Ông Nguyễn Gia Kiểng trả lời phỏng vấn của nhà báo Trần Quang Thành
"Cho đến ngày hôm nay tất cả cấp lãnh đạo đảng cộng sản, dù là Nguyễn
Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng hay bất
cứ ai, có thể có quan điểm khác nhau trên nhiều vấn đề nhưng họ đều đồng
ý phải dựa Trung Quốc để giữ nguyên chế độ. Điều họ cần nhận định ra
trước khi quá trễ là Trung Quốc không còn là chỗ dựa nữa. Trên thực tế
họ đang dựa lưng vào môt bức tường bằng giấy..." - Nguyễn Gia Kiểng.
*
Lời giới thiệu: Trung Quốc nuôi mộng vượt qua mặt Hoa Kỳ
để thành cường quốc số 1 của thế giới. Mục tiêu đó chưa đạt được nhưng
một tiêu khác đạt được: Trung Quốc đã là nước lôi kéo nhiều chú ý nhất
trong tuần lễ đầu tiên của năm 2016.
Ngày 04-01-2016, ngày đầu tiên trong năm 2016 của các thị trường chứng
khoán, thị trường chứng khoán của Trung Quốc đã phải đóng cửa sau nửa
ngày hoạt động vì sụt giá hơn 7%.
Ngày thứ năm 07-01 lại phải đóng chỉ sau 15 phút niêm yết vì cũng bị sụt giá hơn 7%.
Trung Quốc còn được đặc biệt chú ý sau khi chế độ cộng sản Triều Tiên,
tức Bắc Hàn, cho nổ trái bom Hydro đầu tiên ngày 06/01. Mọi con mắt của
thế giới đổ về Trung Quốc bởi vì Trung Quốc được coi là quan thày cấp
dưỡng của chế độ quái dị này. Chưa hết, cùng với năm 2016 những máy bay
đầu tiên của Trung Quốc đáp xuống đảo đá Chữ Thập trong quần đảo Trường
Sa mà Trung Quốc đã đánh chiếm của Việt Nam từ năm 1988. Trong suốt năm
qua Trung Quốc đã thực hiện những công trình xây dựng rất lớn trên các
đá đã chiếm của Việt Nam, biến các đá nhỏ này thành những đảo nhân tạo
lớn với dụng ý lộ liễu là tăng cường sự hiện diện tại quần đảo này và
giành thế áp đảo trên Biển Đông. Đặc biệt trên đá Chữ Thập Trung Quốc đã
xây một phi trường với bãi đáp dài 3.000m.
Từ Paris, ông Nguyễn Gia Kiểng, thường trực ban lãnh đạo Tập Hợp Dân Chủ
Đa Nguyên, đã trả lời một cuộc phỏng vấn của nhà báo Trần Quang Thành
về những biến động do Trung Quốc gây ra.
Sau đây là tóm lược những phát biểu chính.
Trần Quang Thành (TQT): Xin chào ông Nguyễn Gia Kiểng.
Nguyễn Gia Kiểng (NGK): Xin chào ông Trần Quang Thành.
TQT: Thưa ông Nguyễn Gia Kiểng,
Vào nửa đầu tháng Giêng năm 2016 này tình hình ở Trung Quốc và 2 nước
lân bang của Trung Quốc có nhiều vấn đề khiến thế giới quan tâm.
Tại Trung Quốc, thị trường chứng khoán Thượng Hải, Thẩm Quyến đang
sụt giảm nghiêm trọng và có ngày phải đóng cửa. Ô nhiễm môi trường đến
mức nghiêm trọng đang dẫn đến hàng nghìn xí nghiệp có nguy cơ phải phá
sản. Trung Quốc cải tổ quân sự. Còn ở hai nước lân bang thì phía Đông
Bắc Á Bắc Hàn thử thành công bom khinh khí, còn nước 4 tốt của Trung
Quốc là Việt Nam ở Đông Nam Á sau một năm đấu đá nhau kịch liệt đang
chuẩn bị bước vào đại hội Đảng lần thứ 12.
Ông Nguyễn Gia Kiểng có bình luận gì về Trung Quốc và hai nước lân bang này ạ?
