Wednesday, November 13, 2013

Tiểu Sử Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Phát biểu của ông Nguyễn Thế Phong trong buổi lễ Tưởng Niệm tại Đền Thờ Quốc Tổ ở Melbourne

Tổng Thống Ngô Đình Diệm sinh ngày 03 tháng 01 năm 1901 tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, con của Cụ Nhiếp Chánh Đại Thần Ngô Đình Khả và cụ bà Phạm Thị Thân. Tổng Thống là người con thứ Ba trong gia đình có 6 trai và 3 gái.

Cụ ông Ngô Đình Khả nổi danh là một vị khoa bảng xuất chúng. Thời đó, tại Việt nam rất hiếm có người được hấp thụ cả hai nền giáo dục Đông và Tây như cụ cố Ngô Đình Khả. Lúc thiếu thời, Cụ theo Nho học, sau đó vào chủng viện học chương trình Pháp, rồi được gửi sang Đại chủng viện Penang để học Triết học và Thần học bằng tiếng Pháp và tiếng La Tinh. Cụ là một chủng sinh rất xuất sắc, nhưng vì không có ơn gọi để trở thành linh mục, Cụ đã xin trở về cuộc sống thế tục.

Cụ ông Ngô Đình Khả còn nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, cương trực, đức độ, một nhà ái quốc chân chính, là bạn thân của các nhà cách mạng nổi danh thời đó như các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Thành tích đáng kể nhất của cụ ông Ngô Đình Khả là nổ lực thành lập Trường Quốc Học tại Huế, một trường công lập đầu tiên giảng dạy theo chương trình học thuật Đông Tây tại Việt Nam. Và chính Cụ là vị đại thần duy nhất đã can đảm công khai chống lại thực dân Pháp vì họ đã phế bỏ và đầy vua Thành Thái sang Phi Châu sống lưu vong. Sau đó Cụ đã xin rũ áo từ quan về quê làm ruộng.

Gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm rất trọng lễ giáo. Hằng năm vào dịp Tết Nguyên Đán, mọi người trong gia đình tụ họp đông đủ ở Phủ Cam - Huế. Việc chúc thọ và chăm sóc cụ bà Ngô Đình Khả, được giao cho người con trai áp út Ngô Đình Cẩn, săn sóc chu đáo ngày đêm.

Người anh cả của Tổng thống Ngô Đình Diệm là Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi bị Việt Minh bắt giữ và xử tử năm 1945. Cùng bị bắt giữ trong đợt này còn có ông Phạm Quỳnh, và con trai ông Ngô Đình Khôi là Ngô Đình Huân. Sau khi bị xử tử, xác của ông Ngô Đình Khôi và ông Phạm Quỳnh được chôn chung trong một hố.

Sau ngày ông Ngô Đình Khôi qua đời, Tổng giám mục Ngô Đình Thục, trở nên người anh cả "quyền huynh thế phụ". Đức cha được kính nể và có nhiều ảnh hưởng đối với TT Ngô Đình Diệm. Ba người con gái là bà Ngô Đình Thị Giao tức bà Thừa Tùng, bà Ngô Đình Thị Hiệp tức bà Cả Ấm, thân mẫu của Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận, và bà Ngô Đình Thị Hoàng tức bà Cả Lễ, nhạc mẫu của Nghị sĩ Trần Trung Dung.

Lúc thiếu thời, TT Diệm đuợc theo học dưới sự dạy dỗ rèn cặp của một vị cha tinh thần, cũng nổi tiếng về kiến thức quảng bác, đức độ và lòng yêu nước. Đó là Quận Công Nguyễn Hữu Bài, quan Thượng Thư dưới triều vua Duy Tân. Ngài là vị đại thần duy nhất chống lại việc người Pháp tham lam muốn đào ngôi mộ vua Tự Đức để lấy vàng bạc châu báu. Vì thế dân chúng miền Trung thời đó vô cùng cảm kích, ngưỡng mộ nên đã có câu truyền khẩu:

“Đày vua không Khả. Đào mả không Bài”.

Ngoài sự hấp thụ những đức tính cao đẹp và lòng yêu nước nồng nàn của thân phụ và nghĩa phụ, ông Diệm còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền giáo dục Nho Giáo và Thiên Chúa Giáo. Thực vậy, nếu Nho Giáo đã hun đúc ông Diệm thành một con người thanh liêm, tiết tháo và cương trực, thì nền giáo dục Thiên Chúa Giáo, đã đào tạo ông Diệm thành một con người đầy lòng bác ái, vị tha và công chính.

