Vũ Thạch/ Việt Báo
![]() |
|
Phải chăng chỉ con đường thẳng để đi là "phản động" ??
|
Trong thời gian qua, với từng bước xâm lấn ngày
càng trắng trợn của Trung Cộng (TC), người ta càng thấy Ban Tuyên Giáo
Trung Ương lúng túng không biết biện hộ thế nào cho chính sách cứ từ bại
đến thua của lãnh đạo Đảng CSVN. Và như để bù vào khoảng trống đó, đạo
quân dư luận viên (DLV) được lệnh túa ra chửi hết mọi người là "phản
động".
- Ai nhắc lại chuyện lỗ lã Bôxít Tây Nguyên và có địch trên Nóc nhà Đông Dương... là phản động.
- Ai đụng tới chỗ nhược 16 chữ vàng, 4 tốt và quan hệ hữu hảo... là phản động.
- Ai tự tưởng niệm các chiến sĩ Hoàng Sa, Trường Sa, Biên giới 1979... là phản động.
- Ai còn tiếc rẻ vụ sửa Hiến Pháp thua cả Miến lẫn Miên... là phản động.
- Ai đòi bất cứ cái gì "độc lập"... đều là phản động.
- Cả người biểu tình ôn hòa chống giàn khoan và kẻ bạo loạn được công an làm ngơ... đều là phản động.
- Và đặc biệt trên thế giới Internet, blogger, mạng xã hội... chỉ toàn là đám phản động và phản động.
Nhưng có DLV nào hay những người ra lệnh cho họ
dành ra chỉ vài phút để tự hỏi "phản động" là gì không? Hoặc nếu "phản
động" là thế, thì "chính động" là gì? Chính động có đương nhiên tốt
không?
Phản động từ đâu ra?
Theo nghĩa đen và bình thường trong tiếng Việt
thì phản động là di chuyển theo hướng ngược lại với một hướng nào đó.
Nhưng trong lịch sử Việt Nam, từ "phản động" chỉ xuất hiện ở thế kỷ 20
khi được rước từ Tàu về. Đây là chữ dịch của từ ngữ nguyên thủy mà Lenin
đẻ ra -- ít là thế giới tin như vậy vì Lenin dùng các chữ "phản động",
"phản cách mạng" vô số lần khi còn sống.
Nhãn "phản động" từ thời đó cho đến nay vẫn được
dùng để lên án những ai không đồng ý với chế độ cộng sản, hay nói chính
xác hơn là không đồng ý với các lãnh tụ cộng sản đang nắm quyền. Và kẻ
phản động bị xem là đương nhiên xấu.
Điều cần nhấn mạnh là yếu tố "chỉ so với các
lãnh tụ đang nắm quyền" khi qui kết ai là phản động. Vì đã có rất nhiều
trường hợp như lãnh tụ Trotsky, một trong những cha đẻ ra chế độ Liên
Bang Xô Viết. Khi Lenin còn sống, mỗi lời của Trotsky đều là chân lý và
mọi kẻ bất đồng với chân lý đó đều là lũ phản động. Nhưng chỉ mấy tháng
sau khi Lenin chết và Stalin thắng thế trong cuộc chạy đua lên ngôi,
cũng cùng là con người và tư tưởng Trotsky đó, thì nay bị lên án là tên
"cực kỳ phản động". Bà Giang Thanh là trường hợp tương tự tại Trung Quốc
trước và sau ngày chết của Mao Trạch Đông. Và hiện nay là trường hợp
Chu Vĩnh Khang, Giang Trạch Dân. Ông Khang từng là trùm công an - an
ninh Trung Quốc, từng ném bao kẻ phản động vào chỗ chết, nhưng nay đang
bị lãnh tụ đương quyền Tập Cận Bình đạp xuống cùng hàng những kẻ phản
động đó. Sẽ không mấy ai kinh ngạc nếu vài tháng nữa thuyết Ba Đại Diện
của ông Giang Trạch Dân bị liệt vào loại tư tưởng phản động. Và còn hàng
ngàn hàng vạn thí dụ khác nữa tại từng chế độ cộng sản.