NGK: Trước hết tôi xin có một nhận xét về sự khác biệt giữa Việt
Nam và Triều Tiên. Mặc dầu hai nước lệ thuộc Trung Quốc rất nặng nề,
nhưng mức độ nặng nề đó khác nhau. Việt Nam thì ban lãnh đạo muốn lệ
thuộc Trung Quốc để tồn tại nhưng một phần quan trọng trong đảng cầm
quyền - đảng cộng sản - và gần như toàn bộ nhân dân Việt Nam không muốn
tình trạng đó. Cho nên mức độ lệ thuộc Trung Quốc khác nhau. Tôi nghĩ là
trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ không còn lệ thuộc Trung Quốc
nữa. Mức độ lệ thuộc Trung Quốc sẽ một ngày một giảm đi. Không giống như
chế độ ở Triều Tiên, một chế độ vô lý ở mức mà người ta không thể nghĩ
là nó có thực. Vậy thì phải xét bản chất của nó. Chúng ta nên nhớ lại
thời chiến tranh Triều Tiên. Vào mùa hè 1950, chế độ Bắc Triều Tiên mở
cuộc tổng tiến công hòng thôn tính quốc gia Nam Cao Ly, bây giờ gọi là
Hàn Quốc. Chỉ trong một thời gian ngắn họ đã đẩy lùi được quân đội Hàn
Quốc xuống tận cùng phía Nam. Nhưng sau đó gặp sự phản công rất mạnh của
quân đội Liên Hợp Quốc, chủ yếu là Hoa Kỳ. Trong một thời gian rất ngắn
quân đội Bắc Triều Tiên hầu như đã bị tiêu diệt và khi bị dồn tới tận
sông Áp Lục thì chỉ còn khoảng 10 ngàn người mà thôi. Lúc đó Trung Quốc
đã quyết định nhảy vào cứu vãn chế độ Triều Tiên. Họ đã gửi gần 2 triệu
quân. Phải nói là quân đội Triều Tiên từ đó thuần túy là quân đội Trung
Quốc. Và sau đó họ đỡ đầu chế độ Triều Tiên, sử dụng Triều Tiên như một
căn cứ quân sự, một phần của họ, để làm những điều họ không muốn thế
giới buộc tội họ vì đã làm. Nhưng dần dần thế giới cũng đã nhìn ra. Càng
ngày càng có nhiều quan sát viên, nhiều chính phủ nhận định những việc
chế độ Triều Tiên làm thực ra là làm theo chỉ thị ngầm của Trung Quốc.
Cho nên khi chế độ Triều Tiên thử bom khinh khí - bom hydrogen - người
ta nhìn vấn đề như là chính Trung Quốc thử trái bom đó, mượn tay bắc
Triều Tiên để làm áp lực với thế giới. Càng ngày càng có những lập luận
buộc tội Trung Quốc. Cho nên tôi nghĩ trong tương lai tình thế có lẽ sẽ
khó khăn hơn cho Trung Quốc vì họ không còn giấu giếm và đánh lừa được
dư luận thế giới nữa.
Bây giờ trở lại vấn đề thị trường chứng khoán của Trung Quốc. Quả nhiên
nó rất trầm trong. Hai tuần lễ đầu năm nay thị trường chứng khoán Thượng
Hải đã giảm hơn 15%. Riêng tại Thẩm Quyến là trung tâm công nghiệp của
Trung Quốc thị trường chứng khoán giảm 24%.
Từ đó chúng ta có thể rút ra một vài kết luận:
- Một là kinh tế Trung Quốc suy sụp một cách không thể đảo ngược
được. Đây không phải là lần đầu tiên. Trong sáu tháng qua thế giới đã
sống trong sự hồi hộp của sự xuống giá của thị trường chứng khoán Trung
Quốc ở Thẩm Quyến cũng như ở Thượng Hải.
- Kết luận thứ hai nó cũng có phần quan trọng của nó là nền công
nghiệp Trung Quốc sụp đổ; đó là vì nhiều xí nghiệp công nghiệp Trung
Quốc chủ yếu được niêm yết giá tại thị trường Thẩm Quyến mà thị trường
Thẩm Quyến trong 2 tuần sút giảm 24%. Như vậy là sự sụt giảm quan trọng.
Nền kinh tế Trung Quốc cho đến ngày hôm nay có thể tóm tắt một câu là
họ dựa trên sản xuất và nhân công rẻ, thực tế là họ xuất khẩu sự nghèo
khổ mà chính đảng cộng sản đã là nguyên nhân. Nhưng chính sách đó ngày
hôm nay đã thất bại.
Người ta đã nói nhiều tới sự suy sụp của Trung Quốc, vào giờ này tôi
nghĩ không còn ai ngờ vực rằng sự suy thoái của nền kinh tế Trung Quốc
không thể đảo ngược được nữa.
Nói về trường hợp Việt Nam tôi cũng xin nói thêm về tình trạng rất mới
nhân sự kiện Trung Quốc gửi các chuyến bay đến quần đảo Trường Sa. Trên
50 chuyến bay của họ đã đáp lên đảo Chữ Thập, một đảo đá họ đã chiếm
được của Việt Nam và biến thành một phi trường lớn. Sự kiện này rất
nghiêm trọng. Chúng ta đã để cho họ xây căn cứ ở đó thì tất nhiên có
ngày máy bay của họ sẽ đáp xuống. Trong tương lai nó có thể là một căn
cứ về hàng hải, nhưng cũng có thể nó là một căn cứ quân sự. Nó sẽ làm
thay đổi hẳn những dữ kiện về địa lý chính trị trong vùng. Nó đe dọa một
cách nghiêm trọng hải phận của Việt Nam cũng như không phận của Việt
Nam.
