Sau
khi chiếu ra mắt ở vài nơi, phim VIETNAMERICA đã được giới thiệu với
khán giả Vùng Hoa-Thịnh-Đốn vào hai ngày 17 (thứ bảy) và 18 (chủ nhật)
tháng 10, 2015 mà kết quả sơ khởi được Bà Nancy Bui, tức Ký giả Triều
Giang, nhà sản xuất phim, Hội trưởng Hội Bảo Tồn Lịch sử Văn hóa Người
Mỹ gốc Việt (Vietnamese American Heritage Foundation, VAHF) cho biết là
tốt đẹp, về tinh thần cũng như tài chánh.
Hiển
nhiên, đây là thành quả của những nỗ lực của nhiều người trong nhiều
tháng, từ việc làm phim đến việc đem phim đi chiếu. VAHF đã liên tiếp
phổ biến những tin tức về cuốn phim này. Vì vậy, nhiều hay ít, mọi người
đã biết đây là một cuốn phim tài liệu về thảm kịch thuyền nhân diễn ra
với hàng triệu người ồ ạt ra khơi trên những con tàu nhỏ bé sau khi
chiến tranh Việt Nam chấm dứt với cái chết của tự do tại Miền Nam Việt
Nam vào tháng 4 năm 1975.
Những
cuộc vượt biển đầy hiểm nguy với bão tố và hải tặc – lần đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam – đã kéo dài trong nhiều năm và hàng trăm ngàn người
đã không bao giờ trở lại mặt đất.
Đây
là một bi kịch lớn không chỉ với dân tộc Việt Nam mà còn của cả nhân
loại nhưng chưa bao giờ được đưa lên màn ảnh, dù Hollywood đã thực hiện
nhiều phim về chiến tranh Việt Nam với những câu chuyện bịa đặt và tình
tiết ly kỳ giả tưởng.
VIETNAMERICA
(Việt Mỹ) là cuốn phim tài liệu đầu tiên về thuyền nhân, và không do
Hollyhood sản xuất. Khi được Bà Triều Giang cho biết đã làm xong cuốn
phim vào tháng 5 năm nay, đã gửi đi tham dự vài hội liên hoan phim ảnh
quốc gia Hoa Kỳ và quốc tế và đã được vài giải thưởng, tôi đã kinh ngạc
và thán phục. Mới trước đó đôi tuần, gặp Nhà văn Uyên Thao, trong lúc
nói chuyện với nhau về sinh hoạt văn học, văn nghệ ở hải ngoại, anh bày
tỏ mơ ước làm được một cuốn phim về người vượt biển.
Tôi
chỉ biết Bà Triều Giang viết báo và làm hội trưởng Hội VAHF chứ chưa
bao giờ nghe chuyện làm phim! Về sau được biết thêm một phần trích từ
cuốn phim dài 18 phút mang tên MASTER HOA’S REQUIEM đã đoạt giải Special
Jury Remi Award, The Best Texas Production của WorldFest ở Houston,
Texas, và The Best Production của Dallas International Film Festival.
Master
Hoa’s Requiem là câu chuyện có thật về cuộc vượt biển của ông Nguyễn
Tiến Hóa cùng với vợ con trong chuyến tàu gồm 75 người mà cuối cùng chỉ
còn mình ông ta sống sót tới được Đảo Bidong, Malaysia. Câu chuyện này
là phần chính của VIETNAMERICA dài 90 phút chiếu.
Tình
cờ, nhân vật Nguyễn Tiến Hóa lại không phải là người xa lạ với tôi.
Tháng 5 năm 1982, tôi tới Trại Bidong thì ông ta đã ở đó được vài tháng.