Về đường học vấn, lúc nhỏ ông theo học tại trường Pellerin Huế. Năm 1913, lúc 12 tuổi, ông thi vào trường Quốc Học Huế, dạy theo chương trình tổng hợp bằng Việt Ngữ và Pháp Ngữ.

Đến năm 1917, lúc 16 tuổi, ông đỗ hạng thứ nhì trong kỳ thi tốt nghiệp Trung Học. Vì số tuổi quá trẻ mà lại đạt thành tích xuất sắc, nên chính quyền thực dân Pháp đề nghị cấp học bổng cho sang Pháp du học, nhưng ông đã từ chối.

Năm 1918, lúc mới 17 tuổi, ông đã được mời làm giáo sư Trường Quốc Tử Giám, một trường dành riêng cho con cháu các quan trong triều đình.

Đến năm 1919 (18 tuổi), ông đủ tuổi để vào học trường Hậu Bổ, một trường tương tự như Học Viện Quốc Gia Hành Chánh sau này. Trong suốt ba năm học, ông luôn luôn là một sinh viên xuất sắc trong các ngành hành chánh, chính trị, luật pháp. Do đó ông đã tốt nghiệp thủ khoa.

Năm 1923, lúc 22 tuổi, ông được bổ nhiệm làm Tri Huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, rồi Tri Phủ Hải Lăng tỉnh Quảng Trị.

Năm 1930 với thành tích tận tụy phục vụ đồng bào, ông được đề cử làm Tuần Vũ tỉnh Bình Thuận, Phan Thiết, khi vừa tròn 29 tuổi.

Năm 1932, Hoàng Tử Vĩnh Thụy sau thời gian du học tại Pháp trở về nước, lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu Bảo Đại. Để thực hiện một cuộc cải tổ sâu rộng, nhà vua đã mời ông Ngô Đình Diệm, lúc đó mới 31 tuổi, đang làm Tuần Vũ tỉnh Phan Thiết, đảm nhận chức vụ Thượng Thư Bộ Lại, một chức vụ đứng đầu Nội Các, tương đương Thủ Tướng ngày nay, và kiêm nhiệm chức Tổng Thư Ký Hội Đồng Hỗn Hợp PHÁP-VIỆT vào ngày 2 tháng 5 năm 1933. Lúc đó ông Diệm vừa tròn 33 tuổi.

Với chức vụ quan trọng này, ông Diệm đề nghị thi hành các kế hoạch canh tân xứ sở, như bãi bỏ hai chức Thống Sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ, đồng thời sát nhập hai kỳ Trung Bắc lại và bổ nhiệm một Thống Sứ cho cả hai miền, như cho phép Viện Dân Biểu được lo những vấn đề quốc sự giống như Quốc Hội. Nhưng đề nghị của ông Diệm không được Toàn Quyền Pasquier chấp thuận.

Ngày 12 tháng 7 năm 1933, ông Diệm đệ đơn lên Hoàng Đế Bảo Đại xin từ chức. Việc từ quan của chí sĩ Ngô Đình Diệm đã làm chấn động Triều Đình Huế và Chính Phủ Pháp thời đó.

Sau khi dứt khoát từ bỏ quan trường, ông Diệm lui về nhà làm dân thường. Sau này khi được Hoàng Đế Bảo Đại chấp thuận, ông Diệm về dạy học tại trường Providence Huế.
Trong khi lui về dạy học, ông Diệm âm thầm nghiên cứu các sách vở và thường xuyên liên lạc với các nhà ái quốc như Cụ Kỳ Ngoại Hầu Cương Để, Cụ Phan Bội Châu và những nhà ái quốc cách mạng chống Pháp, hiện đang hoạt động tại Nhật Bản và trong nước, để mưu cầu dành Độc Lập Tự Do cho đất nước.

Đến năm 1939-1945, Toàn Quyền Đông Dương là Thủy Sư Đô Đốc Jean Decoux ra lệnh cho Khâm sứ Trung Kỳ là Émille Grandjean, bắt ông Diệm đưa đi an trí tại Xieng Khoang, Lào. Nhưng nhờ có ông Nguyễn Bá Mưu làm Thông Phán tại Tòa Khâm Sứ biết được, đã vội vàng mật báo cho ông Diệm biết. Ông Diệm muốn trốn đi Phan Thiết, nhưng luôn bị Pháp truy lùng ráo riết, may nhờ có ông Trần Văn Dĩnh đang làm Hiến Binh cho Nhật, đã đưa được ông Diệm vào Sài gòn lánh nạn. (Sau này khi ông Diệm chấp chánh, đã cử ông Dĩnh làm Tổng Lãnh Sự tại Miến Điện, Tuỳ Viên Toà Đại Sứ rồi Xử Lý Thường Vụ Tòa Đại Sứ VNCH tại Hoa Thịnh Đốn).

