mỹ làm  đối tác. Họ không muốn ít mà họ muốn nhiều hơn nữa từ Mỹ – thương mại  nhiều hơn, hỗ trợ ngoại giao của chúng ta nhiều hơn, và hỗ trợ quân sự  và hợp tác của chúng ta nhiều hơn.
Và vào lúc mà hầu hết người Mỹ nói  rằng, họ đang mất niềm tin vào chính phủ của chúng ta, chúng ta nên nhớ  rằng, có hàng triệu người trên thế giới, đặc biệt ở khu vực châu Á-Thái  Bình Dương, những người này vẫn còn tin tưởng vào Hoa Kỳ, và họ vẫn  muốn sống trong một thế giới được định hình bởi sức mạnh của Mỹ, các giá  trị Mỹ, và sự lãnh đạo của Mỹ. Với rất nhiều người đang trông cậy vào  chúng ta – và không có cách nào để loại chúng ta ra ngoài – ít nhất  chúng ta có thể làm là nỗ lực hơn nữa để xứng đáng với sự kỳ vọng mà họ  đặt vào chúng ta.
———-
Ghi chú: Để hiểu  đoạn này, cần hiểu bối cảnh cắt giảm ngân sách ở Mỹ. Đề nghị đưa ra là  sẽ cắt 1.200 tỉ trong 10 năm tới. Trong khi Đảng Cộng hòa muốn cắt ngân  sách liên quan đến các chương trình xã hội (non-security programs), thì  Đảng Dân chủ muốn cắt ngân sách liên quan đến các chương trình an ninh  (security programs), như ngân sách quốc phòng. Cả hai đảng không thể đi  đến một thỏa thuận, nên theo luật mới ra cách đây không lâu là sẽ tự  động cắt, nghĩa là sẽ chia đều ra, mỗi bên bị cắt phân nửa, non-security  programs: 600 tỉ và security programs: 600 tỉ, trong đó, ngân sách quốc  phòng có thể bị cắt 500 tỉ.
Ông John McCain thuộc Đảng Cộng hòa  và đã từng là một sĩ quan hải quân, dĩ nhiên là ông phản đối việc cắt  giảm ngân sách quốc phòng. Ông nói: “Một số vị trong quốc hội đã đưa ra  đề nghị tránh chuyện tự động cắt giảm ngân sách quốc phòng theo luật  định, nhưng chúng ta không có được độc quyền về những ý kiến hay”. Câu  này có nghĩa là, ông cho chuyện không ủng hộ cắt giảm ngân sách quốc  phòng của những người trong quốc hội là ý kiến hay, bởi vì đó cũng là ý  kiến của ông.
Nguồn: The Diplomat/ Basam

0 comments:

Powered By Blogger