Chiều chiều ông ta thường ngồi hướng nhìn ra biển khơi nhấp nhô những
đợt sóng, kể cho những người vây quanh về chuyến đi thảm khốc của ông
khi gặp hai chiếc tàu hải tặc. Tiền của bị cướp, phụ nữ bị hãm hiếp, kể
cả vợ ông. Ông ta đã nổi điên và khi chiếc tàu thứ hai kéo đến, ông ta
đã đánh hạ mười mấy tên hải tặc Thái Lan trước khi rơi xuống biển. Nghe
nói Nguyễn Tiến Hóa là võ sư VOVINAM và là trung úy huấn luyện viên võ
thuật trong quân đội VNCH. Hình như khi ấy ông ta đang chờ ở Bidong để
ra tòa tại Thái Lan với tư cách nhân chứng trong vụ án do Cao Úy Tị Nạn
LHQ khởi tố nhờ những hình ảnh do một thương thuyền Nhật Bản chụp được.
Vụ kiện về sau không thành vì vấn đề anh ninh của ông Hóa.
Nay,
gần 35 năm sau, Nguyễn Tiến Hóa, với mái tóc bạc trên đầu, tự đóng vai
chính mình để làm một cuộc hành trình ngược trở lại Mã Lai đi tìm mộ vợ
con nơi những nghĩa trang hoang phế chôn những xác thuyền nhân vớt được
trên biển hay sóng đánh vào bờ. Họ đã tới bến nhưng không còn sống để
hít thở bầu không khí tự do.
Ngoài
câu chuyện của ông Nguyễn Tiến Hóa còn vài trường hợp của những người
khác, như Lương Xuân Việt, như Dương Nguyệt Ánh, như Trần Tử Thanh… Họ
đã ra đi bằng những cách khác nhau, nhưng vì cùng một lý do: họ không
thể sống dưới chế độ cộng sản. Họ đã may mắn đến được bến bờ tự do và
nước Mỹ đã cho họ một quê hương mới. Với quyết tâm và bền chí, họ đã hội
nhập thành công. Nguyễn Tiến Hóa, tuy vẫn chưa xóa hết được ác mộng
trong những giấc ngủ, đã làm lại cuộc đời, hiện làm chủ một võ đường ở
Texas và dạy Tai Chi cho những người lớn tuổi gồm đủ mọi sắc dân trong
cộng đồng địa phương.
Lương
Xuân Việt theo cha mẹ rời khỏi Việt Nam năm 1975 lúc lên mười, nay là
một vị tướng trong Quân đội Hoa Kỳ, Dương Nguyệt Ánh trở thành một nhà
chế tạo bom... Rất nhiều con em người Việt tị nạn, thế hệ thứ hai, những
công dân Mỹ gốc Việt, đã không biết và tự hỏi vì sao họ có mặt trên đất
nước này, và cha mẹ họ đã đến đây bằng cách nào, đã làm sao để vươn lên
trên quê hương mới.
VIETNAMERICA
đã cho họ câu trả lời. Cuốn phim đã được chiếu ở vài nơi và đã tạo
nhiều tiếng vang, nhưng lần ra mắt tại Vùng Washington đã có một ý nghĩa
đặc biệt. Không phải vì đây là thủ đô nước Mỹ, nhưng vì ngoài hai xuất
chiếu ở một rạp tại Virginia phim còn được chiếu tại Newseum, tức viện
bảo tàng truyền thông của nước Mỹ, một cơ sở đồ sộ hiện đại tại trung
tâm thủ đô Hoa Kỳ, nơi lưu trữ mọi tài liệu, dữ kiện liên quan đến những
gì đã xảy ra trên mặt đất được tường trình qua báo chí, truyền thanh,
truyền hình, mạng điện tử... Dĩ nhiên trong đó có Chiến tranh Việt Nam
mà truyền thông Mỹ đã bị kết tội là thiên lệch và đóng vai trò quan
trọng đưa đến kết thúc bi thảm ngày 30.4.1975.
