Friday, May 11, 2012

Trung Quốc Mong Manh!


Thảo luận với Tiến sĩ Nguyễn văn Lương: Chúng ta hãy cùng HY SINH để CẤP CỨU VIỆT NAM
From: Saigon Moi
Sent:
 Thursday, May 10, 2012 11:41 AM
Tình hình VN đang biến đổi từng giờ trong âm thầm nhưng rất mãnh liệt. Những ai có chuyện thật cần hãy về VN, nếu chưa cần thiết thì không nên về VN trong lúc này, nhất là những người chưa có quốc tịch tại các nước mình cư ngụ không nên về kẻo bị kẹt lại.

Theo lời kêu gọi của TS Nguyễn Văn Lương dưới đây thì nhân cơ hội này tất cả mọi người Việt Tị Nạn Cộng Sản hãy ngưng du lịch là “phát đạn ân huệ” cho chế độ Việt cộng.
Nếu những ai còn ham hố về VN tức là những kẻ tiếp tay nuôi dưỡng chế độ ăn cướp được kéo dài thêm để bóp nghẹt hơi thở của 90 triệu dân trong nước.
<
sgm.
Kính chuyển AUDIO và TEXT bài phát biểu đặc biệt của Tiến sĩ Nguyễn Văn Lương, chuyên gia kinh tế tài chánh, tị nạn 1975, làm việc tại Hoa Kỳ & các nước.
Bài phát biểu và các thảo luận này được thu âm qua hệ thống PALTALK ngày Chúa Nhật 30-4-2012 tưởng niệm Quốc Hận 30-4. Xem bài nhận định ghi chép bên dưới.
Chủ đề thảo luận xoay quanh nền kinh tế thảm hại và sự phản kháng ở nội địa Trung Quốc và Việt Nam, sức mạnh và áp lực của Hoa Kỳ, và nhu cầu cấp cứu nước Việt Nam.
Tiến sĩ Nguyễn văn Lương đề nghị Cộng đồng người Việt hải ngoại hãy tích cực, ngay lúc này, hãy làm y như cộng đồng người Cuba tị nạn cộng sản ở hải ngoại, hãy cố gắng:
—-> Ngừng du lịch về Việt Nam
—-> Ngừng gởi đô-la Mỹ về Việt Nam
Tiến sĩ Lương nói rằng VC nắm giữ tiền đô la Mỹ và vàng để bỏ túi và trả nợ thế giới, chỉ đổi cho
dân chúng tiền giấy “bác hồ” thôi. Ông khẳng định:
Du lịch và gởi đô-la Mỹ về Việt Nam là phản quốc!Du lịch và gởi đô-la Mỹ là nuôi chế độ VC sống lâu thêm!
Việt cộng đang yếu sức, xin đồng bào hải ngoại hãy cụ thể tiếp sức với đồng bào quốc nội đang hy sinh! Ông nói rằng đây là lúc sử dụng vũ khí kinh tế để hữu hiệu và cấp bách đánh cho sụp đổ chế độ Việt Cộng mau hơn!
Chúng ta hãy cùng HY SINH để CẤP CỨU VIỆT NAM.
Tiến sĩ Lương nói rằng,
nếu không cứu nước Việt ngay lập tức, thì:
– Việt Nam sẽ đầy chồng Tàu/vợ Việt/con lai, y như ở Á Châu!
– Thêm nhiều đất đai/biển cả Việt Nam bị Tàu cướp lấy thêm!
– Dân Việt ở quốc nội sẽ đói khổ thêm, suy dinh dưỡng thêm!
– Hải ngoại sẽ già đi/chết dần những chiến sĩ VNCH ưu tú,
    sẽ mất đi các chuyên gia VNCH ở hải ngoại đang chuẩn bị
làm các trạm móc nối/vận động tái-xây-dựng VN hậu CS
Mời quý vị và các bạn nghe AUDIO và đọc TEXT:
Nhờ các Chiến sĩ Truyền Tin giúp phổ biến rộng rãi:
Chú 3 Tập Cận Bình, 57 tuổi, YOB 1953,
Bí thư Ban Bí thư Trung ương CSTC
Ủy Viên Thường Vụ Bộ Chính trị
Chú 3 Đới Bỉnh Quốc, 71 tuổi, YOB 1941
Ủy Viên Quốc Vụ Viện,
Kiến Trúc Sư Ngoại Giao
Trung Cộng Giao Động Thay Đổi Việt-Nam

Tiến sĩ Nguyễn Văn Lương
(ghi chép buổi nói chuyện
trên Paltalk 30-4-2012)
Năm 1991, sau sự sụp đổ của Liên Bang Sô Viết vì sự chạy đua không gian với Hoa Kỳ (HK), hàng hóa Trung Cộng (TC) bắt đầu ồ ạt xuất cảng vào Hoa-Kỳ, đánh dấu sự “chạy đua” kinh tế giữa “hai anh hùng không sống chung một quả đất” bắt đầu.
Cứ mỗi tam cá nguyệt, kể từ khi giao thương với TC, Hoa-Kỳ luôn luôn báo cáo sự bất quân bình mậu dịch với quốc gia mà thế giới ai cũng biết là Hoa Kỳ đã giúp đỡ để được mang danh là một “siêu cường TC” ngang hàng hoặc sẽ vượt qua kinh tế Hoa-Kỳ trong thập niên sắp tới.
Thời gian trôi di, cả hai thập niên, sự thương lượng quân bình kinh tế bế tắc, khiến TC lầm tưởng rằng, chính phủ Hoa Kỳ không còn đường lối nào khác hơn là ngậm đắng nuốt cay, phải chấp nhận sự nhập cảng hàng hóa TC càng ngày càng gia tăng, để người dân HK có được một cuộc sống căn bản cao phải tùy thuộc vào hàng hóa TC vì rẻ mà không quốc gia nào trên qủa điạ cầu này cạnh tranh đuợc.
Khi biến cố 911 (năm 2001) xảy ra cho 2 tòa nhà của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới (World Trade Center) tại Nữu Ước, thế giới bàng hoàng, người dân Mỹ ngẩn ngơ, và khi TT Bush quyết-định đưa quân trừng phạt Iraq và A Phú Hãn, thì lãnh tụ Trung Cộng mở tiệc ăn mừng, vì nghĩ rằng, Hoa Kỳ sẽ bị sa lầy vào một chiến tranh mà có thể còn khốc-liệt hơn cả chiến tranh Viet-Nam (VN) nữa.  Do đó, họ đã âm thầm khuyến khích gia tăng sản xuất để xuất cảng bành trướng sang châu Âu  vì nghĩ rằng, họ chế ngự được thị trường HK, thì những quốc gia Âu Châu không có gì là đáng kể.
Chính vì thế, giới thương gia đổ tiền của vào sản xuất với rất nhiều tín dụng cá nhân, và với sự bóc lột lao động tối đa nên có lợi điểm với gía cả rẻ mạt, hàng hóa TC tràn ngập Mỹ và Âu Châu trong khoảng thời gian ngắn kỷ lục.
