Đỗ Nam Hải – Phương Nam (danlambao) – “… Việt Nam! Ôi nước Việt yêu thương! Lịch sử đã trao cho người một sứ mạng thiêng liêng, mang trên mình còn lắm vết thương, Người vẫn hiên ngang ra chiến trường, vì một lẽ sống cao đẹp cho mọi người: Độc Lập – Tự Do!”.
Ngày 17/2/1979, quân Trung Quốc đồng loạt nổ súng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Ngay trong đêm hôm đó, nhạc sỹ Phạm Tuyên đã sáng tác kịp thời bài hát “Chiến đấu vì độc lập – tự do”, trong đó có những lời ca trên.
Hơn 1 năm sau, xuất phát từ “thực tiễn sinh động” của 2 nhà nước cộng sản “núi liền núi, sông liền sông” Việt Nam – Trung Hoa, trong Lời nói đầu của bản Hiến pháp Việt Nam năm 1980 có đoạn: “…Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hòa bình để xây dựng Tổ quốc, nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Campuchia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn phản động Campuchia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình”.
Hơn 32 năm sau, tình hình là như sau:
a) Hoạt động gây hấn của phía Trung Quốc:
- Trong những ngày cuối tháng 5 và đầu tháng 6 năm 2011, phía Trung Quốc liên tục có những hành động gây hấn ở Biển Đông. Cụ thể là Trung Quốc đã huy động nhiều loại tàu xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam và Philippines: từ tàu đánh cá có tàu ngư chính yểm trợ đằng sau, cho đến các loại tàu hải giám và cả tàu quân sự. Ngoài việc ngang nhiên xâm phạm, những tàu này còn tiến hành những hoạt động phá hoại như đâm thẳng vào tàu đánh cá, cắt cáp thăm dò các tàu Bình Minh 2 và Viking 2 của Việt Nam, bắt ngư dân để đòi tiền chuộc,…
- Ngay sau đó, phía Trung Quốc đã ra thông báo bác bỏ những cáo buộc họ xâm phạm chủ quyền của Việt Nam và Philippines. Họ chối bừa rằng họ chỉ đang tiến hành các “hoạt động bình thường” tại Biển Đông và “tàu hải giám Trung Quốc đã thực thi các hành động chấp pháp đối với tàu Việt Nam đang hoạt động phi pháp trên vùng biển của Trung Quốc”, rồi khẳng định: “Trung Quốc luôn nỗ lực duy trì hòa bình trên Biển Đông”. Tướng Trung Quốc là Bành Quang Khiêm còn tuyên bố: “Tranh chấp Biển Đông tồn tại từ lâu và tình hình đột nhiên căng thẳng là do Việt Nam và Philippines gần đây liên tục khiêu khích. Trung Quốc từng dạy cho Việt Nam một bài học. Nếu Việt Nam không chân thành, tiếp tục diễu võ dương oai, múa trên lưỡi dao thì sớm muộn cũng có ngày Việt Nam sẽ ngã trên lưỡi dao,…”.
b) Phản ứng của Philippines và thế giới:
Nhiều nhà hoạt động chính trị và quân sự tại Philippines đã mạnh mẽ chỉ trích Trung Quốc là “kẻ bắt nạt” trong khu vực. Báo Philippines Daily Inquirer dẫn lời Nghị sĩ Roilo Golez cho rằng: “Chúng ta phải quốc tế hóa vấn đề tranh chấp biển Đông trên kênh chính thức lẫn không chính thức”. Tổng thống Philippines ông Begnino Aquino cho biết sẽ đệ trình lên Liên Hiệp Quốc chi tiết về các vụ tàu Trung Quốc xâm nhập lãnh hải Philippines.
Trong Thông điệp Quốc gia hàng năm đọc trước Quốc hội vào tháng 7/2011, ông khẳng định: “… Philippines sẽ nâng cấp lực lượng vũ trang hiện nay, bao gồm việc mua tàu hải quân mới cùng nhiều vũ khí hiện đại. Chúng ta không muốn làm gia tăng căng thẳng với bất kỳ nước nào nhưng chúng ta phải cho thế giới thấy rằng chúng ta sẵn sàng bảo vệ những gì thuộc về mình. Philippines sẽ không cho phép các quốc gia khác áp đặt ý chí riêng vào các tranh chấp chủ quyền lãnh hải. Đây là lúc chúng ta không chỉ thể hiện sự đáp trả với những đe dọa một cách rụt rè nữa. Thông điệp của chúng ta với thế giới là rất rõ ràng: cái gì thuộc về Philippines là của Philippines!”.
