Căm thù chính là vũ khí bí mật của chủ nghĩa toàn trị: nhiễm độc toàn
bộ cấu trúc tinh thần của con người bằng căm thù, và như thế cướp mất
nhân phẩm của họ. Chính tôi bị hủy diệt vì cơn cuồng nộ hủy diệt của
mình. Nhân phẩm của tôi bị mất đi trong tự mãn và ngây thơ của mình; sự
gắn bó cá nhân của tôi cũng như mối liên lạc và đoàn kết với những người
khác theo đó cũng biến mất. Căm thù chẳng có gì giống đoàn kết; những
người căm thù không trở thành bằng hữu vì họ có chung kẻ thù bị căm
ghét. Ngoại trừ trong những lúc đánh nhau trực tiếp, họ vẫn còn xa lạ và
thù hằn lẫn nhau. Hầu như không có xã hội nào sôi sục căm thù bí mật
lẫn công khai và ganh tị bằng những xã hội cố gắng lấy căm thù làm nền
tảng cho sự đoàn kết và hứa hẹn thể chế hóa tình huynh đệ...
*
Giái thưởng danh dự này xếp tôi vào những người mà tự nhiên tôi tự hào
được ở trong nhóm họ, tuy nhiên đồng thời tôi cũng cảm thấy lo lắng.
Trong những người này là những nhân vật rất nổi tiếng, những người chúng
ta đặc biệt phải biết ơn vì sự hướng dẫn tinh thần của họ: Albert
Schweitzer, Martin Buber, Karl Jaspers, Sarvepalli Radharkrishnan, Janus
Korczak- chỉ nhắc tên vài người đã khuất. Chúng ta biết ơn họ đặc biệt
vì họ dạy chúng ta cách lánh xa căm thù mà không tránh xung đột và cách
không dùng đến ngôn ngữ căm thù. Và tôi muốn có đôi lời bàn đến chủ đề
căm thù.
Ước gì thế giới không có căm thù là lời tuyên bố hầu như vô nghĩa vì rõ
ràng không ai mà không đồng ý. Không may, bản thân điều ấy chứng tỏ
rằng, nếu không có lời giải thích gì thêm, riêng câu nói này thôi sẽ chỉ
có giá trị tượng trưng. Nhưng ta chắc chắn đừng tưởng hiển nhiên rằng
một thế giới như thế, nếu may mắn thành hình được, sẽ chỉ có thể thành
hình qua cuộc đấu tranh không có căm thù: nói một cách khác, càng ít căm
thù ảnh hưởng đến các cuộc xung đột ngày nay, thế giới ấy càng có thể
ra đời. Dù sao, hầu như tất cả những hình thức tuyên truyền căm thù đều
được dùng làm phương tiện thiết lập cộng đồng thế giới huynh đệ, và căm
thù cái ác (hay bất kỳ điều gì bị quy là ác) khiến những ai căm thù tất
nhiên trở thành thánh thiện, như thể đây là trường hợp của luật phủ định
kép hợp lý: Ai căm thù kẻ căm thù thánh thiện chính mình là thánh
thiện. Tưởng chừng càng vô lý hơn khi nói căm thù gây ra cái ác bất luận
mục tiêu căm thù nào. Ai nhớ lại lời giản dị của Spinoza, “căm thù
không bao giờ có thể tốt”, hay nhắc lại lời giáo huấn cô đọng của Thánh
Phaolô trong kinh Romans 12:21, “Hãy lấy thiện mà thắng ác”, dễ bị chế
nhạo là kẻ giảng đạo ngây thơ hay còn bị căm thù như là kẻ thù của thế
giới tốt đẹp hơn.
Trong phạm vi vấn đề này, tôi sẽ nhắc lại những nguyên tắc mà chúng ta
có thể coi là những chắt lọc từ những lời giảng dạy đạo đức không chỉ
cao đẹp nhất mà còn cốt yếu nhất và bất biến nhất của nhiều đấng tiên
tri tôn giáo vĩ đại và nhiều triết gia vĩ đại:
Bất luận hoàn cảnh nào ta cũng không có quyền căm thù.
Thật là phi lý khi nói ai đáng căm thù.
Chúng ta có thể sống không có căm thù.
Từ bỏ căm thù hoàn toàn không có nghĩa là từ bỏ cuộc đấu tranh.
Chính biến thành tà nếu nhờ căm thù mà chính bắt đầu có ảnh hưởng; hay-
tương tư như thế-chính tự hủy diệt khi dùng căm thù để đạt đến công lý.
Đây là những tư tưởng đã được biết đến từ lâu, trong đó nhiều tư tưởng
rõ ràng là những phán xét giá trị, ngược lại những tư tưởng khác liên
quan đến những sự thật thực nghiệm. Nhưng ta có thể đưa ra những lý lẽ
đạo đức cũng như xác thật để bác lại những tư tưởng trên. Những lý lẽ
này có thể được tóm tắt trong ba ý chính: thứ nhất, căm thù là tự nhiên
và vì thế không thể tránh được; thứ hai, căm thù hiệu quả trong bất kỳ
cuộc đấu tranh nào, vì thế cũng hiệu quả trong cuộc đấu tranh cho công
lý; thứ ba, căm thù có thể được biện minh về mặt đạo đức, vì có những
người và những điều đáng căm thù.
