David Brown – DCVOnline lược dịch
Đối đầu với Trung Quốc
Theo Mỹ cứu nước; theo Trung Quốc cứu
đảng. Câu nói này, nghe nói khắp mọi nơi tại Việt Nam, chỉ rõ vị thế địa
chính trị lưỡng nan của đảng Đảng Cộng sản hiện nay.
Bốn mươi năm sau khi người lính Mỹ cuối
cùng rời khỏi Việt Nam, thì bên thắng cuộc – giành được độc lập và thống
nhất đất nước – đã mất đi tính hợp pháp của nó. Quay về ca ngợi nhân
cách Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông cũng không có thể khôi phục
được cái hào quang và dường như cũng không giải quyết tận gốc nạn tham
nhũng toàn tập. Trách nhiệm lớn nhất của chế độ là sự thất bại trong
việc dựng lại một nền kinh tế sa sút. Nhưng dư luận cũng khinh bỉ sự bất
lực của đảng CS trong việc bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trước Trung
Quốc.
Quan điểm của người dân trên đường phố
tại Hà Nội hay ở thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Kinh đã vứt bỏ chiếc áo
choàng “trỗi dậy hòa bình” và trở lại với vai trò lịch sử là một gã
giang hồ trong khu vực. Tuyên bố ngang ngược khôi hài về biển và tài
nguyên khoáng sản của toàn bộ biển Đông chỉ là ví dụ nổi bật nhất. Trung
Quốc xây cả một chuỗi các con đập trên sông Mê Kông ở tỉnh Vân Nam và
có kế hoạch xây thêm 11 đập ở hạ lưu ở Lào đe dọa khả năng duy trì độ
màu mỡ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
Doanh nghiệp Trung Quốc cũng đang theo
đuổi khoáng sản và các nguồn tài nguyên gỗ ở Lào, thách thức quyền bá
chủ ở sân sau của Việt Nam. Và ngay tại Việt Nam, mực đầu tư của TQ đang
tăng trong các khu vực công nghệ, xây dựng và các công ty khai thác mỏ —
đáng chú ý là dự án bauxite nhiều tỷ đô la của Chinalco ở Tây Nguyên —
đã bị chỉ trích nặng nề. Hàng hóa giá rẻ và thường kém chất lượng của
Trung Quốc đã tràn ngập thị trường Việt Nam, nghiền nát giới sản xuất
địa phương.
Người dân Việt Nam muốn trả đũa. Nhưng
họ không hiểu rằng lực lượng vũ trang của Việt Nam là không thấm gì so
với Trung Quốc, hay Việt Nam rất dễ gục ngã khi bị trả đũa kinh tế. Giới
phân tích phương Tây thường cho rằng “tính quyết đoán” Trung Quốc hiện
nay là do làn sóng chủ nghĩa dân tộc và tại động thái của các cơ quan an
ninh TQ quá hăng say, nhưng đối với người dân Việt Nam rõ ràng là sự
gây hấn của Trung Quốc được Bắc Kinh chủ động.
Điều đó là không có gì mới: đề tài lớn
của lịch sử dân tộc mà tất cả mọi người đã được học ở trường là trường
kỳ kháng chiến và thành công đánh đuổi quân xâm lược. Và hầu hết các
đoàn quân đội viễn chinh vượt qua biên giới của Việt Nam trong suốt 2000
năm qua là quân Tàu. Không có lý do gì khiến lịch sự lại phải là khác
đi trong giai đoạn này.
Hợp tác gai góc
Việt Nam và Trung Quốc có chung đườg
biên giới dài 1.350 km, và nhiều cái chung khác. Cả hai đều là những
quốc gia cộng sản với một nền văn hóa chính trị được hình thành bằng tư
tưởng tân Nho giáo với một hệ thống quyền lợi dựa trên công cán (với
đảng) và bè phái. Đảng Cộng sản còn sống hôm nay nhờ đã vứt đổ nền kinh
tế của chủ nghĩa Mác nhưng vẫn nuôi cả một bộ máy nhà nước công an. “Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của họ cho phép thị
trường tự do sống động cùng tồn tại với hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước
[chính phủ làm chủ ngành công nghiệp nặng.]