Đi đôi với những lời tuyên bố trên, Philippines đã cho chiến đấu cơ đuổi tầu Trung Quốc xâm phạm ra khỏi vùng biển nước này. Tương tự, khi Trung Quốc xâm phạm vùng trời, vùng biển của mình thì Malaysia cho chiến đấu cơ và tàu chiến rượt đuổi, Indonesia bắt giữ tàu Trung Quốc và phản đối lên Liên Hiệp Quốc, Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc vi phạm, v.v… Ngoài ra, nhiều nước ở Đông Nam Á, Đông Bắc Á như: Philippines, Malaysia, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, đã tiến hành các cuộc tập trận chung với hải quân Mỹ trên biển Đông. Trước những phản ứng mạnh mẽ và kịp thời như vậy của các nước trên, Trung Quốc đã buộc phải tạm co vòi lại.
Trong một diễn biến khác, Quốc hội Mỹ đã thông qua Nghị quyết lên án việc Trung Quốc dùng vũ lực ở biển Đông. Đồng thời, kêu gọi một giải pháp đa phương, hòa bình cho các tranh chấp tại khu vực này. Trong bản Nghị quyết có đoạn: “… Dù không phải là một trong các nước cùng tranh chấp trên biển Đông, Mỹ muốn bảo vệ quyền lợi kinh tế và an ninh của mình tại khu vực bằng sự bảo đảm rằng không bên nào đơn phương dùng đến vũ lực để khẳng định chủ quyền hàng hải của mình”.
c) Phản ứng của phía lãnh đạo Việt Nam:
- Ngày 25/6/2011, họ cử ông Hồ Xuân Sơn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam sang Trung Quốc gặp các ông Trương Chí Quân, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc và Đới Bỉnh Quốc, Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc. Trong khi các báo đài lề phải ở Việt Nam đưa tin sơ sài và mập mờ về cuộc gặp gỡ này thì ngày 28/6/2011, tờ Tân Hoa Xã của Trung Quốc lại đưa tin rất chi tiết. Trong đó có đoạn: “… Cả hai nước đều phản đối những thế lực bên ngoài can dự vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam, nguyện sẽ tích cực hướng dẫn công luận và ngăn ngừa những lời bình luận hoặc hành động làm tổn hại tới tình hữu nghị và sự tin cậy giữa nhân dân hai nước…”.
- Ngày 28/8/2011 tại Bắc Kinh, trong cuộc đối thoại chiến lược quốc phòng an ninh Việt – Trung cấp thứ trưởng lần thứ hai, dưới sự đồng chủ trì của Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam và Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Ông Vịnh phát biểu: “… Việt Nam không có ý định quốc tế hóa các vấn đề giữa Việt Nam và Trung Quốc vì chính lợi ích của chúng tôi…” và: “…Một thực tế hiển nhiên là Trung Quốc cam kết không lấy đất, lấy biển của Việt Nam và Việt Nam cũng không bao giờ nhượng bộ vô nguyên tắc về chủ quyền. Việt Nam cũng không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc…”.