Đến năm 2004 là năm mà HK bắt đầu sửa chữa thị trường theo “thứ tự” của kinh tế thế giới .  Theo kinh nghiệm, tại HK, cứ 8 đến 10 năm một lần, HK phải “diều chỉnh” kinh tế để “quân bình” tài chánh hầu tránh sự kinh tế sụp đổ tương tự diễn ra cho thế giới vào năm 1930s, và sự điều chỉnh này dài hay ngắn, nhanh hay chậm, là tùy thuộc vào sự chênh lệch tài chánh của HK trong sự giao thương của khoảng thời gian liên quan đó. Chúng ta cũng nên biết rằng, kể từ khi người Việt tị nạn đặt chân đến HK sau chiến tranh VN năm 1975, Hoa-Kỳ có 4 lần diều chỉnh:
(1) Đầu thập niên 80s, điều chỉnh với nền kinh tế Nhật Bản,
(2) đầu thập niên 90s thì thế giới tự do
“đóng góp hơn 100 tỉ” trợ giúp HK trong chiến tranh Trung Đông,
(3) Cuối thâp niên 90s thì sự đầu tư vào sự khai thác mạng lưới (internet developments) sụp đổ, tiền mất của người đầu tư vào những công ti bị phá sản này, trở thành tài sản của HK…
Trong thời gian này,
(4) HK có kế hoạch “điều chỉnh” kinh tế với TC, nhưng chưa áp dụng thi biến cố 911 xảy ra, khiến bị trì hoãn đến năm 2004, khi TT Bush tuyên bố phải áp dụng 3 điều căn bản chính để gia tăng xuất cảng, đó là:
(1) giảm trị gía Dollars để khuyến khích
ngoại quốc mua hàng HK vi rẻ hơn;
(2) phải giảm tiền lời đề khuyến khích những
công ty HK được vay rẻ thi sản xuất rẻ và nhiều hơn, và
(3) phải tạo điều kiện dễ dàng để người dân HK có cơ hôi làm chủ chính căn nhà của họ… đó chính là giai đoạn khai hỏa “trừng phạt” TC bắt đầu.
Kế hoạch của TT Bush nêu trên đã làm trương mục của những “chủ nợ” của HK (điển hình là TC) bị xuống gíá, tiền lời lại không có (cần phải nói là giai đọan này là thời kỳ đen tối của những người sống bằng lợi tức chắc chắn, cố định, những công dân HK về hưu, hưởng tiền gìa và sinh sống tại nước ngoài), Thêm vào đó, những đại công ty đầu tư của HK như AIG, Leman Brothers, Merrill Lynch có đưa ra những kế họạch, chương trình đầu tư khá hấp dẫn, đáng tin cậy, “không” bảo đảm nhưng rất “an toàn” đó là đầu tư vào bất động sản tại HK như hệ thống ngân hàng HK đã và đang áp dụng: vì chủ nhân ngôi nhà phải có bảo hiểm khi mượn nợ nên không sợ bị hư hỏng, người mua nhà đặt cọc tiền nên phải cố gắng gìữ nhà, không bỏ hoang,..  giá nhà tại HK luôn luôn lên giá…  và  với tiền lời 5%, 7% cố định, cho cả 30 năm thì không phải lo lắng về tiền lời nữa…
Do đó, khi điều căn bản (3) của TT Bush được áp dụng thì người dân đổ xô đi mua nhà nhưng thực tế chỉ xảy ra tại 4 tiểu bang nóng bỏng nhất, đó là: Arizona, California, Florida, và Neveda… vì dân chúng những tiểu bang khác có những ước mơ về đây sinh sống khi lớn tuổi, khiến giá nhà tăng nhanh một cách khủng khiếp do kết quả số lượng CUNG-CẦU chênh lêch nhau qúa sức tưởng tượng.
Và tất cả nợ nần của những ngôi nhà mới bán này được bán cho những chủ nợ ngoại quốc giàu có.dưới hình thức của “Mortgage Notes” …cho đến khi trái bóng nhà cửa bị nổ tung vì giá qúa cao vào đầu năm 2008, AIG, Merill Lynch, and Leman Brothers khai phá sản, thì các chủ nợ ngoại quốc cũng đành chung số phận, phải ngậm đáng nuốt cay vì đầu tư vào bất động sản rất “an toàn” tại HK, ôm những căn nhà tráng lệ bị bỏ rơi bởi chủ nhân làm tài sản, còn tiền để dành đã chạy hết vào ngân hàng dự trữ Hoa Kỳ một cách hợp pháp…
Thêm vào đó, khi Thống Đốc Ngân Hàng Bernanke yêu cầu quốc hội HK gia tăng nợ nần ngân sách quốc gia cho HK thếm 1 trillion dollars nữa, thế giới kinh hoàng vì hiểm lầm là HK nợ nần quá nhiều nên không thể trả nợ nổi, khiến bao nhiêu chủ nhân của TRÁI PHIẾU (US Bonds) tung ra bán hết với gía thật thâp, để lấy tiền mua vàng.  Vì số CUNG nhiều hơn số CẦU (HK mua lại 800 tỉ mà thôi); do đó, Hoa Kỳ có dip thâu hồi trái phiếu một cách hợp pháp mà không phải trả tiền lời cho những trái phiếu này… và gía vàng trên thế giới đã lên rất cao vì nhu cầu đòi hỏi của người có tiền của…không tin tưởng vào trị giá của US dollars nữa, chỉ vì không hiểu rằng căn bản tiền tệ của HK  căn cứ vào tín dụng, có nghĩa là HK đã khá hơn, có khả năng trả nợ thêm 1 trillion dollars nữa…
Là một siêu cưòng, HK không thể không thi hành những luật lê kinh tế quốc tế mà những quốc gia đã ký ước… Thi dụ Hoa Kỳ không thể cấm hàng hóa TC nhập cảng vào HK , chính vì thế,  HK phải có những phương pháp khác để hàng hóa TC không có người tiêu thụ.  Do đó, HK không ngần ngại đưa tỉ lệ thất nghiệp của quốc gia này lên cao, thật cao, với lý do bị ảnh hường bởi kinh tế TC không hợp tác  Với số luợng thất nghiệp này, HK không còn có nhu cầu tiêu thụ khối hàng TC khổng lồ nhập cảng nữa, dù rẻ mạt…
Và tổng số thất nghiêp cao của xứ cờ hoa này sẽ còn kéo dài trong những năm sắp tới cho đến khi sự “quân bình kinh tế” được giải quyết.  Đó cũng là lúc Dollars sẽ lên giá và vàng sẽ xuống gía như dầu lửa dưới thời TT Clinton (vi vàng cũng chì là món hàng trao đổi, HK không dùng vàng làm kim bản vị cho tiền dollars của nước HK); và đây cững là giai đoạn cuối cùng của nền kinh tế suy thoái HK.
Khi hàng hóa sản xuất để xuất cảng bị ứ đọng, không phải là nhu yếu phẩm của quốc gia, tiền lương lao động TC thấp nên không có mãi lực trong nước, khiến nhiều công ty TC bị phá sản;
Sự thất nghiệp (không có trợ cấp như HK) gia tăng, đã và đang tạo nhựng sự xáo trộn xã hội lớn tại TC, và có chiều hướng gia tăng.  Thêm vào đó, sự rút lui của giới tư bản HK vì luật thuế vụ áp dụng cho những công ty có chi nhánh tại hải ngoại, sẽ làm cho tình trạng lao động TC gặp nhiều khó khăn hơn. Chính phủ TC biết rõ điều này, nhưng không công nhận sự thực, chỉ cố gắng đổ lỗi cho lãnh đạo yếu kém, tham nhũng, hối lộ nên có những kế hoạch thanh trừng với mục đích chính là củng cố địa vị trong giai đoạn đen tối của quốc gia mà không thể tránh nổi.