"Phản động", do đó, chỉ là vũ khí chính trị của
lãnh tụ nào đang ngồi ở cực đỉnh. Các định nghĩa về "thành phần phản
động" có thể thay đổi bất kỳ lúc nào. Đặc biệt trong thời Cách Mạng Văn
Hóa của Mao Trạch Đông, có khi chỉ qua một đêm định nghĩa đã đổi khác,
và vô số cán bộ hôm trước còn đứng giảng huấn người khác về cách mạng,
hôm sau đã bị đội mũ giấy ghi chữ phản động hữu khuynh, phản động tả
khuynh. "Phản động" do đó hoàn toàn không có giá trị khoa học hay luân
lý, và hầu như luôn đi ngược lại đạo lý truyền thống của các dân tộc.
Dân chúng dưới mọi chế độ cộng sản, từ thời
Lenin, Stalin, đến Mao Trạch Đông dài đến Tập Cận Bình, đã từ lâu đồng
nghĩa "phản động" với kinh hoàng.
Phản động đồng nghĩa với "không biết bị bắt đi
lúc nào, ngày hay đêm, và biệt tăm tích kể từ đó" dưới thời Lenin. Phản
động đồng nghĩa với "không biết sẽ bị tra tấn đến cỡ nào và sẽ tự thú
thêm cho mình bao nhiêu tội nữa trước khi bị bắn" dưới thời Stalin. Phản
động đồng nghĩa với "chết đói cứng đờ giữa các trại tù tuyết trắng"
dưới thời Kim Nhật Thành. Phản động đồng nghĩa với "té chết trong những
hố phân lỏng tại các trại lao cải" dưới thời Mao Trạch Đông. .
Phản động vào Việt Nam.
Từ ngày đưa chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam và
đặc biệt từ khi lên nắm quyền cai trị đất nước, các đời lãnh đạo đảng
CSVN đều áp dụng triệt để công thức từ các nước đàn anh vừa để tận diệt
tất cả những ai không đồng ý với các lãnh tụ đang nắm quyền, vừa để giữ
số đông quần chúng trong tình trạng sợ hãi thường xuyên. Trong số các
hung thần chuyên cột bảng "phản động" vào cổ hàng ngàn nạn nhân trong
thế kỷ 20 phải kể đến Bộ Trưởng Công An đầu tiên Trần Quốc Hoàn, Trưởng
Ban Tổ Chức Trung Ương Lê Đức Thọ, Trưởng Ban Tuyên Truyền Trung Ương Tố
Hữu. Các đối tượng phản động cùng với cha mẹ, vợ con, cháu chắt và cả
vòng bạn hữu của họ đều lập tức bị liệt vào loài đáng bị xa lánh, tù
tội, đói khát, và vô học suốt đời. .
Ngày nay cũng vậy, cả công an và ban tuyên giáo
đều đang liên tục dùng lại nhãn "phản động" với ước mong nó cũng lại
gióng lên sự kinh hãi tột cùng trong lòng người nghe -- cả các đối tượng
lẫn những người chung quanh họ - như trong thế kỷ trước. Họ luôn nghĩ
ra những cách mới để làm cuộc đời các "thành phần phản động" phải tăng
thêm phần khốn đốn, đau đớn, bất kể những người này còn ở ngoài hay đã
vào tù. .
Nhưng trong suốt 60 năm ngột ngạt, căng thẳng
ngày đêm đó vẫn có những con người đứng lên chấp nhận mình là "phản
động". Họ là những nhà trí thức như trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm phản đối
chính sách Cải Cách Ruộng Đất và đòi quyền tự do tư tưởng; kéo dài đến
những đảng viên CS cao cấp như Trần Xuân Bách, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Hoàng
Minh Chính,... đòi trả quyền làm chủ đất nước cho người dân; dài đến
những người yêu nước nồng nàn như Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Xuân
Nghĩa, Trần Huỳnh Duy Thức,... báo động toàn dân về tai họa Bắc Thuộc. .