Lánh nạn ở Sài gòn một thời gian, ông Diệm trở lại Huế để thăm mẹ già, và ông đã bị Việt Minh chặn bắt tại Tuy Hòa. Chúng giải ông ra Hà Nội. Ông bị Hồ Chí Minh đưa đi an trí tại Thái Nguyên. Nhưng sau đó nhờ giới Công Giáo do Giám mục Lê Hữu Từ lên tiếng phản đối quyết liệt, buộc lòng Hồ Chí Minh phải trả tự do cho ông, lại còn mời ông giữ chức Bộ Trưởng Nội Vụ. Nhưng ông Diệm cương quyết khước từ.

Tháng 8 năm 1950 ông Diệm cùng người anh là Giám Mục Ngô Đình Thục rời Saigon đi La Mã dự lễ Năm Thánh. Trên đường đi ông Diệm ghé qua Đông Kinh, thủ đô Nhật Bản. Tại đây ông có tiếp xúc với một số người Mỹ, trong đó có Giáo sư Wesley Fishel. Ông Fishel khuyên ông Diệm nên sang thăm Hoa Kỳ. Cũng trong dịp này ông Diệm đã ghé thăm các nước Bỉ, Thụy Sĩ, Pháp và sau đó ông sang Hoa Kỳ theo gợi ý của giáo sư Wesley Fishel.

Tới Hoa Kỳ, ông Diệm tạm trú trong nhà Dòng Mary Knoll, ở Lakewood thuộc tiểu bang New Jersey và ở Ossining tiểu Bang New York. Thời gian ở Hoa Kỳ, ông Diệm chú tâm trau giồi Anh Ngữ và được mời đến các trường Đại Học ở miền Đông và miền Trung Tây Hoa Kỳ để diễn thuyết về các vấn đề Việt Nam, Á Châu và hiểm họa Cộng Sản.

Tại Hoa Kỳ, ông Diệm được gặp Đức Hồng Y Francis Spellman, Tổng Giám Mục Nữu Ước, vì Đức Hồng Y Francis Spellman là bạn thân của Giám mục Ngô Đình Thục từ lúc 2 người cùng học tại La Mã. Ông còn giao tiếp với một số nhân vật trong chính giới Mỹ như các ông Mike Mansfield, Clement J. Zablock, J. McCormack, Dân biểu Walter Judd, William Douglas, Kennedy...

Các ông William, Douglas và Kennedy rất tán thưởng đường lối và quan điểm của ông Diệm và đồng ý là Việt Nam, phải Độc Lập với nước Pháp, và cần phải cải cách xã hội. Đến tháng 6 năm 1954, tình hình quốc nội rối ren, Hoàng Đế Bảo Đại chính thức mời ông Diệm về nước, giữ chức vụ Thủ Tướng toàn quyền về Dân Sự và Quân Sự. Ông Diệm về nước ngày 24 tháng 6 năm 1954, và chấp chánh quyền hành.

Từ năm 1954-1955, với cương vị thủ tướng, ông đã dẹp yên và thu phục lực lượng Bình Xuyên, lực lượng vũ trang của các giáo phái Hoà Hảo và Cao Đài, tiếp đó là cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam năm 1955 đã truất phế Quốc trưởng Bảo Đại, đưa Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thánh Quốc Trưởng. Quốc trưởng Ngô Đình diệm tổ chức Quốc Hội Lập Hiến cho Quốc Gia Việt Nam. Quốc Hội này ban hành Hiếp pháp đổi tên Quốc Gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng Hoà. Ông Ngô Đình Diệm được bầu làm Tổng thống của nền Đệ nhất Cộng Hoà Việt Nam ngày 23 tháng 10 năm 1955 và chính thể mới Việt Nam Cộng Hoà được thành lập và ra mắt vào ngày 26-10-1955.

Tổng thống Ngô Đình Diệm đã chọn hiệu kỳ của ông là Tiết Thực Tâm Hư với hình khóm trúc làm huy hiệu.