Nói một cách khác đi, TC sẽ phải đối diện với một giai đoạn cực kỳ khó khăn trong nội bộ, mà nguy cơ có thể đưa đến một sự tan rã như Liên Bang Sô Viết, cáo chung chủ thuyết cộng sản trên qủa địa cầu.
Lẽ di nhiên, lãnh đạo Trung Cộng sẽ không ngồi yên, họ cũng có những đường lối “ngoại giao” để làm nhẹ gánh bớt cho tình hình nội bộ của TC như:
1.      TC sẽ tạo chiến tranh thế giới để giải quyêt kinh tế nội bộ? – Điều này không thể xảy ra, vì với vũ khí qúa tối tân mà  con chim đầu đàn của thế giới tự do, sẽ không cho phép TC làm được chuyện này… Và nếu có, sự thiệt hại không thể hủy diệt được toàn cầu, hoặc sẽ không lôi kéo những quốc gia khác vào chiến tranh, mà ngược lại, có rất nhiều sự bất lợi cho chính TC.  Chúng ta cần phải hiểu rằng, khi HK thỏa hiệp với Nga-Sô để hủy bỏ vũ khí nguyên-tử, thì họ phải có những vũ khác hiệu nghiệm hơn và chính xác hơn…
2.      TC mong chờ có một phong trào chống chính phủ HK vì thất nghiệp cao? – cũng rất khó vỉ HK có cả trăm ngàn công ăn việc làm mà nhân công HK cần phải huấn luyện khá hơn để được tuyển dụng… có hơn 12 triệu việc làm lao động mà những người cư ngụ bất hợp pháp Mễ Tây Cơ đang làm… nếu cần phải thay thế bằng lực lượng lao động HK
3.      TC cũng mong có những cuộc biểu tình phản chiến chống chiến tranh của người dân HK lan tràn khi gia tăng quân sự ỏ DNA? – chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra, vì thái độ lạnh lùng, ngạo mạn của lãnh tụ TC trong những chuyến thăm TC để điều đình thương mại của TT tài chánh và TT Obama; khiến truyền thông HK có những sự bất lợi cho TC, hàng loạt tài liệu kêu gọi tẩy chay hàng hóa của TC vì thiếu tiêu chuẩn sản xuất trong số đó, sự vi phạm vệ sinh là chính thức… và người dân HK thức tình là quốc gia nguy cơ, cũng như kết qủa thất nghiệp đã và đang đến từ ảnh hưởng kinh tế của TC
4.      Tìm đồng minh thế giới chăng? – Không có, nhìn từ Đông sang Tây, từ Mỹ, Phi, và Á châu: phong trào chống TC lan tràn và gia tăng.  Sự đồng lòng của những quốc gia thành lập Trans-Pacific Economic Partnerships (TPP) chứng minh cho thấy là không một quốc gia nào hưởng ứng theo TC.
5.      Không theo kịp sự tiến bộ kỹ thuật, TC có những kế hoạch gia tăng quốc phòng, và những chương trình phá hoại kỹ thuật HK – Điều này TC đã và đang làm, có chiều hương gia tăng nhưng tỉ lệ thành công rất thấp… Gia tăng quốc phòng thì cả trăm năm nữa cũng không bằng HK… Phá hoại kỹ thuật HK chăng?  Nhin những kết qủa trong qúa khứ, WTC bị phá hủy hòan toàn, 133 hệ thống ngân hàng thế giới với số tiền trao đổi vài trillion dollars hàng ngày, chúng ta có nghe đến những sự than phiền, mất mát, thiếu hụt không? những hệ thống điện toán thương mại của công ty HK có dễ dàng bị xâm chiếm không??? Thì không cần phải bàn đến sự tinh vi về kỹ thuật của bộ Quốc Phòng, Quân Sự HK mà TC có đủ khả năng phá rốí.
Nhìn về thể chế chính trị và xã hôi Viêt Nam, chúng ta phải đồng ý rằng TC và VN có những sự tổ chức và ràng buộc với nhau.  Có khác đi, VN có được một ưu điểm duy nhất mà TC không có, đó là một quốc gia nhỏ bé nhưng có được sự trợ giúp “không chính thức”, có kế hoạch của chính phủ HK với mục đích tách rời VN ra khỏi ảnh hưởng của TC, nên số tiền của người Việt tị nạn gửi về VN có chiều hướng gia tăng đã được làm ngơ.
Số tiền này chính là sư quyết đinh sống còn cùa chế độ hiện hữu. Nói như thế, không phải là HK chấp nhận chế độ CSVN hiện tại, mà chỉ muốn kéo dài sự “yên ổn” của VN cho đến hồi kết cuộc của TC. Nhưng ngược lại, VN có một vị trí bất lợi là nằm bên cạnh TC nên bị áp lực và ảnh hưởng rất lớn của quốc gia này.  Nếu so sánh VN và Cuba, nguời dân tị nạn Cuba có dược những lợi điểm trong sự đấu tranh thay đổi thể chế Cuba, vì nước này nằm trên một vị trí chỉ cách bờ biển HK hơn 90 dậm anh (160 Km), nên không có quốc gia CS đàn anh nào bén mảng đến gần; và với một tổ chức kinh tế xuật nhập cảng, phát triển mạnh mẽ hẩu như bao trùm tất cả Nam Mỹ (một khối người nói tiếng Tây Ban Nha (Spain)) của cộng đồng tị nạn Cuba tại Little Havana (Miami, Florida), cộng đồng Cuba có ảnh hưởng rất lớn với chính phủ HK. Chính vì thế, nhà cầm quyền nước Cuba gặp rất nhiều khó khăn vì sự đấu tranh của khối người tị nạn Cuba đó.
Là người VN, chúng ta cần phải nhận thức rằng, Chúng ta đã bị CSVN lừa đảo qúa nhiều rồi và chờ đợi vì những sự lừa đảo đó, hết thủ đoạn này đến đường lối khác, dùng MTGPMN là công cụ đánh phá miền Nam, dùng nơi học tập làm trại tù để nhốt những người có khả năng chỉ huy lãnh đạo,,,thay đổi sự lãnh đạo để người miền Nam mơ tưởng có sự cở mở, và bây giờ dùng gia đình Nguyễn Tấn Dũng để tạo sự mơ tưởng một chính phủ thân Mỹ nên có những sự “yên ổn” kéo dài chờ đơi… (vì chờ đợi Dollars gửi về, vì có những suy diễn chính phủ Nguyễn Tấn Dũng là chính phủ thân Mỹ, nên HK sẽ trở lại VN… )…
Chúng ta cũng cần biết thêm rằng, Hitler bi kết án là một kẻ độc tài sất máu, nhưng ông ta chỉ giết người Do Thái trong giai đọan chiến tranh, còn chế độ CSVN hiện tại, giết người dân của chính dân tộc mình, mà giết trong thời bình, không chiến tranh, thí chúng ta nghĩ sao về chế độ nay?… Chúng ta cũng biết rằng, TC sẽ gặp nhiều khó khăn trong giai đọan sắp tới, không đấu tranh CSVN cũng phải thay đổi vì quan thày của chúng suy xụp, nhưng những sự kéo dài chờ đợi của người dân VN trong giai đoạn này là mắc mưu chế độ cầm quyền, vì họ chỉ mong có thế để biến đổi tình thế khi có dip.