Câu hỏi được đặt ra là tại sao những con người này lại nhất quyết chọn con đường "phản động" như thế? .
Câu trả lời có lẽ khá đơn giản: Vì họ còn lương tâm. .
Phản động thật đáng kính ! .
Chính vì còn lương tâm mà các vị này không thể
đi tiếp theo hướng làm lụn bại đất nước và con người. Họ chọn hướng đi
ngược lại. Chính vì còn lương tâm đối với công đức hy sinh của cha ông,
đối với xương máu của đồng đội, và đối với tương lai các thế hệ cháu con
mà họ nhất quyết phải đổi hướng, phải "phản động", bất chấp các tai họa
trút xuống trên đầu họ và gia đình. Chỉ nội chừng đó thôi, những con
người can đảm đó đã quá đáng kính phục rồi. .
Nhưng còn hơn thế nữa, những con người phản động
này có tầm nhìn rất xa. Từ những năm 1950, 1960, trong lúc thế hệ lãnh
đạo Đảng đầu tiên còn mê tít chủ nghĩa Cộng Sản, thì những Phan Khôi,
Phùng Quán, Lê Đạt, Nguyền Mạnh Tường,... đã báo trước hậu quả của nạn
diệt trừ văn hóa dân tộc qua đủ loại chính sách, từ giết chết tự do tư
tưởng trong lãnh vực văn hóa đến giết chết hệ thống nông nghiệp hài hòa
truyền thống qua Cải Cách Ruộng Đất. Phải mất gần nửa thế kỷ sau, giới
lãnh đạo Đảng mới nhận ra sai lầm, mới nhận ra những cảnh báo của nhóm
Nhân Văn, Giai Phẩm là đúng. Không kính phục những con người phản động
đó sao được? .
Và ngày nay, vẫn đang có những tiếng nói phản
động đáng kính khác vạch ra hệ quả của bản Hiến pháp đổi mới như cũ; bản
Hiến Pháp chắp nối đầu gà với đuôi vịt, đang tiếp tục ghìm đất nước vào
vị trí đi sau các nước trong vùng. Và trong những tuần qua, tiếp theo
sau vụ giàn khoan HD981, các kêu gọi "thoát Trung" lại vang lên, ngược
chiều với các dạy bảo "đã lỡ lệ thuộc lắm rồi nên phải tiếp tục nương
vào Bắc Kinh mà sống"..
Không kính phục sao được khi các tính toán của
các nhà khoa học phản động đã được thực tế chứng minh là quá chính xác.
Với các dẫn chứng khoa học và dùng kinh nghiệm của nhiều nước, các
chuyên gia Việt Nam đã đưa ra các tính toán cho thấy sự tai hại, phi lý
và lỗ lã của ý định khai thác Bôxít Tây Nguyên bên cạnh các nguy hiểm
của việc giao Nóc nhà Đông Dương cho người nước ngoài. Các lời can gián
chân thành của họ lập tức bị xem là ngược với "chủ trương lớn của Đảng".
Các kết quả nghiên cứu của họ bị thay thế bằng các con số tính toán từ
các "chuyên gia Trung Quốc". Và các tiếng nói phản động bị bịt hẳn với
nghị quyết Cấm Phản Biện Tập Thể. Phải mất hơn 5 năm sau, lãnh đạo Đảng
mới thừa nhận sự tai hại và lỗ lã tận xương tủy của các khu khai thác
Bôxít Tây Nguyên (trong cùng chuỗi thất bại của nhà máy lọc dầu Dung
Quất và sự lụn bại của tất cả các tổng công ty và tập đoàn kinh tế).