Một lần nữa chúng ta cần nhắc lại trước năm 1988 Trung Quốc không có
hiện diện tại Trường Sa. Trung Quốc chỉ có mặt ở Trường Sa sau khi đã
đánh chiếm sáu đảo của Việt Nam. Tôi đã có bài phân tích và nhiều người
đã phân tích là cuộc đánh chiếm sáu đảo đá của Việt Nam tại Trường Sa
thực ra nó là một sự dàn cảnh của ban lãnh đạo lúc đó do bộ ba Nguyễn
Văn Linh - Lê Đức Anh - Đỗ Mười, nhưng chủ yếu là Nguyễn Văn Linh và Lê
Đức Anh. Họ đã chủ trương dâng một phần quần đào Trường Sa cho Trung
Quốc để đổi lấy ơn huệ được lệ thuộc Trung Quốc. Chúng ta đừng quên là
quân đội Trung Quốc chỉ đánh chiếm chính thức những đảo này vào cuối
tháng 3 đầu tháng 4 năm 1988. Nhưng họ đã đem hải quân đến đó từ tháng
Giêng mà Việt Nam không hề có một phản ứng nào hết, và sau khi họ tấn
công đánh chiếm sáu hòn đảo tàn sát 74 chiến sĩ hải quân của Việt Nam
thì chính quyền Việt Nam chỉ ra một cái thông cáo phản đối chiếu lệ rất
ngắn ngủi và sau đó một hai tháng bộ chính trị họp tuyên bố từ này Trung
Quốc là bạn. Hiến pháp Việt Nam được sửa đổi để bỏ lời nói đầu coi
Trung Quốc là thù địch. Như vậy chúng ta thấy có một sự kiện rất nghịch
lý là Trung Quốc trở thành bạn của Việt Nam sau khi xâm phạm lãnh thổ
của Việt Nam, đánh chiếm sáu hòn đảo của Việt Nam, tàn sát hải quân của
Việt Nam.
Cũng đừng quên là trong khi Trung Quốc đánh chiếm có một sự kiện quân sự
rất đáng chú ý là Lê Đức Anh đã ra lệnh cho không quân không được can
thiệp. Sự thật lúc đó nếu không quân Việt Nam can thiệp thì có thể tiêu
diệt được lực lượng hải quân rất sơ sài của Trung Quốc trong nháy mắt.
Sở dĩ Trung Quốc đã chiếm được là vì chính quyền cộng sản Việt Nam,
những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam đã âm mưu để cho Trung Quốc
chiếm. Cho nên ngày hôm nay chúng ta thấy tình trạng trong tương lai rất
phức tạp thì húng ta phải nhắc tới trách nhiệm rất nặng nề của Nguyễn
Văn Linh và Lê Đức Anh. Có lẽ theo tôi, trong thế kỷ 20 này đó là hai
người có tội nặng nhất đối với đất nước Việt Nam.
TQT: Người ta chứng kiến sự phát triển kinh tế của Trung Quốc.
Họ có ba thập niên liên tục tăng trưởng tới 10%. Rồi 5 năm gần đây tuy
mức tăng trưởng nó có khựng lại nhưng vẫn là mức 7%. Mức này phải nói
rằng nhiều nước mơ mà không được. Phải chăng những con số Trung Quốc đưa
ra là ảo. Thực trạng kinh tế Trung Quốc hiện nay là thế nào thưa ông?
NGK: Trước hết chúng ta đừng nên quên Trung Quốc vẫn là một chế
độ cộng sản và đặc tính của mọi chế độ cộng sản là họ bưng bít sự thật.
Họ đưa ra những con số dối trá. Nhiều khi dối trá một cách lộ liễu.
Thí dụ năm 2014, ngoại thương của Trung Quốc, xuất nhập khẩu của Trung
Quốc, đã giảm 11% trong khi con số tăng trưởng của Trung Quốc vẫn là
7,5%. Đối với một người có một chút lý luận câu hỏi đặt ra là làm thế
nào một nền kinh tế chủ yếu đặt nền tảng trên xuất khẩu lại có thể đạt
tỷ lệ tăng trưởng 7,5% trong khi mức xuất nhập khẩu giảm 11%? Không thể
có. Thực trạng này nó khiêu khích lô-gich nhiều quá, cho nên có một công
ty tư vấn về tài chính tại Anh là công ty Lombard Street đã dùng những
con số của chính Trung Quốc để tính lại một cách đúng đắn và thấy tỷ lệ
tăng trưởng của Trung Quốc chỉ là 1,7% thôi. Nhưng ngay cả con số 1,7%
này cũng không thể tin được vì khi xuất khẩu đã giảm sút nặng nề đến như
vậy thì tăng trưởng kinh tế làm gì có, kinh tế phải suy thoái thôi.