Nói khác đi, sự chờ đợi sẽ không có những lợi điểm cho đất nước chúng ta, cũng như sự chờ đợi cho đến ngày TC sụp đổ để thay đổi VN thì e rằng qúa trễ, vì những lý do sau đây:
1)      Tài nguyên bị tịch thu bán cho ngoại quốc để trục lợi của bè nhóm chế độ hiện hữu: Đã không biết bao nhiêu mẫu đất từ Bắc xuống Nam của người dân bi tich thu bán cho ngoại quốc làm sân golf (!), khu kỹ nghệ… mới đây nhất là Bắc Giang, Hưng Yên; cũng như tài nguyên thiên nhiên Bô Xit thuộc vùng cao nguyên, Dà Lạt… người dân trong nước có chống đối nhưng không hiệu qủa.
2)      Sự đồng hóa sẽ nhanh chóng của TC: với con số hơn 200 triệu đàn ông không có đàn bà để lấy làm vợ của kết qủa cách mạng văn hóa Mao Trạch Đông từ năm 1960s, thì lượng di dân của khối người này đến VN phải xảy ra…qua những hình thức như nhân công, du lịch đến VN dài hạn… để tìm vợ; hoặc trong tương lai di dân vì lý do an-ninh, kinh tế..
3)      Thiếu khả năng, thiếu sức mạnh của một quốc gia khiến VN mất dần tài nguyên ngoài khơi, và hải sản… hoặc người lãnh đạo sẽ bán ăn chia những tài nguyên cho ngoại quốc khai thác như những lãnh đạo của những quốc gia độc tài Lybia, Trung Đông…
4)      Nhân tài VN của hải ngoại gìa yếu hoặc qua đời, VN sẽ mất đi những khả năng chuyên môn, tiền của, đặc biệt là những gạch nối, móc nối tốt đề tái thiết cho VN và những quốc gia có người Việt hải ngoại cư ngụ…  lực lượng đấu tranh và người dân trong nước sẽ thiếu đi điểm tựa đấu tranh vững chắc
5)      Sự thiếu dinh dưõng, không có điều kiện căn bản sống của môt quốc gia VN lạc hậu, chỉ biết có ăn để mà sống, trực tiếp tạo điều kiện rất khó khăn cho sự tiến bộ của đất nước, sự mạnh mẽ của xã hội… người dân chết dần mòn theo thời gian mà không có năng xuất…
Chinh vì thế, chúng ta cần phải thay đổi VN càng nhanh càng tốt…và cần phải chuẩn bị cho một đường lối chính trị của VN trong tương lai, phải có lập trường dứt khoát: ai là bạn, ai là thù, không nên đúng chàng hảng, lòng thòng, đúng giữa, chia phe nhóm thủ lợi… vì những khía cạnh này chì phí tổn thêm nhân sự và thời gian mà thôi. Những người phục vụ đất nước trong tương lai phải nghĩ đến quyền lợi chung của dân tộc Viêt-nam khi quyết đinh.
Chúng ta không ngồi chỉ đọc lại nhũng chồng tài liệu cũ, lấy những sự chỉ trích Henry Kissinger là sự suy luận để thỏa mãn là chúng ta đã làm đúng, 40 năm nhìn lại để chúng ta có những trận chiến oai hùng trên chiến trường, đổ lỗi cho đồng minh đã làm sai…
Nói như thế, không có nghĩa là tôi  phủ nhận những gía trị tài liệu, hoặc những chiến công hiển hách của miền Nam; vì cha của tôi cũng là môt quân nhân của liên đoàn 1 BĐQ, học khóa đầu tiên tại Dục-Mỹ, em thứ hai của tôi là một chiến sĩ trẻ của trường Thiếu Sinh Quân, và trước ngày này của năm 1975, là một Thiếu Uý của ĐĐ Trinh Sát Sư Đoàn 2… Nhưng tôi thấy, chúng ta ngồi ôn lại lịch sử nhưng chúng ta không áp dụng những gì đã có kết qủa oai hùng, chiến công lừng lẫy, cho một kế hoạch nào đó để tìm một phương pháp giải thể chế độ hiện tại mà ngược lại, chỉ để mãn nguyện, phô trương thành tích…như những vị có bằng cấp khoa bảng nổi tiếng mà không hành nghề… thậm chí mua bằng giả để hãnh diện,,, vì tôi thấy có những quân nhân cấp cao đã quên đi sự nhục nhã trong trại tù cài tạo, quên đổng đội của mình, đi Việt nam hí hố một cách trơ trẽn; hoặc nịnh bợ, luồn cúi vì quyền lợc cá nhân, không biết nhân phẩm của chính mình,  và đơn vi mình đã phục vụ. đã hãnh diện,
Tôi muốn nói đến những gì chúng ta có kinh nghiệm và hãnh diện, phải được phải đem ra  áp dụng để thay đổi một nước VN hiện tại, nơi vẫn còn kẻ thù của chúng ta đang cai trị, đang đàn áp 90 triệu người dân lành.  Trong số đó, gần 30 triệu người chúng ta đã bảo vệ khi đang cầm súng, và chúng ta đã có giấc mơ giải phóng phần còn lại sống đói khổ tại miền bắc Viet Nam trước năm 1975 … và  quên đi rằng chúng ta đã không có những lãnh đaọ giỏi giang, những sức mạnh của chính quốc gia mình để hợp tác với ngoại bang, mà không bị ngoai bang chi phối…Hãy nhìn Đài Loan và Do Thái là những thi dụ cho đất nước…
Do đó, ngay bây giờ đây, lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta phải biết là HK đến DNA chứ không trở lại VN, và chúng ta cần phải làm những gì nhân cơ hội này để có một sự thay đổi VN hiện tại.  Những sự chờ đợi khiến HK và ngoại quốc hiểu lầm là chúng ta bầng lòng vối chế độ hiện tại, chấp nhận những gì đang có.  Do đó, chúng ta phải nghĩ đến những yếu tố chính, những gi chúng ta làm được, để thay đổi VN càng sớm càng tốt, chỉ có như thế, chúng ta mới hãnh diện với những gì chúng ta đã có, bắt đầu cải thiện cuộc sống cho người dân VN, và đưa VN trở lại vị trí “hòn ngọc của Viễn Đông”.