Cả Bắc Kinh và Hà Nội đang điên đầu vì
những lời chỉ trích sống động của giới bất đồng chính kiến trên
internet. Các yếu tố văn hóa và chính trị tương đồng này đã củng cố một
mạng lưới tham vấn giữa đảng với đảng và nhà nước với nhà nước nhằm mục
đích duy trì sự hợp tác giữa hai chế độ.
Tuy nhiên, quan hệ bình thường giữa hai
nước đã trở nên gai góc. Vị trí quan trọng của Trung Quốc ở mặt địa
chính trị và một nền kinh tế lớn hơn có nghĩa là mối quan hệ với Việt
Nam cơ bản là không công bằng. Khi người Trung Quốc chú ý đến Việt Nam,
họ thường coi Việt Nam như là một tỉnh ương ngạnh không biết sao đã trôi
khỏi vùng kiểm soát của TQ.
Ngược lại, 90 triệu dân của Việt Nam
luôn luôn không thoải mái với những người hàng xóm phía bắc, đông gấp 15
lần với một nền kinh tế lớn hơn 50 lần Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ
không khấu đầu trước Bắc Kinh khi sự toàn vẹn lãnh thổ đang bị đe dọa.
Trừ Hồ Chí Minh ra, những anh hùng vĩ đại nhất của Việt nam là những vị
tướng đã đánh đuổi quân xâm lược Trung Quốc, hết triều đại này sang
triều đại khác. Gần đây nhất là năm 1979, gần 20.000 binh sĩ Trung Quốc
đã chết khi Đặng Tiểu Bình tìm cách “dạy cho Việt Nam một bài học” vì đã
lật đổ đàn em Mao-ít của Bắc Kinh ở Campuchia và liên minh với Liên Xô.
Vào giữa những năm 1990, Trung Quốc và
Việt Nam đã trở lại mối quan hệ tương đối thoải mái. Cả hai quốc gia đã
bận tâm để cải cách kinh tế nội bộ, Liên Xô đã tan rã, và Trung Quốc
treo tấm biển quảng cáo “trỗi dậy hòa bình” của mình với Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), mà hiện nay gồm cả Việt Nam.
Thương mại song phương đã mở rộng, đã có
cuộc thảo luận về nâng cấp “hành lang thương mại” từ nội địa phía tây
nam Trung Quốc đến những bến cảng Việt Nam, và các cuộc đàm phán để phân
định biên giới đất liền đã tiến triển tốt. Ngay cả những tuyên bố đối
nghịch về chủ quyền ở các rạn san hô, đá và bãi cát ngầm ngoài Biển Đông
dường như được đối xử tốt hơn, nếu chưa đến được giải đáp sau cùng.
Tuy nhiên, tất cả đã thay đổi trong năm
2009. Dù cố tình hay vì rủi ro ở mặt ngoại giao, Trung Quốc không còn
bằng lòng với những tuyên bố chủ quyền tròng chéo ở Biển Đông. Tháng
Năm, 2009, Trung Quốc đã trình cho Liên Hiệp Quốc bản đồ tuyên bố “chủ
quyền không thể tranh cãi” chiếm trên 80 phần trăm diện tích Biển Đông.
Căng thẳng đã gia tăng ngay sau đó, và
kéo cả những quốc gia không ở trong khu vực kể cả Mỹ vào vòng, và thách
thức twuej đoàn kết củ khối ASEAN. Việt Nam và Philippines đã gánh chịu
hệ quả của các cuộc “tấn công” của Trung Quốc nhằm dựng lên những “dữ
kiện” [lịch sử], dù không phù hợp với luật pháp quốc tế, nhưng lại rất
khó bác bỏ. Chủ nghĩa dân tộc sôi sục tại cả ba quốc gia, có mòi gây ra
những cuộc xung đột vũ trang trên biển. Chính sách trì hoãn đối với
Trung Quốc của Hà Nội đã tan tác.