Đề cập đến những cuộc biểu tình, xuất phát từ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam nhằm chống lại những hành động gây hấn của phía Trung Quốc từ đầu tháng 6/2011 đến nay, ông Vịnh nói tiếp: “Việt Nam sẽ kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam và dứt khoát không để sự việc tái diễn”. Nói và làm: những cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội và Sài Gòn đã bị công an đàn áp mạnh trong các tháng 6,7,8/2011. Những người Việt Nam yêu nước bị bao vây, bắt bớ, bị đánh đập, bóp cổ và bị đạp vào mặt,… Không những thế, họ còn bị lăng nhục trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các cuộc họp chi bộ và các buổi họp tổ dân phố, …
- Về phía những nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam: cũng như những người tiền nhiệm, các ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng bí thư, Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước, Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch quốc hội, Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng chính phủ mới được bầu trong năm 2011 đều tuyên bố một cách chung chung, đại loại như: “… Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải giữ vững bằng được chủ quyền quốc gia và sự ổn định chính trị xã hội, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước…” hoặc: “chủ quyền biển đảo là thiêng liêng và bất khả xâm phạm”, v.v…
- Về phía Quốc hội Việt Nam: Quốc hội khóa mới, bế mạc vào ngày 6/8/2011 như thường lệ vẫn được đánh giá là “thành công tốt đẹp”! Thế nhưng, phía sau sự “thành công tốt đẹp” ấy thì: Nghị quyết về biển Đông không có, những nguy cơ khác đến từ Trung Quốc như: sự nguy hiểm về nhiều mặt trong dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên đang được hai bên triển khai, việc cho Trung Quốc thuê 300.000 ha rừng – thời hạn 50 năm tại nhiều tỉnh của Việt Nam, việc hàng hóa độc hại, kém chất lượng, trốn thuế của Trung Quốc được nhập ào ạt vào Việt Nam, việc lao động phổ thông Trung Quốc sống tại các khu riêng biệt của người Trung Quốc xuất hiện ngày càng dày đặc từ Lạng Sơn tới Cà Mau, việc thương lái Trung Quốc thu gom nguyên liệu của Việt Nam, v.v… vẫn không sao ngăn chặn được. Tất cả những vấn đề trên và nhiều vấn đề khác nữa, liên quan đến vận mệnh sống còn của dân tộc thì hoặc là không có trong chương trình nghị sự, hoặc nếu có thì chỉ được đề cập đến một cách qua quýt, chiếu lệ tại diễn đàn Quốc hội Việt Nam.
Từ những trình bày trên, có thể rút ra một số nhận xét sau:
1) Dẫu mức độ và sự biểu hiện ra bên ngoài trong mỗi giai đoạn lịch sử là khác nhau, nhưng có thể khẳng định rằng: Mưu đồ muốn thôn tính Việt Nam của Trung Quốc là không hề thay đổi, dù đó là Trung Quốc phong kiến xưa hay Trung Quốc cộng sản nay. Trung Quốc hiểu rất rõ rằng: trong điều kiện thế giới ngày nay, việc tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược bằng quân sự toàn diện vào Việt Nam là rất khó thực hiện. Vì vậy, họ đã tìm một cách xâm lược kiểu mới đối với Việt Nam, mà trước hết là sự xâm lược về chính trị thông qua việc tìm cách ve vãn, mua chuộc, chi phối và tiến tới khống chế được một số kẻ trong Ban lãnh đạo Hà Nội. Họ sử dụng triệt để đám “thái thú đời mới” này làm tay sai, để từng bước hướng đường lối phát triển của Việt Nam đi theo ý đồ xấu xa, thâm độc của Trung Quốc.
2) Sau khi đạt được sự xâm lược bằng chính trị trên đây, Trung Quốc sẽ tiến hành những cuộc xâm lược tiếp theo về các mặt khác như: kinh tế, văn hóa, xã hội,… khi thì lẳng lặng, âm thầm, lúc lại ồn ào, cấp tập đối với Việt Nam; kể cả bằng quân sự nếu thấy cần thiết. Trường hợp thấy không cần thiết, họ sẽ chỉ tiến hành những hành động đe dọa bằng quân sự lúc động, lúc tĩnh; kết hợp với những hành động xâm lược cục bộ trên đất liền, trên biển và trên không sao cho: vừa đủ để răn đe, gặm nhấm nhưng lại chưa đủ để có sự can thiệp mạnh mẽ của thế giới. Bởi vì họ cũng hiểu rằng: nếu liều lĩnh làm như vậy thì chính họ sẽ tự chuốc vạ vào thân, mà điều này thì Bắc Kinh luôn muốn tránh. Hơn nữa, nội tình của một nhà nước cộng sản, độc đảng toàn trị này cũng đã và đang là một thùng thuốc súng, với hàng trăm ngàn cuộc biểu tình lớn, nhỏ của nhân dân Trung Quốc để phản đối chế độ nổ ra hàng năm, buộc họ phải tính toán kỹ lưỡng.
3) Thủ đoạn xâm lược mới trên đây của Trung Quốc là cực kỳ nguy hiểm đối với dân tộc ta. Bởi vì đây chính là chiến lược dùng người Việt Nam tiêu diệt người Việt Nam mà họ đã thực hiện thành công tại Campuchia, đẩy dân tộc hiền hòa này vào thảm họa diệt chủng kinh hoàng như chúng ta đã biết. Nay họ đang quyết tâm hiện thực hóa nó ở Việt Nam. Nhìn lại giai đoạn 1975 – 1979 tại Campuchia, chúng ta thấy: khi mà nhân dân và rất nhiều người cộng sản Campuchia lúc đó nhận thức ra được dã tâm xấu xa của Trung Quốc, cộng với sự phản bội trắng trợn dân tộc của bè lũ diệt chủng Polpot – Yengxary thì đã không còn kịp nữa. Lúc đó họ đã bị trói tay, bịt miệng và cả một dân tộc đã bị tước đoạt hết vũ khí chiến đấu thì số phận của họ chỉ có thể là để cho những chú Angka choai choai 13-17 tuổi lấy cuốc bổ vào đầu, rồi hất tất cả xuống hố mà thôi!