Chúng ta làm được vì chúng ta có nhiều ưu điểm:
1)      Chúng ta có một khối chuyên viên hùng hậu trên thế giới, có thể nói là chỉ thua nước Hoa Kỳ.  Kinh nghiệm của những chuyên viên này, hấp thụ từ Dông sang Tây, từ quân sự đến dân sự, từ văn phòng đến hầm mỏ, từ tài chánh đến kỹ thuật… họ không những chỉ có tài mà có tiền nữa, công thêm một gía trị vô giá là có sự móc nối với những đầu óc chuyên gia của người dân bản xứ… Chính vì thế, nếu đồng lòng, không có gì là chúng ta không làm được…
2)      Hoa-Kỳ hiện diện trong vùng Đông Nam Á.  Đây là một điểm rất thuận lợi… Nhìn trên bản đồ thế giới, từ Nato đến Nam-Hàn, sự hiện diện của HK khiến có sự ổn định.  Sự ổn định mang đến sư dễ dàng phát triển của quốc gia… Đó là chưa kể đến sự tái phối trí hiện hữu dài hạn của quân đội HK từ Nhật Bản, Phi Luật Tân, Singapore, va Úc Đại Lợi (Trong thời gian gần đây, Phi Luật Tân đã chứng tỏ lập trường rõ ràng để được vị trí đó; và lãnh tụ PLT chứng tỏ rất khôn ngoan khi có quyết định này).  Giả sử rằng năm 1954, TT Ngô Đình Diệm yêu câu HK đóng ở  vĩ tuyến 17, hoặc năm 1975, chế độ CSVN hiện tại, mời HK đọ quân ở biên giới Việt-Hoa thì đất nước VN đâu có tệ hại, người dân đâu có lầm than như bây giờ.
3)      Người dân từ Bắc xuống Nam bất mãn, đói khổ lầm than, họ rất mong HK trở lạì VN, mơ ước một sự thay đổi cho VN,
4)      Hệ thống tài chánh VN gặp trở ngại một cách khá trầm trọng, cố gắng trả tiền lời cao để chiêu dụ người ký thác (deposits) nhưng khó rút tiền ra (withdrawal) khi cần đến
5)      Nước VN có đươc một bộ “Ngoại Giao” vững chắc vì sự hiện diện của người tị nạn tại những nơi cư ngụ hậu thuẫn… nói chung là của một Cộng Đồng Việt-Nam lớn Hải Ngoại
 Đầu tiên, chúng ta phải làm những gì?
Như đã trình bày ở trên, VN có một lợi đíểm hơn TC, đó là nguồn lợi tức gửi về VN của người dân tị nạn.  Nếu không có nguồn lợi nay, chế độ VN và ngườì dân có những lợi điểm cũng như sẽ đối diện với rất nhiều khó khăn như sau:
1)      VN không có sư giao thương với quốc gia lân cận một cách mạnh mẽ:  Không có Dollars, những quốc gia này không mang hàng hoá thừa thãi, vi phạm luật lệ đển bán rẻ cho VN (thay vì phế thải,,,); người dân VN không phải mua những hàng hóa có danh mà không có phẩm chất tốt, có thể không nguy hại tức khắc nhưng ảnh hưởng lớn cho sức khỏe trong tương lai
2)      Công An, Quân Đội, công quyền nhà nước… không có cơ hội hối lộ, sách nhiễu dân để có lợi cho cá nhân vi hệ thống tham nhũng, hối lộ ỏ VN qúa tệ hại.  Họ không còn lý do “đoàn kết”, bám víu nhau để thủ lợi nữa
3)      Việt kiều không du lịch Việt Nam thì làm gì có phe nhóm, hối lộ của Hải Quan trong phi trường Tân Sơn Nhất
4)      Nền thương mại giả tạo có được trong VN là kết qủa luân lưu của tiền người Việt gửi về sẽ bị bế tắc như TC hiện tại vì không có mãi lực
5)      Sự cấm xử dụng Dollars và vàng (áp dụng từ 25 tháng 5 năm 2012) trên thị trường sẽ giúp chế độ kìm chế sự lạm phát giả tạo nhưng sẽ bất lợi cho người Việt trong nước làm chủ những “hàng quốc cấm” này.  Thí dụ, khi thân nhân của người Việt hải ngoại nhận tiền dollars từ ngân hàng hay từ một nơi trung gian nào đó, những nơi này có thể tố cáo người nhận tiền để được thưởng hoặc để tránh sự liên lụy.  Do đo, gửi tiền về than nhân tại VN có thể tạo sự khó khăn (hôi lộ, tịch thu…) hoặc nguy hiểm (vì bị cướp bóc…)
6)      Không có Dollars, VN không còn giao thưong với nước ngoài, vì tiền VN không còn được công nhận nhiều nơi
Người Việt hải ngoại, phải hợp tác với người dân đang sống cực khổ tại VN, phải có kế hoạch vô hiệu hóa những nguồn lợi tức gửi về VN.
1.      Hoa Kỳ có kế hoạch để người dân không xử dụng hàng hóa TC, Người Việt chúng ta phải có kế hoạch tảy chay hàng hóa nhập cảng từ VN
2.      Vi danh dự của người dân quân Miền Nam, nếu chúng ta còn hãnh diện về qúa khứ, còn ngẩng mặt lên ngạo nghễ khi VN thay đổ, ngay từ bây giờ chúng ta phải tự thi hành những điều sau đây:
a.      Không du lịch VN như người Cuba đã và đang còn áp dụng cho đất nước của họ
b.      Không gửi tiền nhiều về VN (chỉ $50.00 /tháng như người tị nạn Cuba đã thi hành từ năm 2003)… Năm 1954, chúng ta còn nhớ, hàng triệu người miền Bắc di cư vào Nam không có sự trợ giúp nào nhưng vẫn sinh sống được
c.      Không ủng hộ, không quyên góp cho những tổ chức từ thiện, tôn giáo, những tổ chức danh nghiã tại VN …
3.      Không gửi tiền, thân nhân không bị theo dõi, ăn cướp, ăn trộm, có khi bị nguy hiểm đến tánh mạng vì có dollars
4.      Thât là mâu thuẫn khi chúng ta có những thỉnh nguyện thư yêu cầu chính phủ HK không viện trợ, trợ cấp, qùa tặng khi biến cố, thiên tai như bão lụt, mà chúng ta lại trực tiếp hoặc gián tiếp chuyển về VN hàng tỉ dollars.  Số tiền này chiếm khỏang 1/3 ngân khoản tài chánh CSVN hàng năm… Sự tự nguyện không gửi tiền, không du lịch VN sẽ làm chế độ đang cầm quyền khốn đốn từ quốc nội (vi không có mãi lực) đến đối ngoại (vì không có hối đoái)…  Nếu cá nhân chúng ta vô ý thức với lý do ở những xứ tự do chúng ta muốn làm gì thì làm, thi tôi xin đề nghị với những đoàn thể chính trị, tôn giáo, cộng đồng…hãy hoạt động, sinh hoạt một cách hiệu qủa hơn trong đường lối đấu tranh của đoàn thể mình, bằng cách vận động chính phủ nơi quốc gia mình đang cư ngụ, ban hành những Đạo Luật cấm gửi tiền, cấm du-lịch về VN, …
 Không do dự, vì những băn khoăn không gửi tiền của chúng ta là những băn khoăn của đồng bào tị nạn Cuba, của chính phủ HK từ giữa thập niên 1980s, nhưng họ đã thi hành, bây giờ họ đã rất vui mừng vì đã quyết định làm như thế vào năm 2003, để đến năm 2009, Cuba phải thay đổi chính sách.