Nhiều người thuộc tầng lớp trí thức
ngoài đảng [Cộng sản Việt Nam], cũng như một số người trong đảng, tin
rằng giải đáp là tạo một liên minh kinh tế và quân sự trên thực tế với
Mỹ. Tuy nhiên, những thành viên cao cấp của đảng vẫn còn rất hoài nghi
về ý định của Mỹ, tự xem như đang bị khóa trong một cuộc xung đột với
chủ nghĩa tự do phương Tây, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Họ đã
miễn cưỡng đổi mới nhằm tạo thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu
và kéo vào Hoa Kỳ vào cuộc để đối trọng với Trung Quốc.
Đảng viên đảng CSVN phản đối yêu cầu của
Mỹ muốn chính quyền Việt Nam cho dân có tự do dân chủ hơn, sợ rằng mục
tiêu thực sự của Washington là để đánh sụp chế độ Cộng sản. Dù đang có
nhiều xích mích gần đây, CSVN không tin giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ phản
bội một đảng Cộng sản giống như đảng CS của chính TQ.
Vẫn chờ của trên trời rơi xuống
Sự thật, Trung Quốc hiện nay chẳng quan
tâm nhiều đến việc giúp đỡ người anh em cộng sản (VN) bám giữ quyền lực
hơn việc khai thác tài nguyên trong khu vực và vươn dài những xúc tu
kinh tế. Với một túi đầy ắp tín dụng xuất khẩu và có đủ điều kiện vay
vốn ưu đãi từ các ngân hàng nhà nước, những công ty Trung Quốc đã trở
thành đấu thủ lớn trongnhuwxng công trình phát triển cơ sở hạ tầng tại
Việt Nam, đặc biệt là việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện.
Phần lớn các công ty Trung Quốc không
cạnh tranh với nhà thầu Việt Nam, nhưng tranh thầu với các công ty Nhật
Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ hoặc Âu bằng cách đấu thầu giá thấp. Nhưng các
doanh nghiệp Trung Quốc bị cáo buộc là đã dùng công nhân người TQ và sản
xuất công trình xây dựng chất lượng thấp, trễ hạn thường xuyên và chi
phí quá mức. Nhóm diều hâu về an ninh quốc gia tại Việt Nam tiếp tục
khẳng định sự phụ thuộcvào nhà thầu Trung Quốc trong lĩnh vực chiến lược
như năng lượng sẽ làm suy yếu nền an ninh quốc gia.
Một bất mãn khác là thâm hụt thương mại
của Việt Nam đối với Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của VN, mà
chuyên viên kinh tế Trần Văn Thọ gọi là một “cơn sóng thần công nghiệp.”
Thương mại của Việt Nam với chín nước ASEAN khác và với Nhật Bản tương
đối cân bằng, và nó có một thặng dư rất lớn trong thương mại với Liên
minh châu Âu và Mỹ. Nhưng giao thương với Trung Quốc Việt Nam bị thâm
hụt 16,4 tỷ USD trong năm 2012, do đó Trung Quốc có thặng dư thương mại
song phương của đến 40 phần trăm.
Phần lớn hàng xuất khẩu của Trung Quốc
là các sản phẩm lắp ráp cho các xưởng chế biến hàng xuất khẩu của Việt
Nam: vải, dây kéo, nút, dây điện, bảng mạch, và các vật dụng đủ loại.
Nhưng Trung Quốc cũng cung cấp tư liệu sản xuất đắt tiền để trang bị cho
các nhà máy của Việt Nam và xây dựng cơ sở hạ tầng.
Thành phần thứ ba và rất đễ thấy là hàng
tiêu dùng, bán giá rẻ để cạnh tranh với hàng trong nước. Báo giới Việt
Nam thường xuyên đua tin tuyên bố rằng Trung Quốc đổ hàng nguy hiểm hoặc
chất lượng kém, và ứng xử khiêu khích của Bắc Kinh ở Biển Đông dẫn đến
lời kêu gọi tẩy chay hàng hóa Trung Quốc.
