Tuesday, May 29, 2012

BẢN ÁN CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VIỆT NAM (CÁO TRẠNG SỐ 3)

LÃO MÓC

Vụ xử án ngày 4-4-2011 kết tội Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ 7 năm tù và 3 năm quản chế khiến nhiều nước trước thế giới lên tiếng phản đối thực ra đã là “một bước tiến bộ vượt bực” của luật pháp chế độ cộng sản Việt Nam.
Xin mời độc giả xem lại cảnh “Tòa án Nhân Dân” của “Bác” Hồ xử tội điạ chủ trong Cải Cách Ruộng Đất cách đây 60 năm để thấy mạng sống của người dân Việt Nam rẻ như bèo ra sao:
“Tòa gồm có một chánh án, vài thẩm phán và một số công cáo ủy viên nhưng không hề có người biện hộ cho bị cáo. Tòa xử theo “biên bản cuộc đấu” và không cho bị cáo tự bào chữa.Bồi thẩm đoàn cũng gồm toàn nông dân đã làm chủ tọa đoàn trong cuộc đấu tố.

Những người bị kêu án tử hình bị bắn ngay sau khi tuyên án và hố chôn đã đào sẵn, trước khi tòa nhóm họp. Hồi đầu, những người bị xử tử hình được phép tuyên bố vài lời trướckhi bị bắn, nhưng sau khi một người một người, trước khi chết, hô to: “Hồ Chí Minh muôn năm! Đảng Lao Động muôn năm!” thì thủ tục “tư sản” này bị bãi bỏ.Từ đó về sau, hể tòa tuyên án thì tức khắc cán bộ đứng sau nạn nhân nhanh tay nhét giẻ vào miệng rồi lôi đi. Một điều đáng thương cho những người bị hành quyết là những tự vệ xã cầm súng bắn phần nhiều mới cầm súng bắn lần đầu, nên bắn trật bậy bạ. Nhiều nạn nhânbị lôi đi chôn chưa chết hẳn. Những cuộc xử bắn điạ chủ bao giờ cũng tổ chức thành biểu tình. Công chúng vỗ tay hoan hô khi nạn nhân ngã gục dưới lằn đạn”
(Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, trang 254).
“Biên bản cuộc đấu” để kết án tử hình nêu trên được lập ra do một cuộc đấu diễn ra ở mỗi thôn làng miền Bắc từ năm 1953-1956 như sau:
“Mỗi cuộc đấu tố đều tổ chức ngoài trời, thường là sân banh. Dân mỗi làng ngồi trong một khoảng đất có vạch vôi trắng làm giới hạn. Khán đài làm bằng gỗ và tre, cao ba từng. Từng dưới có 14 “thư ký” ngồi, 13 người là bần cố nông chỉ ngồi làm vì, một người là trung nông, biết đọc, biết viết, ngồi hí hoáy. Từng trên là chủ tọa đoàn gồm 7 bần cố nông trong số đó có chủ tịch nông hội làm chủ tọa cuộc họp và một phụ nữ đóng vai công an trưởng. Người đàn bà này chỉ huy tự vệ xã, và cứ 5 phút lại hò hét, ra lệnh cho người bị đấu đứng trước khán đài phải quỳ xuống, đứng lên, dơ tay lên trời, khoanh tay trước ngực, giang tay ra hai bên v.v…Trên từng cao nhất của khán đài treo ba bức ảnh khổng lồ, Hồ Chí Minh ở giữa, Malentov bên phải và Mao Trạch Đông bên trái. Đội Cải Cách Ruộng Đất nấp phía sau khán đài để nhắc và ra lệnh cho chủ tọa đoàn. Đôi khi có cố vấn Tàu mặc quần áo Việt cùng ngồi với họ.
Để chuẩn bị Cải Cách Ruộng Đất, “Bác” Hồ cho cán bộ, đảng viên đi học khoá chỉnh huấn. “Bác” dạy là phải dựa vào Liên Sô, Trung Quốc để giành độc lập. Nhiều đảng viên thắc mắc tại sao phải liên kết với các nước Xã Hội Chủ Nghĩa? Họ viện dẫn rằng nhiều nước như Ấn Độ, Indonesia chẳng cần liên kết với khối nào mà vẫn kiện toàn được độc lập. Hơn thế nữa, vì  họ đứng trung lập giữa hai khối nên cả hai đều phải kính nể họ. Vì giảng viên không “đả thông” nỗi nên “Bác” Hồ phải đích thân đến thuyết phục từng người. “Bác” gọi những nước trung lập là những nước“làm đĩ chính trị”. Khi giảng cho  cả lớp, “Bác” Hồ nói:
“Đối với những chú không dứt khoát tư tưởng, còn đang lưng chừng thì tôi khuyên nên dứt khoát ngay từ bây giờ; một bên là tổ quốc, một bên là quân thù. Chú nào muốn “dinh tê” thì xin cứ việc. Công an địa phương sẽ cấp giấy ngay tức khắc”.
Bởi vậy mà trong mười ngày học tập về Cải Cách Ruộng Đất, lúc đầu học viên còn thảo luận sôi nổi, nhưng cuối khoá họ ngoan ngoản chấp thuận luận điệu của Đảng, để may ra sau này mình còn được xếp vào hàng “địa chủ kháng chiến” như Đảng bảo đừng hoảng sợ. Là những “địa chủ” đi theo Đảng lâu năm nên họ biết rằng thái độ khôn ngoan hơn cả là đứng về phía Đảng, nên cuối cùng tất cả đồng ý với Trường Chinh về Cải Cách Ruộng Đất nên đứng lên tự mình… đả đảo mình, họ hô to “Đả đảo địa chủ”.
Và như mọi người đều biết,  chính Trường Chinh Đặng Xuân Khu đã đem cha mẹ mình ra mà tố
Và nhà thơ Xuân Diệu, đã thay những lời thơ thấm đẫm tình yêu bằng những lời thơ sắt máu:
“Ai về Bố Hạ
Nhắn vợ chồng thằng Thu (1)