Còn những người trong nước, chúng tôi biết được những khó khăn của qúi vị, đang sống trên đe, dưới búa.  Nhưng không có nghiã là không làm được, trong mọi cuộc cách mạng, muốn có sự thay đổi, phải có sự hy sinh… ngồi chờ đợi thì sự chết chóc cũng sẽ đến với tốc độ chậm hơn mà thôi… Ngảy xưa, những kẻ đang ngồi trên đầu qúi vị đã áp dụng “du kích chiến” đánh phá để chiến thắng, thì ngày nay, qúi vị cũng áp dụng ngược lại để thay đổi cuộc sống của chính qúi vị. Từng phường, từng xã, từng ấp,,, đêm nào cũng có sự tổn thương vì kết qủa của những anh hùng du kích, thì tinh thần công an, quân đội nhân dân, bọn cường hào ác bá cũng phả tìm cách lo thân, và qúi vị dần dần sẽ chủ động…
Những người cầm bút, những nhà chính trị (lãnh đạo hoặc không lãnh đạo), và những người quan tâm đến nước VN cần phải thay đổi sự phân tách, suy diễn, phê bình của chính mình… Không nên nói về người khác, phóng đại những tài liệu để thỏa mãn cá nhân, đòan thể… mà nên phân tách rút tỉa những kinh nghiệm đưa đến những gì gì chúng ta có thể làm được, thi hành được, phải chủ động…và có lợi cho chính quốc gia của chúng ta…
Khi gặp những khó khăn, phảỉ được bàn cãi, tìm một phương pháp đồng nhất đề giải quyêt.  Những người quan tâm thay đổi VN cần phải có ưu tiên chung để cùng quyết đinh và thi hành thì sẽ không tốn nhiều công sức cũng như vật chất.  Đùng lấy cái sai của người làm điều hãnh diện cho mình, mà phải xét đoán chúng ta đã làm đưọc gi từ kết qủa đó..
Hãy dẹp chữ TÔI mà hãy dùng chữ CHÚNG TA, đừng cho rằng ý kiến của mình đúng mà phải nghĩ đến quyết đinh chung đem đến kết qủa nào tốt nhất cho đất nước Viêt Nam về cả hai phương diện: đối nội cũng như đối ngoại.
·         Đài Loan bị hất ra khỏi Liên Hiệp Quốc làm được, giữ được đất nước của họ, tại sao Việt-Nam chúng ta không làm được?.
·         Do Thái đơn độc đối diện với khối Trung Đông được, giữ được chủ quyền được, tại sao Việt-Nam chúng ta không làm được?.
·         Cộng đồng tị nạn Cuba thay đổi nước Cuba được, vì quyết định không gửi tiền về Cuba, tại sao tị nạn Việt-Nam chúng ta không làm được?
Hay là chúng ta không muốn VN thay đổi vì những sự du lịch gia-tăng, và người Việt Kiều hí hố qúa nhiều, nếu có thay đổi người dân trong nước sẽ biết rõ bộ mặt thật của Việt Kiều? hoặc nếu có sự thay đổi thực sự thì các ngài du lịch VN sẽ hết hí hố?, chẳng lẽ chúng ta ích kỷ chỉ nghĩ đến cá nhân chúng ta như vậy sao?
Chúng ta phải suy nghĩ kỹ càng và tìm hưóng đi cho chính chúng ta, và cho Việt-Nam của chúng ta!  Điều phải làm ngay từ bây giờ là không du lịch và gửi tiển về Viêt-Nam! Người Việt trong nước khẳng định không nhận tiền tù nưới ngoài gửi về dù nhiều hay ít!
Và ngưòi viết cũng tin chắc rẳng, với sự hợp tác của người Việt trong và ngoài nước, chỉ trong một tương lai gần, rất gần, nước Việt Nam sẽ được kính phục khắp Năm châu trong đó có cả kẻ thù của VN tại Phương Bắc! đó là Trung Cộng.
Nguyễn Văn Lương
Florida 4/2012
Trung cộng bỏ đảng ở Trung Quốc
phần 1:
20120429_Paltalk8406_206_TsNguyenVanLuong_part1.mp3
phần 2:
20120429_Paltalk8406_206_TsNguyenVanLuong_part2.mp3
 
phần 3:
20120429_Paltalk8406_206_TsNguyenVanLuong_part3.mp3
Main link:
Không ổn định
Trung Quốc đang tiến vào một thời kỳ có nhiều rủi ro đặc biệt lớn, nếu không được giải quyết sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát.
Năm 2012 có thể là một năm nhiều thách thức trong quá trình phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội tại Trung Quốc. Nổi bật mấy vấn đề về điều chỉnh kinh tế vĩ mô, nợ công địa phương, đô thị hóa và bất ổn định xã hội.
Bước vào giai đoạn tăng trưởng mới không ổn định
Nhiều dấu hiệu về sự suy giảm rõ rệt của nền kinh tế Trung Quốc cho thấy nước này đang bước vào giai đoạn tăng trưởng mới rất không ổn định. Môi trường chính sách cho một số cải cách then chốt đã đảo ngược gần như hoàn toàn so với một năm trước đây. Sự tồi tệ hơn nữa trong môi trường kinh tế toàn cầu đã khiến những cải cách này ít thuận lợi hơn. Trong khi những căng thẳng xã hội và tài chính có hệ thống trong nước tiếp tục tăng lên, bối cảnh kinh tế toàn cầu hiện nay không chỉ hạn chế đáng kể các lựa chọn chính sách cải cách của Trung Quốc mà còn làm tăng nguy cơ của những cải cách sai lầm.
Chính phủ Trung Quốc đã xác nhận nước này đang chuyển từ kỷ nguyên “10+2” với tăng trưởng kinh tế 10% và tỷ lệ lạm phát ổn định 2% sang kỷ nguyên “8+4”. Tiến trình chuyển từ nền công nghiệp nặng sang nền kinh tế dịch vụ công nghệ cao cần chuyển đổi từ sản xuất ồ ạt chất lượng thấp sang sự sáng tạo trong bối cảnh thế giới mà luật quản lý doanh nghiệp được tôn trọng.
Làm sao cân bằng “giàu-nghèo”?
Một số nền tảng của những thành công quan trọng trước đây nay lại trở thành những gánh nặng lớn cho nền kinh tế, trong đó chính sách tỷ giá hối đoái cố định từng đem lại lợi thế rất lớn cho kinh tế của Trung Quốc nay lại trở thành rào cản đối với những cải cách tài chính rộng lớn buộc nước này phải nới lỏng chính sách tiền tệ.
Năm 2011 việc chuyển đổi loại hình và nâng cấp của ngành ngoại thương Trung Quốc được đẩy nhanh rõ rệt, kết cấu thị trường, sản phẩm, chủ thể và vùng miền không ngừng được ưu hoá, xuất nhập khẩu cả năm cơ bản thực hiện phát triển cân bằng. Nhưng trong nửa đầu năm 2012, nước này có thể phải chịu nhập siêu lần đầu tiên trong gần 20 năm qua. Tỷ lệ giữa thặng dư thương mại trên GDP của Trung Quốc đang giảm nhanh chóng là một trong số ít đặc trưng quan trọng và rõ ràng trong môi trường chính sách của nước này.