Những con số của Trung Quốc không đáng tin chút nào.
Đầu tháng 4/2014 tôi có viết bài "Khi thiên triều sụp đổ và lịch sử sang trang"
tôi đã phân tích rằng tình hình kinh tế Trung Quốc không có thuốc chữa.
Nhận xét của tôi có lẽ nó không nghiêm khắc bằng nhận xét của ông Lý
Khắc Cường, thủ tướng Trung Quốc. Cũng vào giai đoạn đó ông Lý Khắc
Cường nói rằng: "Từ nay chúng ta phải tuyên chiến với mô hình kinh tế và
nếp sống của chúng ta", một lời tuyên bố rất nặng nề. Khi nói tuyên
chiến với một cái gì đó người ta phải coi nó là thù địch. Ông Lý Khắc
Cường tuyên bố mô hình kinh tế của Trung Quốc sai hoàn toàn. Nói chung
từ trước đến giờ nó đặt trên nền tảng sản xuất tối đa với giá thật rẻ để
xuất khẩu được nhiều. Nói cách khác họ xuất khẩu sự nghèo khổ mà chính
họ là nguyên nhân. Thế nhưng mà làm như thế cũng không được về mặt kỹ
thuật và kinh tế thuần túy; ngay cả nếu chúng ta bỏ qua khía cạnh chính
trị và nhân đạo mô hình đó vẫn là sai. Lý do là vì từ trước đến nay một
nền kinh tế lành mạnh luôn luôn phải đặt nền tảng trên một thị trường
nội địa lành mạnh. Đó là điều anh em chúng tôi trong Tập Hợp Dân Chủ Đa
Nguyên đã nhận định. Vào năm 2001, khi mô hình Trung Quốc được cả thế
giới ca tụng, anh em chúng tôi có đưa một dự án chính trị Thành Công Thế
Kỷ 21 trong đó chúng tôi đã nhận định mô hình Trung Quốc là rất sai. Đó
là mô hình bất chấp con người, bất chấp môi trường và bất chấp cả các
qui luật kinh tế. Trong thảo luận anh em chúng tôi còn nói nếu mô hình
tăng trưởng của Trung Quốc mà đúng thì phải dẹp hết các trường đại học
về kinh tế và hủy bỏ hết các cuốn sách kinh tế. Ngày hôm nay rõ ràng mô
hình dựa trên xuất khẩu không thể tiếp tục được. Sau cuộc khủng hoảng
năm 2008 Trung Quốc đã cố gắng phát triển thị trường mội địa. Đây là một
cố gắng theo chiều hướng đúng nhưng rất khó khăn. Đặc tính của thị
trường nội địa là mình không thể phát triển nó một cách đột ngột như
phát triển xuất khẩu được mà phải phát triển nó một cách đều đặn, tuần
tự và với nhiều cố gắng kiên nhẫn và liên tục. Nhưng điều đó Trung Quốc
không làm. Trung Quốc cho rằng muốn tăng cường thị trường nội địa phải
tăng lương cho công nhân để công nhân có tiền mua sắm. Nhưng người công
nhân Trung Quốc không được bảo đảm về sức khỏe cho nên khi có được một
phần gia tăng về lương bổng thì họ dùng số tiền mới có thêm được để
dành, phòng mỗi khi yếu bệnh. Cho nên chính sách phát triển thị trường
nội địa một cách nhanh chóng của Trung Quốc đã thất bại. Nó chỉ đưa đến
kết quả ngược lại là làm giá cả các hàng hóa của Trung Quốc trở thành
đắt đỏ và khối lượng hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc đã giảm lại càng
giảm đi nhanh hơn. Chính sách phát triển thị trường nội địa tuy vẫn phải
tiếp tục nhưng không thể thực hiện dễ dàng như họ nghĩ. Từ đầu mùa hè
năm 2014 họ đưa ra một chiến dịch mới để thay thế cho một chiến dịch họ
vẫn làm từ trước tức là dùng chi phí công cộng và dùng những công trình
xây dựng kết cấu hạ tầng, dùng các công trình xây dựng bất động sản.
Trong một thời gian họ đã giấu được sự suy thoái nhưng cuối cùng họ đã
tạo ra những thành phố ma, những chung cư không có người ở, những đường
cao tốc không có xe chạy; cuối cùng khiến số nợ công của Trung Quốc gia
tăng lên một cách đáng sợ.