Rằng chúng bây là lũ quốc thù!”

Và hãy nghe nhà thơ Lưu Trọng Lư, từ “con nai vàng ngơ ngác/ đạp trên lá vàng khô” tự lột xác biến thành “con sói ngu ngơ” của chủ nghĩa cộng sản:
“Cha đời địa chủ gian tham
Không cho người ở học hành ấm no

Tháng ngày bắt giữ trong nhà

Chào cờ không biết, cụ Hồ nào hay

Bây giờ Đảng đã về đây

Chúng tôi do Đảng cầm tay dắt dìu

Nông dân theo Đảng quyết liều

Đấu cho ngã gục đổ nhào chúng đi!”

*
Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam do ông Hồ Chí Minh đem về áp đặt cho đất nước Việt Nam dựa trên sự khủng bố và giả dối.
Chính Nguyễn Khắc Viện, một lý thuyết gia mác-xít gạo cội của chế độ đã phải nhìn nhận rằng người Cộng Sản bị phân đôi:
“Ngồi với nhau thì trao đổi chân thật, thì nói một đàng; mà khi họp lại bàn bạc, viết lên báo chí thì lại nói một nẽo. Trong mỗi người Cộng Sản có hai con người: con người thật và con người giả. Làm sao có thể xây dựng một xã hội mới với con người giả. Làm sao có thể xây dựng một cái gì tốt đẹp và bền vững trên một nền tảng giả?”
*
“Tôi đã bỏ ra trên 50 năm để đánh đuổi thực dân, dành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Nhưng sau 50 năm tôi mới nhận ra rằng cái thể chế mà tôi giúp tạo dựng lên nó còn tệ hơn chế độ thực dân của 60 năm trước”. (2)
Xin mượn nhận xét của cố Trung Tướng Trần Độ, người đã bắt sống Tướng De Castrie của quân đội thực dân Pháp trong trận Điện Biên Phủ, về chủ nghĩa cộng sản Việt Nam để thay lời kết cho cáo trạng số 3 trong “Bản Án Chủ Nghĩa Cộng Sản Việt Nam”.
Ghi chú:
(1) Là bố mẹ của nhà thơ Xuân Diệu.
(2) “Chuyện bên lề” của Trịnh Hội.

-Tài liệu tham khảo “Từ thực dân đến Cộng Sản” của Hoàng Văn Chí và “Dương Thu Hương và Con Hùm Ngủ” của Nguyễn Việt Nữ.
(Xem tiếp kỳ tới: Cáo trạng số 4)
LÃO MÓC
http://nguyenthieunhan.wordpress.com

0 comments:

Powered By Blogger