Các đối tác thương mại của Trung Quốc sẽ phải thích nghi với việc nhập khẩu được sự uỷ nhiệm của Nhà nước tăng lên, trong khi các nước Bắc Mỹ và châu Âu vốn là các thị trường xuất khẩu lớn của Trung Quốc cũng phải tinh lọc chính sách kinh tế để đón nhận dòng đầu tư ra nước ngoài đang tăng lên của Trung Quốc.
Nợ công địa phương ngày càng gia tăng
Khủng hoảng tài chính thế giới đang dần chuyển sang vấn đề nợ công. Gánh nặng nợ công của Trung Quốc khá rộng, việc giám sát quản lý khó khăn nên rủi ro tài chính khá lớn. Theo số liệu do Tổng cục thống kê quốc gia Trung Quốc, tính đến cuối năm 2010, số dư nợ công địa phương của Trung Quốc là 10.700 tỷ nhân dân tệ (NDT) liên quan tới 370.000 hạng mục công trình, tổng cộng trong 1,87 triệu khoản nợ. Có nguồn nghiên cứu độc lập của Trung Quốc cho rằng con số thực tế của nợ công địa phương còn cao hơn rất nhiều. Công ty đánh giá tín nhiệm quốc tế cũng cho rằng tổng số nợ ở vào khoảng 15.000 tỷ NDT.
Cũng có nhiều nhà kinh tế cho rằng dựa vào mức độ phát triển kinh tế của Trung Quốc hiện thời thì quy mô nợ công địa phương vẫn nằm trong phạm vi kiểm soát, trong thời gian ngắn vẫn chưa thể xuất hiện cuộc khủng hoảng nợ công giống như tại châu Âu. Nhưng với cách sử dụng tài chính mạnh tay của chính quyền địa phương, một lượng lớn hạng mục dùng tiền công trái (tiền đi vay) thiếu sự kiểm soát giám sát, cứ tiếp tục như vậy thì áp lực nợ công của Trung Quốc sẽ không ngừng tăng lên.
Vấn đề là thiếu một cơ chế giám sát đôn đốc việc vay nợ của địa phương. Trung Quốc có nhu cầu cao về vốn. Lượng đầu tư vào xây dựng của chính quyền thành phố ở Trung Quốc tăng mạnh, thu nhập tài chính của địa phương không thể chi trả được lượng đầu tư lớn như vậy. Các địa phương xây dựng nhiều đường cao tốc, cải tạo mạnh mẽ bộ mặt thành phố, tiến hành cải cách bảo hiểm y tế, điều này cần tới vay nợ. Hiện ngày có nhiều ông ty tài chính ra đời như cơ chế trung gian, làm cho việc giám sát vay nợ của chính quyền địa phương trở thành vấn đề lớn. Bắt đầu xuất hiện những vi phạm vay vốn.
Hiện nay, để giải quyết vấn đề nhà ở mang tính an sinh, chính quyền địa phương chỉ có thể dựa vào phát hành trái phiếu. Chính quyền địa phương các tỉnh thành ở Trung Quốc đã lần lượt thành lập hơn 6.500 công ty tài chính, dựa vào hình thức đảm bảo của chính quyền, có sự ủng hộ của cơ cấu tài chính để phát hành lượng trái phiếu lớn, huy động các kiểu tiền vốn, khiến cho quy mô nợ công tại các địa phương phình lên nhanh chóng, gây ra những vụ vi phạm vay vốn, nợ kéo dài hoặc từ chối trả nợ ngày càng phát sinh nhiều.
Gần đây, do tiền vốn xoay chuyển khó khăn nên các công ty này liên tục giãn nợ, ngừng hoặc chậm trễ trả nợ cho ngân hàng; một vài doanh nghiệp còn đề xuất “chuyển nợ thành cầm cố”, đem tài sản cố định như công trình xây dựng, đường sá của địa phương ra cầm cố vay nợ, nhằm kéo dài thời hạn trả nợ khiến chất lượng tín dụng của ngân hàng xấu đi, kinh doanh gặp nhiều áp lực. Sự xuất hiện những vụ việc vi phạm cam kết vay vốn của các doanh nghiệp nhà nước cỡ lớn tại Trung Quốc là khởi đầu cho khủng hoảng nợ công tại địa phương.
Chính quyền địa phương đối mặt với thời kỳ đỉnh điểm phải trả nợ. Khả năng trả nợ đang xuất hiện những tình thế không ổn định, viễn cảnh bất động sản không sáng sủa đã khiến cho thuế thu nhập từ bán đất bị giảm sút, mặt khác là chính sách thắt chặt của ngân hàng cũng đã làm mất đi trợ lực đầu tư vay vốn phát triển mà chính quyền địa phương đã dựa vào bao lâu nay. 2.600 tỷ NDT đáo hạn vào cuối năm 2011 và 70% trong số này là trái phiếu do chính quyền có trách nhiệm hoàn trả.
Hiện nay, nguy cơ hủng hoảng nợ công địa phương đang phải đối mặt với một vấn đề mới, đó chính là chuẩn bị giải quyết nhu cầu tiền vốn xây dựng nhà xã hội dựa trên hình thức vay nợ. Bộ Tài chính đã đại diện phát hành lô trái phiếu địa phương đầu tiên để lấy tiền dùng cho các công trình an cư dân sinh tại địa phương. Tin cho biết, tổng lượng trái phiếu loại này phát hành lần đầu có giá trị khoảng 50 tỷ NDT, chiếm 25% tổng mức phát hành cả năm. Biện pháp này có thể giải quyết vấn đề khó khăn tiền vốn trong suốt bao năm qua của chính quyền địa phương hay không, giới tài chính và giới bất động sản đều tỏ ý hoài nghi trước kiểu “nợ mới áp nợ cũ”.
Tình trạng “bán đô thị hóa” và 128 triệu người nghèo
Sau hơn 30 năm cải cách mở cửa, hơn 300 triệu nông dân đã di cư đến khu vực thành thị. Dự kiến đến cuối thời kỳ quy hoạch 5 năm lần thứ 12, tỉ lệ đô thị hóa ở Trung Quốc sẽ đạt 51%. Hiệp hội nghiên cứu khoa học đô thị Trung Quốc cho biết, năm 2010 tỉ lệ đô thị hóa ở Trung Quốc đạt 46,59%, trong khi tỉ lệ về số dân mang hộ khẩu thành thị chỉ chiếm 33% tổng dân số, “như vậy nghĩa là có 13,6%, tức 128 triệu người đang sống ở thành phố không có hộ khẩu thành thị, cũng không được hưởng quy chế dành cho cư dân thành thị”. Họ đã trở nên “phi nông nghiệp” nhưng chưa phải là cư dân thành thị, chưa được hưởng quy chế của cư dân thành thị. Tình trạng này đang thể hiện một mảng diện mạo chân thực về tình trạng “bán đô thị hóa”. Nghĩa là không được hưởng những quy chế đãi ngộ bình đẳng như cư dân thành thị trong rất nhiều phương diện như tiền công lao động, học hành của con cái, bảo hiểm xã hội, nhà ở v.v.. Không có quyền lợi chính trị như được bầu cử ở thành thị… 128 triệu người nói trên đang vất vưởng, quanh quẩn dưới mái hiên ở các đô thị.