Từ mùa Hè năm 2014 họ có một tham vọng mới, đó là biến Thượng Hải và
Thẩm Quyến thành những trung tâm tài chính quốc tế tương đương với New
York và London. Kết quả là một năm sau, năm 2015, chúng ta chứng kiến sự
sụp đổ của thị trường chứng khoán Thượng Hải. Và đầu năm nay sau khi
Trung Quốc đã bỏ ra hàng trăm tỷ đô la để cứu vãn thì chúng ta thấy thị
trường Trung Quốc nó đi vào một giai đoạn suy thoái mới. Lần này Trung
Quốc tuyên bố bỏ cơ chế đóng cửa ở thị trường chứng khoán tự động, nghĩa
là cứ để cho thị trường chứng khoán từ từ mà sụt xuống, còn nếu muốn cố
gắng cứu vãn thì bơm thêm tiền vào mua những cố phiếu bị đe dọa cứu
được phần nào hay phần đó. Nhưng tôi thấy đây chỉ là một sự đầu hàng.
Cái gì vừa xảy ra đúng là chứng tỏ thị trường chứng khoán Trung Quốc
không cứu vãn nổi và nền kinh tế Trung Quốc nói chung không có lối
thoát.
TQT: Cũng trong bài "Khi Thiên triều sụp đổ, và lịch sử sang trang"
ông có nói là vấn đề kinh tế không phải là nghiêm trọng lắm đối với
Trung Quốc mà vấn đề nghiêm trọng, cực kỳ nghiêm trọng, đối với Trung
Quốc là vấn đề môi trường và chính trị. Tại sao lại như vậy và những
nhận định ấy bây giờ còn đúng không thưa ông?
NGK: Bây giờ còn đúng hơn trước, thưa ông Trần Quang Thành. Chúng
ta không nên quên là trong tháng 12, tháng cuối cùng của năm 2015, Bắc
Kinh đã phải đóng cửa các nhà máy, đóng cửa các trường học, các công sở
trong vòng một tuần lễ. Các hoạt động ở Bắc Kinh ngừng trệ trong vòng
một tuần lễ là vì ô nhiễm của không khí đã đạt đến mức độ không thể chịu
đựng được nữa. Muốn hiểu rõ hơn tình hình bi đát của môi trường Trung
Quốc chúng ta hãy tham khảo một vài con số do Tổ Chức Y Tế Thế Giới đưa
ra. Mức độ không khí bình thường là từ 10 đến 12 microgram/m3 hạt mịn.
Hạt mịn là những hạt cực nhỏ có thể chui vào vào phổi vì đường kính dưới
2,5 micron. Nó chui vào trong phổi làm cho phổi cứng người ta không thở
được nữa và nó có thể làm người ta chết vì ung thư hoặc chết vì không
thở được nữa. Theo tổ chức Y Tế Thế Giới mức độ không khí bình thường là
từ 10 đến12 microgram hạt mịn trong một mét khối. Mức độ được cho là
nguy ngập đến tính mạng là 25 microgram/m3. Nhưng ở Trung Quốc những
ngày nào tốt là 80 microgram/m3. Có ngày nó lên tới 200 microgram/m3. Ở
tỉnh Hà Bắc có ngày lên tới 1.400 microgram/m3, tức là gần 60 lần mức độ
nguy hiểm chết người. Phải nói là tình hình ô nhiễm không khí ở Trung
Quốc ghê gớm lắm. Nhưng đó không phải là tất cả. Trung Quốc cũng là một
nước rất thiếu nước. Hiện nay quá nửa các dòng sông ở Trung Quốc không
có nước nữa. 400 thành phố hoàn toàn không có nước trên bề mặt phải hút
nước từ lòng đất lên để dùng. Chiều sâu để hút được nước ngày càng
xuống. Ở các tỉnh như vùng Tân Cương, Sơn Tây phải đào sâu xuống gần 100
mét mới hút được nước lên. Tình trạng nước ở Trung Quốc rất nguy ngập.
Đất nước Trung Quốc đang bị phá hủy. Đây là hậu quả chính sách của Trung
Quốc trong hơn 30 năm qua trong đó Trung Quốc đã kỹ nghệ hóa tối đa bất
chấp môi trường, bất chấp cả con người. Cho nên ngày nay các chuyên gia
trên thế giới không nhìn thấy giải đáp.
Năm 2000 Trung Quốc đã bỏ ra hơn 5 tỉ đô-la để nghiên cứu làm sao cứu
được sông Dương Tử. Sau khi sài hết 5 tỉ đô-la đó các chuyên gia kết
luận là không tài nào cứu được sông Dương Tử cả và mọi sự sống sẽ biến
mất. Ngày nay nạn thiếu nước ở Trung Quốc có thể đưa đến nội chiến. Đã
có trường hợp có những tỉnh hoặc những huyện trong một tỉnh giao chiến
với nhau để giành một con sông. Có thể nói vấn đề môi trường của Trung
Quốc cũng không có giải đáp.