Và trách nhiệm lớn lao của đội ngũ trí thức, của những người đấu tranh dân chủ Việt Nam là phải bằng mọi nỗ lực làm cho mọi người dân Việt Nam hiểu rõ điều này, trước khi quá muộn. Đồng thời, phải vạch trần rõ thủ đoạn sau: những người trong Ban lãnh đạo cấp cao ở Bắc Kinh mỗi khi có dịp gặp gỡ với Ban lãnh đạo Hà Nội thì họ luôn rêu rao về “Phương châm 16 chữ vàng” và “tinh thần 4 tốt”, coi đó là “tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển cho quan hệ hai nước Việt – Trung trong thế kỷ mới”. Thực chất, đây chính là trò “bồ câu” ở cấp Trung ương nhưng lại “diều hâu” ở cấp thấp hơn, hòng lừa bịp dư luận.
4) Nếu như một nước Trung Quốc cộng sản đã từng gây tội ác với chính dân tộc họ, qua các chiến dịch như “Đại nhảy vọt”, “Cách mạng văn hóa”, đàn áp ở Thiên An Môn, Pháp Luân Công, Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông hoặc với dân tộc khác như họ đã từng làm ở nước “Campuchia dân chủ”,… thì Trung Quốc cũng sẽ có thừa sự tàn ác để làm điều đó với dân tộc Việt Nam! Trung Quốc không chỉ muốn đạt được tham vọng “đường lưỡi bò” trên biển Đông mà họ còn có tham vọng thực hiện “đường lưỡi bò” tương tự trên đất liền, với tất cả các quốc gia có chung đường biên giới với họ, đặc biệt là với Việt Nam. Muốn vậy, trước hết họ phải thực hiện được thắng lợi kế hoạch “đường lưỡi bò” trong nội bộ Ban lãnh đạo ở Hà Nội! Bài học ngàn năm xưa về sự mất nước của An Dương Vương, qua việc bị cha con nhà Triệu Đà – Trọng Thủy lập mưu đánh tráo nỏ thần là vẫn còn nguyên giá trị!
5) Phải dân chủ hóa đất nước thì mới xây dựng và bảo vệ được Tổ Quốc! Đó vừa là mục tiêu vừa là mệnh lệnh của cuộc sống hôm nay! Chính vì Việt Nam không có dân chủ và bị phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây, nên ông Hồ Chí Minh và các đồng chí cộng sản của ông đã thông đồng với sự buôn bán chính trị bẩn thỉu giữa Trung Quốc với Pháp, trong Hiệp định Genèvevề Đông Dương, ngày 20/7/1954. Một nước Trung Quốc cộng sản lộ rõ dã tâm xâm lược Việt Nam là đã có từ ngay sau khi nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa của Mao Trạch Đông được thành lập (1/10/1949), chứ không phải là gần đây mới có!
Tài liệu “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” (Nhà xuất bản Sự Thật – Hà Nội – tháng 10/1979) đã chỉ rõ điều này: “…Cuộc kháng chiến thắng lợi của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia chống thực dân Pháp đã đưa đến Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương. Pháp lo sợ thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam sẽ dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc Pháp. Trung Quốc là nước cung cấp nhiều vũ khí nhất cho Việt Nam vào cuối cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp. Những người lãnh đạo Trung Quốc đã lợi dụng tình hình đó để đứng ra làm người thương lượng chủ yếu đối với đế quốc Pháp, cấu kết với chúng và cùng nhau thoả hiệp về một giải pháp có lợi cho Trung Quốc và Pháp, không có lợi cho nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Họ đã hy sinh lợi ích của nhân dân ba nước ở Đông Dương để bảo đảm an ninh cho Trung Quốc ở phíaNam, để thực hiện mưu đồ nắm Việt Nam và Đông Dương, đồng thời để có vai trò là một nước lớn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, trước hết là ở châu Á…”.