Tối
17 tháng 10, tôi đã tới Newseum không phải chỉ để xem VIETNAMNERICA mà
còn để nói với truyền thông chính dòng Mỹ rằng SỰ THẬT rồi cũng có lúc
phải lên tiếng. Và đã lên tiếng ngay tại nơi cần lên tiếng. Ban quản trị
Newseum đã tỏ ra công tâm khi cho trình chiếu VIETNAMERICA tại đây và
cùng thời gian còn mở cuộc triển lãm hình ảnh về Chiến tranh Việt Nam
qua truyền thông chính dòng Mỹ, những hình ảnh cho thấy sức mạnh của báo
chí Mỹ và vì sao Mỹ đã thất bại tại Việt Nam và làm cách nào báo chí Mỹ
đã đồng lõa với tội ác của cộng sản tại Việt Nam. Tôi đã vui mừng khi
thấy người Việt tới tham dự đông đảo. Những ngày trước buổi chiếu phim
tôi đã lo ngại sẽ có ít người tới vì giá vé 100 và 200 Mỹ-kim, vì khó
khăn di chuyển và chỗ đậu xe tại Washington, và vì thói quen thờ ơ của
đa số người Việt. Dường như “chúng ta” chỉ thích làm những gì có lợi cho
bản thân mình, ít khi chịu làm cái gì cho lợi ích cộng đồng hay xã hội.
Nếu có làm thì chỉ thích “làm chơi”, làm những cái dễ làm và nhường cái
khó làm cho người khác. Bà Triều Giang và Hội VAHF đã chọn cái khó để
làm và đã “làm thật”. Mấy năm trước VAHF đã hoàn thành chương trình
phỏng vấn 500 người Việt tị nạn tiêu biểu tại Mỹ để đưa vào một số
trường đại học nhằm mục đích sửa lại phần nào những sai lầm và thiên
lệch trong sách báo và giảng dạy do phe tả đưa ra. Nay, VAHF với tay
không lại làm một cuốn phim tài liệu về thuyền nhân và về người Mỹ gốc
Việt trong khi có nhiều tổ chức mang những danh xưng to lớn không làm,
hay không làm được. Khi Bà Triều Giang tới Vùng Hoa-Thịnh-Đốn, tôi đã
gặp riêng bà hai lần và được nghe bà than phiền về một vài nhân sự trong
vùng, nhưng cũng do đó được biết những khích lệ và trợ giúp đáng quý
mà VAHF đã nhận được khi đem phim tới đây chiếu ra mắt, trong đó bà đặc
biệt nhắc đến ba người con của “anh em HO” đã giúp cho Hội mỗi người
mười ngàn Mỹ Kim, cộng với sự yểm trợ của nhiều người khác cùng tiền bán
vé trong các lần chiếu ra mắt, VAHF chỉ còn nợ 70 ngàn Mỹ-kim trong
tổng kinh phí 350 ngàn Mỹ-kim thực hiện cuốn VIETNAMERICA. 350 ngàn
Mỹ-kim để làm một cuốn phim 90 phút chiếu! Không ai có quyền đem so sánh
VIETNAMERICA với các phim do Hollywood thực hiện với phí tổn hàng chục
triệu đô-la!
Biết
như thế sẽ hiểu được sự hy sinh, lòng can đảm và quyết tâm “làm thật”
của những người đã góp công sức vào việc thực hiện cuốn phim này mà đứng
đầu là nhà sản xuất Triều Giang. Và cuốn phim cũng không thể thực hiện
được nếu không có tiền, trong đó sự đóng góp hào sảng của “ba người con
HO” rất quan trọng và rất có ý nghĩa.
Sự
đóng góp của ba người trẻ ấy, ba chủ nhân của các công ty V247, AB
Realty Mortgage và Luraco Technologies, đã giúp cho VAHF đỡ được một
gánh nặng về tài chánh, mặt khác đã cho thấy tính cách quan trọng và
chính đáng của chương trình tái định cư cựu tù nhân chính trị Việt Nam
thường được gọi một cách ngộ nhận là “chương trình H.O.” vào đầu thập
niên 1990 với khoảng 300 ngàn người vừa cựu tù cải tạo và gia đình họ.