Kể từ ngày Tập Cận Bình lên cầm quyền lại có một vấn đề nữa là cuộc
khủng hoảng chính trị. Nhìn từ bên ngoài vào, có lẽ vì người Việt Nam
chúng ta có quá nhiều vấn đề cho nên chúng ta không quan tấm lắm đến
những vấn đề xảy ra ở Trung Quốc. Thực ra chiến dịch chống tham nhũng mà
người Trung Quốc đặt một cái tên rất ngộ nghĩnh là « Đả hổ, diệt ruồi »
đã gặp phải một trở ngại không thể tưởng tượng được. Nhóm thân cận của
Tập Cận Bình đã không lường trước được mức độ dữ dội của nó. Lúc này
Trung Quốc đang sống trong sự nghi vấn rất lớn là chế độ có thể tồn tại
như thế này được hay không? Ông Tập Cận Bình nhân danh chống tham nhũng
để phục hồi kinh tế nhưng trên thực tế đời sống nhân dân Trung Quốc đã
sút giảm. Ông Tập Cận Bình có thể bị sụp đổ không phải vì ông đã làm gì
sai mà vì ông thừa hưởng một di sản mà ông không thể nào cứu chữa được
nữa.
Cho đến ngày hôm nay chế độ cộng sản Trung Quốc đã tồn tại dựa trên hai thỏa hiệp bất thành văn:
- Thỏa hiệp thứ nhất là nhân dân Trung Quốc chấp nhận để Đảng Cộng sản
tiếp tục chế độ toàn trị và khước từ những tự do căn bản của họ, nhưng
với điều kiện là chế độ này vẫn tạo ra được một sự tăng trưởng đều đặn ở
mức độ rất cao. Như ông Ôn Gia Bảo thời trước đã nói nếu Trung Quốc
không có tăng trưởng trên 8% thì sẽ có bạo loạn. Bây giờ thì không những
không có tăng trưởng 8% mà kinh tế vẫn tiếp tục sa sút.
- Nguy cơ thứ hai về chính trị của Trung Quốc, do kinh tế mà đến, là sự
ổn vững của Trung Quốc cũng dựa trên một thỏa hiệp bất thành văn thứ hai
là người dân Trung Quốc chấp nhận để bị bóc lột, làm nhiều với lương rẻ
để tích lũy tư bản cho các công ty có lời nhiều và dùng lợi nhuận đó
tiếp tục đầu tư vào kinh tế. Nhưng bây giờ 2/3 những người giàu có của
Trung Quốc có ý đồ rời bỏ Trung Quốc hoặc đã rời bỏ Trung Quốc. Nói một
cách khác tư bản mà họ đã đổ mồ hôi nước mắt ra để tích lũy được cho các
công ty ngày hôm nay đang đào thoát ra nước ngoài. Cho nên có một sự
phản bội, phản bội về mô hình kinh tế, phản bội cả về đạo đức chính trị
và về lòng yêu nước.
Cho nên Tập Cận Bình đang sống những ngày khó khăn. Tôi nghĩ hiện nay
kinh tế tuy khó khăn nhưng nó không bằng hai vấn đề khác: Vấn đề trầm
trọng nhất vẫn là môi trường và vấn đề trầm trọng thứ hai là đề khủng
hoảng chính trị.
TQT: Ông có nói vấn đề thứ hai là trầm trọng khủng hoảng chính
trị. Nhưng tôi thấy dường như Tập Cận Bình đang làm chủ trong vấn đề
chính trị. Ông ấy mở chiến dịch chống tham nhũng tràn khắp cả nước.
Người bị đụng chạm đến không phải là những quan chức bình thường mà là
giới chức cao nhất Trung Quốc kể cả ông Giang Trạch Dân cũng đang có
nguy cơ. Ông đang củng cố lại quân đội theo hệ thống quản lý của Quân ủy
trung ương. Ông ấy tràn ra Biển Đông chiếm các hòn đảo thuộc chủ quyền
của Việt Nam để làm sân bay. Máy bay hạ cánh xuống bất chấp sự phản đối.
Vậy phải chăng ông ấy đang làm chủ được về chính trị?
NGK: Theo như tôi vừa nói vì chúng ta có quá nhiều vấn đề nội bộ
nên chúng ta không quan sát kỹ tình hình Trung Quốc. Nhưng các chuyên
gia theo dõi tinh hình Trung Quốc đều nhận định tình hình Trung Quốc rất
là căng thẳng. Cố gắng của ông Tập Cập Bình càng ngày càng khó khăn.
Vấn đề là Tập Cận Bình thừa hưởng một đất nước Trung Quốc cũng tan
hoang, cũng bị phân hóa từ bên trong như ông Gorbachev đã thừa hưởng ở
Liên Xô năm 1985. Gorbachev đã cố gắng để cải tổ toàn diện hệ thống của
Liên Xô nhưng đã không cải tổ được. Ông ấy đã thất bại, nhưng ít ra cũng
đã giúp cho chế độ cộng sản Liên Xô được giải thể trong hòa bình, giúp
Liên Bang Xô Viết hạ cánh an toàn, tuy cũng mất đi một số nước như
Ukraine, Georgia, Khazakstan... Trái lại Tập Cận Binh từ chối những cải
tổ cần thiết và đang ngày càng tích lũy nhiều khó khăn.