Không ai định tình trạng ra nỗi này.
Theo dự đoán của các nhà kinh tế, đáng lẽ giờ này Việt Nam đã phải cơm
trưa của Quảng Đông. Với giá lao động thấp hơn rất nhều, Việt Nam là
điểm đến hợp lý cho các nhà máy từ trung tâm chế xuất của Trung vì chi
phí rẻ hơn. Kỹ nghệ hàng may mặc và các ngành công nghiệp giày dép từ
lâu đã chiếm khoảng 20 phần trăm hàng xuất khẩu của Việt Nam; Việt Nam
đã bắt đầu vào khu công nghệ này từ những năm 1990 khi hàng may mặc và
giày dép xuất khẩu của Trung Quốc đã bị giới hạn dưới ở thị trường EU và
Mỹ.
Tuy nhiên, năng suất lao động còn thấp,
tiền lương thực tế tăng ở mức 10 phần trăm một năm trong khoảng 2006-11,
và chính yếu là Việt Nam đã thất bại trong việc thu hút các nhà sản
xuất từ Trung Quốc. Trong khi giá lao động tiếp tục tăng ở cả Trung Quốc
và Việt Nam, các nhà máy TQ đang chuyển dần sang Campuchia, Bangladesh
và ngay cả Myanmar.
Không hẳn tất cả đều là tin xấu. Khi nền
kinh tế toàn cầu từ từ phục hồi, khu vực đầu tư nước ngoài của Việt Nam
đang tăng trưởng lại. Thay vì chuyển nhà máy từ Trung Quốc, một số công
ty đa quốc gia và các nhà thầu của họ đã đa dạng hóa cơ sở sản xuất
bằng cách mở thêm các nhà máy tại Việt Nam. Bằng chứng lặt vặt cho thấy
một khuynh hướng rõ rệt chuyển dần sang những loại đầu tư chất lượng cao
hơn, để có thể hưởng lợi vì được giảm thuế đáng kể.
Ông Bùi Quang Vinh, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nói trên Truyền hình Việt Nam (VTV):“Thái Lan và Indonesia là hai thị trường rất hấp dẫn ở châu Á và đã mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài trước Việt Nam.” Kết quả là, có hơn 7.000 doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại Thái Lan, trong khi số lượng các công ty Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam đứng chỉ ở mức 1.500, ông nói.“Việt Nam là mảnh đất màu mỡ cho đầu tư nước ngoài do lao động rẻ, nguồn tài nguyên phong phú và nhiều ưu đãi 20 năm trước đây.”“Giá lao động rẻ không còn là một lợi thế vì nền kinh tế của Việt Nam đang phát triển, thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng, và mức lương tối thiểu cũng tăng, đã làm các doanh nghiệp FDI e ngại.”“Khi những lợi thế đang dần biến mất, chúng ta phải lựa chọn các dự án công nghệ cao, khu vực có nhiều trị giá gia tăng và ít yếu tố không tốt cho môi trường. Kết quả là gần đây số lượng các dự án FDI mới đăng ký đã giảm xuống.”“Các doanh nghiệp FDI cũng mang đến cho Việt Nam các công nghệ mới và mô hình quản lý cho phép thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại.” [Thoai Tran, TuoitreNews.vn]
Các công ty lập xưởng mới hoặc mở rộng
nhà máy lắp ráp gồm những hãng có tiếng như Canon, Samsung, Intel và
IBM, Hitachi, Panasonic và Nokia. Tuy nhiên, gần như tất cả các nguyên
liệu dùng để sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam đều được nhập cảng,
một phần từ Trung Quốc. Trị giá gia tăng duy nhất ở Việt Nam, thông
thường, là sức lao động — điều mà Trung Quốc có thể làm có hiệu quả hơn
và trên một quy mô lớn hơn nhiều.