Cũng qua tài liệu trên, chúng ta cũng nhận rõ thêm một vấn đề nữa là: ngay cả khi ông Hồ Chí Minh còn sống thì sự phụ thuộc, rồi sau đó là cúi đầu tuân phục trước dã tâm xâm lược xấu xa của Trung Quốc là đã có, chứ không phải là sau này mới có. Vì vậy, luận điểm cho rằng: “Để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc thì hôm nay, Việt Nam cần phải quán triệt sâu sắc hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh, biến nó thành những hành động thiết thực trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và toàn bộ hệ thống chính trị…” là hoàn toàn sai lầm. Nó đã bị chính thực tiễn lịch sử đau thương của dân tộc ta trong suốt hơn 60 năm qua bác bỏ hoàn toàn!
6) Không còn nghi ngờ gì nữa, chính cái chế độ độc đảng, toàn trị ở Việt Nam bao năm qua là vấn đề của mọi vấn đề, nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến tình trạng nguy hiểm và thảm trạng bi đát của đất nước hôm nay! Cái chế độ mà “Quay mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa, cả một thời đểu cáng đã lên ngôi” (thơ Bùi Minh Quốc) lại bắt nguồn từ ngày 2/9/1945, khi mà mục tiêu cao đẹp là giành Độc lập dân tộc đã bị ông Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông ta ngang nhiên đánh tráo thành mục tiêu Cộng sản hóa đất nước. Lúc đầu là ở miền Bắc, sau ngày 20/7/1954 và cả nước, sau ngày 30/4/1975. Kể từ đó, Quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam đã hoàn toàn bị thủ tiêu! Đề cập đến vấn đề này, tiến sỹ Hà Sỹ Phu cũng đã viết: “… Trong cơn khát khao giành Độc lập, một vài dân tộc ít tiếp xúc với văn minh như dân tộc ta chẳng may đã uống nhầm phải thứ nước giải khát có chất độc. Lúc đầu rất hả hê vì đỡ khát thật, nhưng rồi tim gan nhiễm độc không biết chữa cách nào. Dân mất quyền làm chủ thực sự đất nước thì cũng như mất nước. Mất nước vào tay người đồng bang thì gọi là Nạn nội xâm. Công và tội thế nào cũng là từ đó, lối ra thế nào cũng là từ đó.”
Để kết luận cho bài viết này, tôi xin được trích lại một đoạn trong bài “Việt Nam Đất Nước Tôi” của tôi (viết vào tháng 6/2000), khi đề cập đến mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc:
“… Chính sợi dây ràng buộc “cùng ý thức hệ” hiện nay mới là nguy hiểm nhất, nó làm cho thế giới và các nước trong khu vực nghi ngại chúng ta. Sợi dây ấy có thể đứt bất cứ lúc nào như nó đã từng bị đứt và bên chịu thiệt thòi vẫn là dân tộc Việt Nam. Một khi đã biết được dã tâm muốn “đánh tráo nỏ thần” rồi mà vẫn cho phép họ được “ở rể” thì những kẻ có tội với dân tộc chính là những “An Dương Vương” thời nay!”.
http://thuvien.maivoo.com/Ton-giao-Chinh-Tri-c24/Viet-Nam-Dat-Nuoc-Toi-d4174
Tháng 10/2011.
Đỗ Nam Hải (Phương Nam) – Việt Nam
danlambaovn.blogspot.com
======
Hình đính kèm:
Hai tấm hình này tôi nhờ một chiến sỹ biên phòng Việt Nam chụp cách đây 20 năm, vào ngày 17/9/1991, nhân một chuyến công tác lên Đồng Đăng – Lạng Sơn, khi tôi còn làm việc trong ngành ngân hàng.
Hình 1: Cột cây số: “Hữu Nghị Quan 0 km”.
Hình 2: Đường biên giới Việt Nam – Trung Quốc lúc đó được dựng tạm thời bằng hàng rào dây kẽm gai:
Theo lời người chiến sỹ biên phòng thì Ải Nam Quan nằm cách đó khoảng 500 m (0,5 km) về phía Bắc và xung quanh ngôi đường tráng nhựa đã xuống cấp trong ảnh là còn rất nhiều bom, mìn do quân Trung Quốc cài lại, trong cuộc chiến tranh Việt – Trung ở biên giới phía Bắc, vào tháng 2 và tháng 3 năm 1979.
0 comments:
Post a Comment