Điều chúng ta đáng lo ngại không phải là Trung Quốc khiêu khích trên
Biển Đông hoặc khiêu khích với Nhật Bản. Chúng ta thấy gần đây họ không
dám khiêu khích Nhật Bản trên hòn đảo Điếu Ngư nữa và họ cũng muốn hòa
dịu với Hàn Quốc. Tại Biển Đông vì Việt Nam gần như là một nước chư hầu
của họ và chấp nhận tất cả những gì họ làm nên họ còn lộng hành một tí.
Nhưng tôi nghĩ tình trạng này cũng sẽ không kéo dài vì chế độ Trung Quốc
đang lung lay từ bên trong theo cái lô-gich bình thường của một chế độ
gần giống như một đế quốc, nghĩa là tập trung nhiều lực lượng, nhiều
khối không giống nhau, không có nguyện vông sống chung, không tương đồng
về mặt văn hóa, địa lý và kinh tế, sản xuất. Khi một đế quốc như vậy
gặp khó khăn nó thì co cụm lại chứ nó không khiêu khích với bên ngoài.
Trái với sự lo lắng của nhiều người tôi nghĩ rằng chúng ta không phải lo
sợ lắm về tình hình Biển Đông. Trung Quốc sẽ không làm tới ở một mức độ
dữ dội. Tôi phải nhắc lại là do một sai lầm không thể tha thứ được của
Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh họ đã có mặt ở Trường Sa, họ đã xây các
đảo nhân tạo trên Trường Sa, họ xây phi trường, họ sẽ hiện diện ở đó. Sự
hiện diện đó có thể mạnh trong lúc đầu, nhưng mà nó sẽ không mạnh trong
tương lai khi mà Trung Quốc yếu đi. Và nếu chúng ta là một nước Việt
Nam dân chủ, khai thác được đầy đủ những tài nguyên của chúng ta thì
chúng ta sẽ mạnh lên và sẽ buộc Trung Quốc phải có một thái độ biết điều
hơn, khiêm tốn hơn ở Biển Đông. Tôi nghĩ vấn đề Biển Đông mặc dầu là
một xúc phạm lớn đối với mọi người Việt Nam nhưng nếu chúng ta có được
một chế độ dân chủ lành mạnh thì những vấn đề ấy cũng không đến nỗi quá
phức tạp.
TQT: Nói về vấn đề Trung Quốc và Việt Nam. Tình hình Trung
Quốc theo ông vấn đề mội trường là cực kỳ nguy hiểm, kinh tế thì đang
suy sụp, chính trị thì đang lủng củng từ vấn đề Nội Mông, Tây Tạng rồi
ra Biển Đông. Những vấn đề ấy có tác động gì đến vấn đề Việt Nam hay
không thưa ông?
NGK: Tôi nghĩ là chúng ta đang chờ đợi một biến cố lớn trong chế
độ Cộng sản - Đại hội XII một tuần nữa sẽ mở ra - Vào giờ này chúng ta
chưa chính thức biết được những gì họ đã quyết định với nhau, chúng ta
chỉ đoán thôi mà tính tôi không thích dự đoán khi mà mình không nắm được
những dữ kiện cơ bản. Tôi chỉ nắm được điều, đó tôi nghĩ rằng đã có một
sai lầm trong nhận định về thái độ của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Nhiều người nghĩ rằng Trung Quốc bỏ rơi ông Nguyễn Tấn Dũng vì ông
Nguyễn Tấn Dũng chống Trung Quốc. Theo tôi lý do không phải như vậy.