Sau khi lên làm Tổng thống, ông cùng với người em là Ngô Đình Nhu làm cố vấn đã đưa ra những sách lược và phương pháp cứng rắn để chống lại thành phần Việt Minh tại miền Nam do chính quyền Cộng sản miền Bắc chỉ đạo và hỗ trợ. Trong khi tại miền Bắc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được xây dựng theo học thuyết Xã Hội Chủ Nghĩa thì tại miền Nam, Việt Nam Cộng Hoà được xây dựng trên chủ nghĩa Nhân Vị với chính đảng là Cần Lao Nhân Vị. Với những chiến dịch tố cáo Cộng Sản nằm vùng, với những khẩu hiệu như: “đồng tâm diệt cộng”, “tiêu diệt cán bộ nằm vùng”, “tiêu diệt cộng sản tận gốc” và quan niệm của chánh phủ Diệm coi “Cộng sản là kẻ thù chính, nhiệm vụ phản công là tối ưu. Phải đẩy mạnh nhiệm vụ chống cộng” thêm vào đó là chương trình Ấp Chiến Lược, các lực lượng cách mạng của cộng sản miền Nam đã bị truy quyét, khủng bố và hao hụt một cách nặng nề. Tổng thống Diệm đã từng tuyên bố: “Thấy cộng sản ở đâu là bắn bỏ ngay, thấy ai tuyên truyền cho cộng sản cũng bắn bỏ ngay”.

Chánh quyền VNCH cũng tuyên bố bác bỏ cuộc tổng tuyển cử thống nhất VN dự trù sẽ diễn ra vào tháng 7 năm 1956 của Hiệp định Geneva với lý do không thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc. Với cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam và những hoạt động chống chính quyền của Việt Minh tại miền Nam, Ủy hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến Đông Dương cũng đã tuyên bố không có hy vọng đảm bảo một cuộc bầu cử thật sự tự do trong đó cử tri có thể bỏ phiếu theo ý muốn mà không sợ bị trả thù chính trị.

Trong một thời gian ngắn (8 năm 7 ngày), TT Ngô Đình Diệm đã biến miền Nam VN từ một lãnh thổ thuộc địa lên một quốc gia độc lập, phú cường với một quân đội hùng mạnh, một nền giáo dục, y tế chu đáo và một nền kinh tế ổn định. Bên cạnh đó chính phủ của ông còn tái định cư một cách thành công hơn 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư sau Hiệp định Geneva năm 1954.

Từ năm 1957 đến 1962 TT Ngô Đình Diệm bị Cộng sản ám sát hai lần nhưng ông may mắn thoát chết (ngày 22/2/1957 và ngày 27/2/1962). Ông cũng thoát hiểm trong cuộc đảo chánh bất thành lần thứ nhất vào ngày 11-11-1960 của một số sĩ quan cấp tá.

Với quan niệm dứt khoát và cương quyết không để Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến và chỉ đạo cuộc chiến chống cộng tại Việt-Nam. Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị chính quyền Hoa Kỳ tìm cách lật đổ với sự nhúng tay trực tiếp của cơ quan tình báo CIA và đại sứ Mỹ Cabot Lodge Jr. Một số tướng lãnh dẫn đầu bởi tướng Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn đã tổ chức cuộc đảo chánh và sát hại TT Ngô Đình Diệm vào ngày 1 tháng 11 năm 1963. Hành động đảo chánh này đã đưa Việt Nam Cộng Hoà đến tình trạng khủng hoảng lãnh đạo trong một thời gian dài cho đến khi tướng Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tổng thống năm 1965.

Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giết chết ngày 2-11-1963 hưởng dương 62 tuổi.

Xin được trích một số những lời tuyên bố của cố TT Ngô Đình Diệm:

- “Tôi không phải là thần thánh, tôi chỉ là một người bình thường, tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc, một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc”

- “Đời sống dân chủ phải căn cứ trên sự tôn trọng nhân vị, tôn trọng công ích, công lợi, tôn trọng các xu hướng dị đồng miễn là đừng đưa tới hỗn lọan hay che đậy thâm ý bảo thủ bất động”

- “Chế độ này tuy còn nhiều khuyết điểm, cũng còn hơn nhiều chế độ khác. Người ta chê là độc tài nhưng chỉ ngại còn những thứ độc tài khủng kiếp hơn. Tôi tiến thì theo tôi, tôi lui thì bắn tôi, tôi chết thì trả thù cho tôi”

- “Thấy cộng sản ở đâu là phải bắn bỏ ngay, thấy ai tuyên tryền cho cộng sản cũng bắn bỏ ngay”

- “Nếu quý vị mang quân đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào với dân tộc tôi? Với người dân Việt, hình ảnh hãi hùng của quân đội viễn chinh Pháp còn hằn sâu trong tâm trí họ. Sự can thiệp của bất cứ quân đội ngoại quốc nào vào Việt Nam cũng đem lại sự bất lợi cho ViệtNam”

---

0 comments:

Powered By Blogger