Hợp đồng lao động là sự đảm bảo cơ bản cho việc làm của người công nhân, nhưng vẫn có tới 1/3 số lao động ngoại tỉnh không thể ký được hợp đồng lao động. Ngoài ra, cưỡng ép người lao động làm thêm giờ và làm công việc mạo hiểm; tình trạng lao động ngoại tỉnh bị nhân viên quản lý của doanh nghiệp phạt quỳ, phạt đứng, tạm giam và đánh đập vẫn còn xuất hiện, tình cảm mâu thuẫn đối lập giữa công nhân và chủ lao động vẫn khá sâu sắc. Nhiều lao động ngoại tỉnh có cảm giác bị bóc lột và hình thành cảm xúc đối kháng mãnh liệt. Các sự kiện người lao động “liên tiếp nhảy lầu” phần nào phản ánh trạng thái sức khỏe tinh thần của người lao động sa sút.
Vào cuối tháng 11/2011, chính quyền trung ương quyết định đưa mức thu nhập bình quân 2.300 nhân dân tệ của người dân nông thôn làm tiêu chuẩn nghèo mới để được nhà nước hỗ trợ, so với mức 1.196 NDT của năm 2009. Tiêu chuẩn này đã nâng số người được xác định nghèo để được hưởng trợ cấp tăng lên 92%, tức 128 triệu người. Có nghĩa một bộ phận dân chúng sẽ thành “tái nghèo”.
Hai con số “128 triệu” chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên về chữ số, nhưng hai con số đó khi cùng tạo nên một mặt nghiêng phản chiếu về một nước “Trung Quốc chân thực”.
Khủng hoảng về quyền cai trị
Trong năm vừa qua, giới lãnh đạo Trung Quốc đã phải đối mặt với sự bùng nổ của tâm trạng bất mãn của dân chúng về nhiều vấn đề, từ ô nhiễm môi trường, tranh chấp lao động, cho tới nạn chiếm đoạt đất đai bừa bãi. Nhiều nhà phân tích cho rằng quốc gia có nền kinh tế lớn hàng thứ nhì thế giới này đang đứng ở bờ vực của một cuộc khủng hoảng về quyền cai trị.

Năm 2011, có 200.000 cuộc cuộc biểu tình, bạo động quần chúng ở khắp Trung Quốc đòi công lý và chống vi phạm quyền lợi người dân
Trong những năm gần đây, mỗi năm có gần 200.000 vụ rối loạn xã hội xảy ra trên cả nước, trong đó có chừng 2/3 là phát sinh từ nạn tịch thu đất đai bừa bãi. Những vụ gây rối tập thể ở Trung Quốc được gọi là “sự kiện quần chúng”. Hồi tháng 9/2011, dân chúng ở ngôi làng đánh cá Ô Khảm trong tỉnh Quảng Đông đã bày tỏ sự căm phẫn trước điều mà họ cho là sự cấu kết của các quan chức địa phương với những công ty phát triển địa ốc để chiếm đoạt đất đai của họ. Họ đã xông vào trụ sở chính quyền thôn, xung đột với cảnh sát và đòi điều đình với chính quyền cấp cao hơn. Bí thư Đảng ủy ở đây đã phải bỏ trốn.
Ông Malcolm Moore, một nhà báo của tờ Telegraph ở Anh đã tới làng Ô Khảm để tường thuật vụ nổi loạn này, cho biết rằng dân làng chỉ muốn đòi hỏi công lý chứ không đòi cải cách chính trị. Ông ta nhận định: “Những vụ việc như thế này luôn luôn là vì tiền bạc, luôn luôn là vì đất đai. Đây không phải là một phần của một phong trào dân chủ rộng lớn hơn. Đây không phải là một mưu toan để lật đổ bất kỳ một ai. Họ chỉ muốn nói lên một điều là chính quyền địa phương đã không giải quyết những mối bất bình của họ một cách thỏa đáng”.
Tuy nhiên, theo nhận định của Tiến sĩ La Tiểu Bằng, giáo sư kinh tế của Đại học Chiết Giang, giới lãnh đạo Trung Nam Hải đã không làm gì nhiều trong 10 năm qua để kiểm soát các chính quyền địa phương, khiến cho Trung Quốc giờ đây phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng về quyền cai trị. Giáo sư Hồ Tinh Đẩu của Đại học Kỹ thuật ở Bắc Kinh cũng có một nhận xét tương tự: “Trung Quốc đang tiến vào một thời kỳ có nhiều rủi ro đặc biệt lớn, không phải chỉ là một thời kỳ của những rủi ro thông thường. Tôi e rằng nếu chính phủ trung ương không áp dụng các biện pháp để giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng thì chỉ trong vòng 4 hoặc 5 năm tới đây tình hình trên cả nước sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát”.
Những vụ gây rối tập thể ở Trung Quốc trong năm nay có những vụ qui mô lớn và được nhiều người chú ý như vụ kháng thuế ở thành phố Chức Lý ở tỉnh Chiết Giang hồi tháng 10, vụ xuống đường chống đối nạn ô nhiễm của một nhà máy hóa chất ở thành phố Đại Liên hồi tháng 8. Những “sự kiện quần chúng” này đã xảy ra trong lúc có nhiều dấu hiệu cho thấy kinh tế Trung Quốc đang bắt đầu xuống dốc và đời sống của người dân bình thường đã trở nên khó khăn hơn trước.
Sophie Richardson, một chuyên gia về Trung Quốc của Tổ chức Theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch) ở Washington cho rằng, chính phủ ở Bắc Kinh hiện nay vẫn còn có thể dập tắt những vụ rối loạn xã hội một cách có hiệu quả, thông qua việc đàn áp và đe dọa. Tuy nhiên, đây chỉ là một cách giải quyết tạm bợ. Bà cho biết về lâu về dài Trung Quốc cần phải xây dựng một hệ thống tư pháp độc lập và công bằng để người dân có thể dựa vào đó mà giải quyết những vụ tranh chấp trong xã hội và những vụ tranh chấp giữa người dân với chính quyền, thay vì phải thực hiện những hành động quá khích như ở làng Ô Khảm. Gần đây, Thủ tướng Ôn Gia Bảo một lần nữa đã phải lên tiếng công khai ủng hộ quyền sở hữu đất đai của nông dân và chỉ trích tình trạng vi phạm phổ biến ở nông thôn Trung Quốc. Đủ thấy tính phức tạp của vấn đề ấy cũng như ít triển vọng giải quyết.
Giới lãnh đạo Trung Quốc ngày càng lo ngại tình trạng bất ổn xã hội không ngừng tăng lên tới mức có thể gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế trong năm 2012. Chính phủ Trung Quốc buộc phải thúc đẩy các chính sách hoà giải hơn đối với các cuộc bạo động trong năm chuyển giao lãnh đạo chính trị nhằm xoá đi ấn tượng trong dân chúng về việc chính quyền coi trọng lợi ích của tầng lớp trên của xã hội hơn lợi ích của toàn dân. Thách thức chính trị đối với Trung Quốc là liệu nước này có thể duy trì được lợi thế cạnh tranh trong khi phát triển thị trường lao động công bằng hơn./.
Lưu Việt
Powered By Blogger