Những lý lẽ này cần phải đáp lại.
Chắc chắn căm thù có thể là tự nhiên tương tự như tất cả những cảm xúc
mạnh mẽ cơ bản khác. Nhưng nếu điều này hàm nghĩa là không ai có thể
sống mà không có căm thù, thì sự khẳng định này chắc chắn sai lầm về mặt
thực nghiệm, vì số người có thể không để cho căm thù dẫn dắt mình tuy
rất ít, nhưng họ đã tồn tại và đang thực sự tồn tại trong thế giới chúng
ta. Tuy nhiên, trong trường hợp sự khẳng định này ám chỉ rằng đa số
chúng ta, và ngay cả với tuyệt đại đa số, đều quá yếu đuối nên không thể
nào thoát ra khỏi căm thù, thì sự khẳng định này có thể đúng, tuy nhiên
điều này không liên quan đến sự đánh giá căm thù về mặt đạo đức, và nó
hoàn toàn không chứng tỏ lời dạy về sống không căm thù là sai lầm. Tất
cả những lời dạy về đạo đức phần nào đều không tự nhiên; những lời dạy
này thật ra sẽ không cần thiết nếu như bản năng thực hiện đúng hoàn toàn
mục đích những lời dạy này. Mặt khác, vì chắc chắn chúng ta có thể chế
ngự được những cảm xúc mạnh mẽ tự nhiên của mình, cho nên chuyện rất
nhiều người trong chúng ta sống trong cảnh ác không làm cho bất kỳ một
cá nhân nào ít ác hơn. Chúng ta chắc chắn sẽ lâm vào tình cảnh tệ hại
hơn nếu chúng ta đồng ý với ý tưởng của Luther rằng Chúa đặt ra những
điều răn chúng ta không thể nào làm theo được - rằng Chúa rõ ràng yêu
cầu chúng ta thực hiện những kỳ tích không thể nào đạt được. Ngay khi
chúng ta xác định rằng những lời dạy đạo đức nói chung vượt quá khả năng
của chúng ta, tất cả những sự phân biệt về đạo đức giữa người và người
với nhau hầu như phải biến mất, bất luận chúng ta có thể trông mong bao
nhiêu chăng nữa vào lòng từ bi của Chúa.
Để đối chiếu với sự tuyệt vọng của Luther tôi muốn đưa ra nguyên tắc của
Kant: nếu theo những lời dạy đạo đức chúng ta biết điều chúng ta nên
làm, thì chúng ta cũng biết rằng chúng ta có thể làm được điều ấy; quả
thật chỉ chính từ chuyện chúng ta nên làm điều ấy chúng ta mới biết
chúng ta có thể làm được điều ấy, mặc dù chúng ta không nhất thiết biết
vào lúc thử thách liệu chúng ta sẽ thực hiện được bổn phận của chúng ta
hay không. Chúng ta không biết chắc chắn thế giới không có căm thù rốt
cuộc có thể tồn tại chăng, hay có những nguyên nhân tự nhiên khiến thế
giới ấy không thể nào ra đời được chăng. Nhưng cho dù chúng ta không coi
trọng sự kỳ vọng vào thế giới như thế-nếu chúng ta tin chắc rằng căm
thù sẽ không bao giờ bị xóa bỏ hoàn toàn ra khỏi thế giới này-thì điều
này vẫn không biện minh căm thù sôi sục trong lòng ta. Ác phải thuộc về
bản chất của thế giới này, nhưng đau khổ thay cho những ai nuôi dưỡng
cái ác trong lòng: lời răn đe này là một trong những viên gạch vững bền
nhất dựng nên nền văn minh Thiên Chúa giáo. Không có viên gạch này, tức
không có sự xác tín rằng liệt kê ra cái ác không biện minh cái ác trong
chính lòng ta, ý tưởng về trách nhiệm sẽ là vô ích và cũng bằng thừa.
Vì thế, nếu ta không thể nào phủ nhận rằng căm thù sẽ sinh ra căm thù,
thì đấy chỉ là điều tự nhiên, chứ không phải là định mệnh chúng ta có
thể chống lại được cũng giống như chúng ta hoàn toàn không thể ngăn cản
một vật được buông ra không rớt xuống đất thay vì bay lên. Nếu ai hỏi,
“Liệu hợp lý chăng khi mong chờ những nạn nhân của Himler hay Beria
không nên căm thù những kẻ hành hình họ, những người đang bị tra tấn, bị
sỉ nhục, bị cướp đoạt tự do, nhân phẩm, và các quyền cơ bản của họ có
thể nên bắt chước Jesus Christ?” Tôi sẽ trả lời, “Không, chúng ta không
thể mong chờ những chuyện như thế.” Tuy nhiên vấn đề còn lại là phải
chăng chúng ta có quyền căm thù ngay cả trong hoàn cảnh rất vô nhân đạo
và tàn ác; phải chăng lòng căm thù của chúng ta, mặc dù nó có thể là tự
nhiên và bình thường, là chính đáng về mặt đạo đức; tóm lại, phải chăng
có những kẻ đáng căm thù.