Nay, sau 25 năm, nghĩa cử của ba người trẻ chủ nhân của ba công ty đã
nói rất nhiều về sự thành công của thế hệ thứ hai của “HO” trên nước Mỹ
và về sự trả ơn của họ cho quê hương mới cũng như đóng góp vào cuộc
chiến đấu cho tự do tại Việt Nam của thế hệ đi trước vẫn còn tiếp tục
trên một mặt trận khác. Ba người này đã có mặt tại buổi chiếu phim ở
Newseum và đã được mời phát biểu.
Cũng
có mặt trong buổi chiếu phim đặc biệt này là Bà Khúc Minh Thơ, nguyên
chủ tịch Hội Gia đình Tù nhân Chính trị Việt Nam, người được nhiều cựu
tù cải tạo coi như ân nhân của họ. Danh nghĩa ấy không sai, nếu biết
được những gì Khúc Minh Thơ và Hội GĐTNCTVN đã làm trong hơn hai mươi
năm để vận động cho tù nhân chính trị tại Việt Nam được trả tự do và
được tái định cư tại Hoa Kỳ. Chỉ hai năm sau khi cựu quân, cán, chánh
VNCH bị lùa vào các nhà tù được gọi là “trại cải tạo”, và thế giới bên
ngoài không ai muốn nghe chuyện Việt Nam nữa, Hội GĐTNCTVN đã được thành
lập tại Washington và đi gõ cửa Quốc Hội Mỹ, gõ cửa Bộ Ngoại giao, gõ
cửa cả Tòa Bạch Ốc và đại diện (chưa có đại sứ) Cộng sản Hà-nội tại Liên
Hiệp Quốc, và qua làn sóng đài VOA nhắn về Việt Nam “Chúng tôi KHÔNG
QUÊN CÁC ANH”. Khi ấy, nằm mơ cũng không mấy ai nghĩ rằng có ngày tù cải
tạo sẽ được trả tự do và đi Mỹ. Nhưng Khúc Minh Thơ “không quên các
anh” và tiếp tục “níu áo” các dân biểu, nghị sĩ Mỹ, đặc biệt là Bob
Dole, Ted Kennedy và John McCain…Tôi đã gặp Bà Khúc Minh Thơ lần đầu tại
một trong những buổi tiếp tân được Hội GĐTNCTVN tổ chức tại trụ sở Quốc
Hội Hoa Kỳ để vận động cứu tù nhân chính trị Việt Nam mà kết quả đã
thấy “ánh sáng ở cuối đường hầm”. Giữa thập niên 1980, Tổng thống Ronald
Reagan ký sắc lệnh chỉ định ông Robert Funseth, Phụ tá Thứ trưởng Ngoại
giao, đặc trách thương thảo với Hà-nội về vấn đề tù nhân chính trị Việt
Nam. Sau đó TT Reagan tiếp Bà Khúc Minh Thơ tại Văn phòng Bầu dục Tòa
Bạch ốc và cam kết không quên những chiến sĩ Việt Nam anh hùng khiến Bà
Thơ bật khóc trước mặt ông tổng thống Mỹ.
Tin
đồn về tới Việt Nam, hồ sơ cựu tù cải tạo gửi sang Hội GĐTNCTVN không
còn chỗ chứa dưới căn hầm nhà Bà Khúc Minh Thơ và chuông điện thoại reo
ngày đêm. Khi ấy chưa có Internet, chưa có cả máy FAX. Hội GĐTNCTVN
không có quỹ và không xin tiền đồng hương. Bà Khúc Minh Thơ đã phải dùng
tiền lương công chức khiêm tốn của mình để trả tiền điện thoại viễn
liên, bưu phí gửi tài liệu đi VN và thuê người làm hồ sơ chuyển sang Bộ
Ngoại Giao.
Ngày
30.7.1989 ông Funseth ký với Hà-nội thỏa hiệp về việc ra đi của cựu tù
cải tạo Việt Nam, mở đầu cho chương trình “H.O.” Có lẽ không ai vui hơn
Bà Khúc Minh Thơ dù đã xuýt mất nhà vì thiếu tiền trả ngân hàng. Nay,
sau 25 năm, ông Funseth vừa qua đời mấy tuần trước. Một thế hệ khác đã
trưởng thành trong “đại gia đình HO”. Sức khỏe Bà Khúc Minh Thơ cũng đã
suy yếu nhiều và bà có một ước mơ cuối đời: thế hệ thứ hai sẽ cùng nhau
dựng một tượng đài cảm ơn nước Mỹ.