Sai lầm chiến lược toàn diện
Năm 2008, đỉnh điểm của một giai đoạn
đầm ấm hơn trong mối quan hệ Việt-Trung, Chủ tịch Trung Quốc, Hồ Cẩm Đào
và người đối tác Việt Nam, Nông Đức Mạnh, tuyên bố một “mối quan hệ hợp
tác chiến lược toàn diện” song phương. Và nếu Trung Quốc thực sự quan
tâm nuôi dưỡng một mối quan hệ đặc biệt với Việt Nam – và qua đó tăng
cường thế lực ngoại giao của mình ở Đông Nam Á – Bắc Kinh đang ở trong
một vị trí để giúp đỡ.
Mặc dù nhà cầm quyền Việt Nam không thừa
nhận là không lo lắng về sự mất cân bằng thương mại song phương, nhưng
nó vẫn là một trách nhiệm chính trị kinh niên. Trung Quốc nhập khẩu rất
nhiều cao su, than, dầu, gỗ và sản phẩm nông nghiệp, nhưng không quan
tâm đến hàng hóa công nghiệp của Việt Nam. Hành động thân thiện bằng
cách tăng nhập khẩu hàng công nghiệp của Việt Nam Trung Quốc sẽ chẳng
tốn bao nhiêu nhưng lại là tin rất tốt cho Hà Nội.
Trên hết, một đề nghị chân thành để cùng
khai thác tài nguyên khoáng sản và đồng quản lý nguồn thủy sản trong
khu vực tranh chấp ở Biển Đông có thể là một đòn thay đổi cục diện,
trong cả hai mối quan hệ với Việt Nam và với các nước ASEAN.
Tuy nhiên, thực tế là mối quan hệ giữa
Bắc Kinh và Hà Nội đã trở nên bất ổn định một cách nguy hiểm kể từ khi
có thỏa thuận năm 2008 [“mối quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện” song
phương]. Áp lực của Trung Quốc về các vấn đề chính trị và chiến lược đã
dồn giới lãnh đạo của Việt Nam vào ngõ cụt, có thể đe dọa sự sống còn
của họ. Bắc Kinh đã củng cố vị thế của mình với dân TQ theo chủ nghĩa
dân tộc bằng cách phô trương sức mạnh ở Biển Đông, trong khi đó sự vô
hiệu và bất lực của Hà Nội trong việc chống lại những hành động khiêu
khích của Trung Quốc đã liên tục xói mòn vị thế của nhà nước VN đối với
những người dân theo chủ nghĩa dân tộc.
Chỉ còn thiếu màn xung đột vũ trang,
người ta không tưởng tượng nổi TQ sẽ làm gì thêm để đẩy nhanh hơn sự sụp
đổ của chế độ “chủ nghĩa xã hội – kinh tế thị trường” của nước bạn,
đồng minh ý thức hệ duy nhất trên thế giới. Trong tất cả các khả năng,
điều này sẽ tạo ra lớp lãnh đạo mới tìm cách gây thiện cảm với Mỹ – một
kết quả hoàn toàn tự chuốc lấy thất bại cho TQ.
Đáng lo ngại hơn, một cuộc xung đột vũ
trang giữa hai nước không phải là không thể xảy ra. Trung Quốc có hỏa
lực hơn xa Việt Nam, nhưng Hà Nội đang gia tăng khả năng vũ trang phòng
không và để bảo vệ vùng biển. Nếu bị dồn vào chân tường, lịch sử cho
thấy rằng Việt Nam sẽ đánh lại. Một tính toán sai lầm của cả hai bên có
thể dẫn đến một cuộc đụng độ. Cuộc chiến này sẽ đẫm máu, với những hậu
quả không thể đoán trước. Trung Quốc có thể tiếp tục chơi trò bắt nạt –
nhưng họ đang chơi với lửa.
© 2013 DCVOnline
Nguồn: Vietnam: Playing with fire. David Brown, Asia sentinel, 07/07/2013. David Brown là một nhà ngoại giao đã nghỉ hưu và thường xuyên viết cho Asia Sentinel. Ông viết bài này cho Tạp chí Kinh tế “Gavekal Dragonomics” ở Hồng Kông.
0 comments:
Post a Comment