Tiếng nói của giới chuyên gia Việt Nam chân chính không chỉ đáng kính
phục mà còn rất cần thiết cho hiện tại và tương lai của đất nước. Ai
biết các đặc tính của Việt Nam và yêu đất nước Việt Nam hơn những người
dám phản động này? .
Và ngày nay, vẫn đang có những tiếng nói phản
động đáng kính khác cố gào lên khuyên can ý định xây các lò điện hạt
nhân tại Việt Nam, nơi mà chỉ các đập thủy điện cũng chưa xây dựng, vận
hành, hay bảo quản nổi cho ra hồn, và năm nào cũng gây ra thiệt hại nhân
mạng và tài sản một cách rất vô trách nhiệm. .
Không kính phục sao được khi các tư tưởng phản
động đến từ những khối óc sáng suốt nhất. Trong nhiều năm toàn ban lãnh
đạo Đảng nhảy tung tăng son-đố-mì giữa vòng 16 chữ vàng, 4 tốt và quan
hệ hữu hảo, thì những nhà yêu nước như Điếu Cày, Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần
Huỳnh Duy Thức,... chấp nhận tù ngục để cố báo động với toàn dân đó là
cái bẫy lừa bịp. Trong lúc lãnh đạo đảng suốt từ Hội Nghị Thành Đô đến
nay liên tục nhượng bộ Bắc Kinh nhân danh "bảo vệ hòa bình và để chúng
không lấn thêm nữa", thì các tiếng nói phản động đã chỉ ra nguyên lý
"nhân nhượng kẻ ác chỉ là hành động khuyến khích xâm lược và chiến
tranh". Thực tế hiện nay, đặc biệt với vụ giàn khoan HD981, đã chứng
minh sự sáng suốt của thành phần phản động. .
Và ngày nay, vẫn đang có những tiếng nói phản
động đáng kính khác kêu gọi lãnh đạo Đảng phải tận dụng mùa biển động
này để gấp rút kiện TC ra tòa án quốc tế. Dù thua, thắng, hay huề đều có
lợi cho chủ quyền đất nước. Cùng lúc, cũng phải tận dụng khoảng thời
gian quí báu này để gấp rút xây dựng các liên minh phòng thủ chung tại
Biển Đông. Lãnh đạo Đảng không còn lý do gì để tiếp tục ôm chặt con
đường đàm phán song phương cực kỳ tai hại hiện nay nữa. Và nhất là không
được tiếp tục đẩy ngư dân tay không ra khơi làm "cột mốc sống" thay cho
hải quân và cảnh sát biển nữa. .
Ngày 28.7.2014, lại thêm tiếng nói đồng thanh
rất đáng kính phục của 61 đảng viên CSVN đi ngược với ước muốn của lãnh
đạo. Các vị này yêu cầu lãnh đạo phải công bố các mật ước tại Hội Nghị
Thành Đô 1990, một hội nghị được xem là biểu hiện của tâm thức "thà mất
nước chứ không mất đảng"..
* * *.
Càng hò hét dán nhãn người khác là phản động,
lãnh đạo Đảng càng thừa nhận toàn bộ hệ thống tư tưởng và guồng máy cai
trị của họ đang đi ngược lại với đạo lý dân tộc và truyền thống đặt tổ
quốc trên hết của người Việt Nam.
Chưa bao giờ PHẢN ĐỘNG lại đáng quí, đáng kính,
và cần thiết cho vận mạng đất nước bằng lúc này... trước khi tiến trình
mất chủ quyền không còn lật ngược được nữa. Như một nhà yêu nước đang
ngồi giữa tù ngục từng nói: "Trong tình hình đất nước hiện nay, nếu
không phản động thì không phải là con người, nhất là không phải con
người Việt Nam."
Vũ Thạch/ Việt Báo


0 comments:
Post a Comment