Từ
câu chuyện Bà Khúc Minh Thơ “làm thật”, vì hết lòng với việc làm nhân
đạo mà xuýt mất nhà, tôi không thể không nói tới một phụ nữ khác cũng
vì đã “làm thật”, tận tụy với một lý tưởng cao đẹp mà đã mất nhà: Irina
Zisman.
Bà
Irina là một ký giả người Nga thông thạo tiếng Việt, nhân viên ban Việt
ngữ tại Đài Phát thanh Mạc-tư-khoa thời cộng sản Sô-viết. Năm 1992, chỉ
một năm sau khi Liên-sô sụp đổ, bà đã lập ra “Radio Irina”, hay “Tiếng
nói Tự do từ Mạc-tư-khoa”, để hướng về Việt Nam cổ vũ cho nhân quyền,
dân chủ với những tin tức xác thực và bình luận sắc bén, phát đi từ cái
nôi của “cách mạng vô sản”. Không có tiền, bà xin nhà thờ và vài tờ báo ở
Mạc-tư-khoa trợ giúp. Không bao lâu sau, một tổ chức chính trị của
người Việt tị nạn tại Mỹ nhập cuộc, hứa bảo trợ Đài và đưa Irina tới
nhiều cộng đồng người Việt ở Mỹ, Canada và Âu Châu để vận động gây quỹ.
“Cuộc hôn nhân” không kéo dài lâu vì Irina cảm thấy bị mất độc lập và
không còn nhận được tiền nuôi Đài (mỗi tháng khoảng 5 ngàn Mỹ-kim). Một
nhóm bạn ở Washington được thành lập để vận động quyên tiền nuôi Đài vì
nghĩ rằng chỉ cần 5 hay 6 ngàn người trong số khoảng hai triệu người
Việt ở hải ngoại khi ấy bỏ ra mỗi tháng “một Mỹ-kim” là đủ để duy trì
tiếng nói đấu tranh quan trọng này. Bà Irina cũng tin tưởng như thế, và
trong khi chờ đợi tiền từ Mỹ, bà đã phải vay tiền của bọn “xã hội đen”
để duy trì Đài. Nhưng rồi tiền từ “hai triệu người Việt ở hải ngoại”
không bao giờ đến, ngoài đóng góp của vài cá nhân không đủ nuôi Đài và
trả nợ.
Trong
khi đó vì ảnh hưởng nguy hiểm của “Radio Irina” tại Việt Nam, Cộng sản
Hà-nội đã làm áp lực mạnh với chính quyền mới tại Nga để đóng cửa đài
phát thanh này. “Radio Irina” tắt tiếng và Irina bị bọn chủ nợ “xã hội
đen” đòi tiền và hăm dọa bắt cóc con gái. Irina phải bán căn chung cư ở
trung tâm Mạc-tư-khoa và dọn đi vào ban đêm tới một căn nhà nhỏ ở ngoại
ô.
Nay,
hơn 20 năm sau, tôi là một trong vài người Việt ở hải ngoại còn liên
lạc với Irina. Mỗi khi nhìn vào đôi mắt xanh biếc như bầu trời mùa hè
không mây của Irina, tôi thường tự hỏi cái gì đã khiến người phụ nữ “dị
chủng” này yêu Việt Nam hơn nhiều người Việt?
Một
mình Irina Zisman đã làm được cái mà mấy triệu người Việt ở hải ngoại
không làm được. Cũng như Khúc Minh Thơ và Triều Giang, đã làm được những
điều mà người khác không làm được. Chỉ vì họ “làm thật”.
Sơn Tùng
Virginia, Tháng mười 2015
0 comments:
Post a Comment