Trung Quốc không thể tìm được đồng minh nào lý tưởng hơn ông Nguyễn Tấn
Dũng. Ông Nguyễn Tấn Dũng trước hết là truyền nhân của ông Lê Đức Anh,
kiến trúc sư của chính sách lệ thuộc Trung Quốc. Thứ hai là ông Nguyễn
Tấn Dũng trong mười năm qua đã làm tất cả những gì mà một thủ tướng Việt
Nam có thể làm để làm vừa lòng Trung Quốc. Ông đã để cho hàng hóa Trung
Quốc tràn ngập vào Việt Nam như chỗ không người. Ông đã xuất khẩu một
số lượng lớn hàng hóa Trung Quốc mang nhãn Made in Vietnam, đó là một
trợ giúp cho Trung Quốc tuy nó cũng có lợi phần nào đối với Việt Nam,
ông đã cho thuê rừng đầu nguồn, ông đã cho phép Trung Quốc thành lập
những khu gần như tự trị kiểu như Vũng Áng tại Việt Nam. Và gần đây ngày
30/4/2015 ông đã lên tiếng đanh thép để lên án đế quốc Mỹ, để hô lại
một khẩu hiệu mà trong vòng hơn 20 năm qua tôi không thấy một lãnh tụ
cộng sản nào hô nữa là khẩu hiệu "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào",
mà chúng ta tưởng đâu đã lùi hẳn vào quá khứ rồi. Nói chung ông Dũng có
cảm tưởng là ông ấy bị Trung Quốc bỏ rơi vì thân Mỹ, thân phương Tây nên
ông ấy cố gắng lấy lòng Trung Quốc bằng cách lên án, gần như tuyên
chiến với Hoa Kỳ. Nhưng cuối cùng thì ông ấy mất tình cảm của các nước
dân chủ, của Mỹ, nhưng không tranh thủ được sự ủng hộ của Trung Quốc. Lý
do giản dị là vì Tập Cận Bình đang tiến hành môt chính sách dữ dội và
khó khăn để chống tham nhũng cho nên Tập Cận Bình không thể ủng hộ ông
Dũng được bởi vì ông Dũng đối với dư luận của cả thế giới và của cả mọi
người là một người tham nhũng. Ngay cả những người ủng hộ ông Dũng cũng
không thể chối cãi sự kiện là ông Dũng rất tham nhũng. Tập Cận Bình hiện
đang ở trong tình thế khó khăn nên không thể yểm trợ ông Dũng được dù
trọng lượng của Trung Quốc lên Đảng Cộng sản Việt Nam còn khá lớn.
Cho nên vào giờ này tôi có thể nói có một khúc quanh, khúc quanh đó quan
trọng đến mức độ nào thì hãy đợi tương lai cho chúng ta biết vì ngay cả
những người cộng sản hiện nay cũng chưa biết. Đó là sự thất sủng của
ông Dũng có thể tiên liệu được.
Nhân việc nói quan hệ Việt Nam - Trung Quốc tôi muốn nói tới điều này:
- Cho đến ngày hôm nay tất cả cấp lãnh đạo đảng cộng sản, dù là
Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng hay
bất cứ ai, có thể có quan điểm khác nhau trên nhiều vấn đề nhưng họ đều
đồng ý phải dựa Trung Quốc để giữ nguyên chế độ. Điều họ cần nhận định
ra trước khi quá trễ là Trung Quốc không còn là chỗ dựa nữa. Trên thực
tế họ đang dựa lưng vào môt bức tường bằng giấy.
- Điều thứ hai là đối với những người dân chủ Việt Nam. Nhân đại
hội này tôi cũng muốn phát biểu một ý kiến. Cho đến ngày hôm nay có rất
nhiều người tuy trong thâm tâm mong muốn một cách rất thành thực dân chủ
cho Việt Nam, nhưng nghĩ rằng phong trào dân chủ không có lực lượng,
không có tổ chức nên đàng nào dù muốn hay không chế độ này vẫn tiếp tục,
cho nên phải thở dài mà thỏa hiệp với nó và hy vọng cải tổ được phần
nào hay phần đó từ bên trong.
Nhưng ngày hôm này theo tôi suy nghĩ đó rất sai. Chế độ này đã phân hóa
quá rồi. Nó đang sống những ngày cuối cùng và đằng nào cũng sụp đổ. Vậy
thì vấn đề đối với những người dân chủ Việt Nam rất giản di: Một là
chúng ta để cho đảng và chế độ này sụp đổ trong sự hỗn loạn nhường chỗ
cho một khoảng trống chính trị; hai là chúng ta chuẩn bị một giải pháp
chuyển hóa về dân chủ trong hòa bình, trong tinh thần anh anh em, trong
tình đồng bào, trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Như vậy chúng ta phải xây dựng lực lượng. Nếu chúng ta không có lực
lượng thì chúng ta phải xây dựng ra lực lượng dân chủ đó vì đàng nào nó
cũng cần. Chúng ta không thể dựa vào đảng cộng sản để cải tổ được nữa
bởi vì đảng cộng sản đã tích lũy quá nhiều mâu thuẫn, nó đã suy nhược
đến mức không thể phục hồi được. Nó đang sống những ngày cuối cùng và
đàng nào nó không thể tồn tại.
Điều tôi tin tưởng vào lúc này là có rất nhiều triển vọng Đại hội XII sẽ
là đại hội cuối cùng của đảng cộng sản như là một đảng cầm quyền. Sau
đó một là nó không còn nữa. Hai là nếu nó còn thì nó cũng chỉ là một
đảng bình thường như các chính đảng Việt Nam khác.
TQT: Xin cảm ơn ông Nguyễn Gia Kiểng
17.01.2016
0 comments:
Post a Comment