Nói một cách chính xác, dường như căm thù cũng có thể xứng đáng không
kém gì tình yêu. Ta không thể nào lấy công lý mà suy ra tình yêu lẫn căm
thù. Điều gì đấy có thể được xứng đáng chỉ qua sức mạnh của luật pháp;
nhưng không luật pháp nào có thể yêu cầu, áp đặt, hay cưỡng ép tình yêu;
do vậy, luật pháp cũng không thể yêu cầu căm thù. Cả hai đều được cho
không, mà không có lý do pháp lý.
Nhưng ta có thể hỏi phải chăng không có những người, những điều, những
phong trào và những chế độ đáng phải hủy diệt hoàn toàn, và phải chăng
căm thù không đồng nghĩa với nỗ lực đạt đến sự hủy diệt toàn bộ? Tôi sẽ
trả lời rằng chắc chắn có những tổ chức của con người, thể chế, phong
tục, hoạt động, phong trào, chế độ chính trị, niềm tin, có lẽ cả con
người đáng hủy diệt. Tuy nhiên, căm thù không giống như ước muốn hủy
diệt (không nói gì về niềm xác tín rằng điều gì đấy đáng hủy diệt). Lòng
căm thù của chúng ta hướng vào những con người và những nhóm người-vào
quốc gia, chủng tộc, giai cấp, đảng phái, vào giàu và nghèo, vào đen và
trắng- chứ không vào những điều trừu tượng như chế độ chính trị hay tư
tưởng. Odium peccati, căm thù tội lỗi, là một ẩn dụ: chúng ta chỉ có thể
căm thù những kẻ có tội, mà trong đó có lẽ có chính chúng ta. Căm thù
còn hơn cả ao ước hủy diệt; tựa như tình yêu, căm thù bao hàm gần như sự
vô cùng, tức là, sự không bao giờ thỏa mãn. Căm thù không chỉ cố gắng
để hủy diệt, mà cố gắng để gây ra đau đớn vô tận, để trở thành Satan; vì
chính bản chất của quỷ là không bao giờ có thể đạt đến sự thỏa mãn về
thành quả hủy diệt.
Cùng với điều này chúng tôi cũng trả lời phần nào câu hỏi thứ hai: Phải
chăng căm thù có thể luôn luôn tốt cho chính nghĩa, phải chăng căm thù
có thể thánh thiện theo cách hiểu này? Khi chúng ta hỏi câu hỏi phụ,
hiển nhiên một tiếng không rõ ràng hàm nghĩa câu trả lời: Tại sao tất cả
các chế độ toàn trị đều luôn luôn cần căm thù như một công cụ không thể
thay thế được? Họ cần nó không chỉ để duy trì sự động viên sẵn sàng như
mong muốn và càng không chủ yếu để hướng dẫn sự thất vọng, tuyệt vọng,
và sự hung hăng dồn nén của con người đối với những kẻ khác và qua đấy
biến chúng thành vũ khí của chính họ. Không, khao khát căm thù được giải
thích từ sự thật rằng căm thù hủy diệt tinh thần những ai căm thù. Căm
thù khiến họ về mặt đạo đức không thể nào chống lại Nhà nước; căm thù
giống như tự hủy diệt, hay tự tử tinh thần, và do vậy căm thù hủy diệt
tận gốc rễ sự đoàn kết giữa những người căm thù. Câu nói “căm thù mù
quáng” là thừa từ; trong căm thù đã có mù quáng. Vì, ít nhất trong hình
thức tuyệt đối của nó, căm thù chiếm lĩnh toàn bộ phạm vi tinh thần của
con người ở chỗ rằng căm thù cũng tương tự như tình yêu, căm thù có thể
dường như là phương tiện hợp nhất nhân cách. Nhưng ngược lại mới đúng,
mà một mặt chỉ ra sự bất xứng giữa tình yêu và căm thù, và mặt khác chỉ
ra lý do tại sao không nhà nước toàn trị nào có thể từ bỏ giáo dục căm
thù. Quan điểm tiêu cực hoàn toàn của căm thù, mà làm tê liệt tất cả
giao tiếp của con người, cũng hủy diệt sự hợp nhất tinh thần của nhân
cách, và vì lý do này căm thù là phương tiện không thể thay thế được để
tước đoạt sự kháng cự của tâm hồn con người.
Sự hợp nhất tinh thần của chúng ta là kết quả của sự giao du với những
người khác, của lòng tin và tình thân; sự hợp nhất ấy không phải là kết
quả của tâm trạng trống rỗng mất mát của thực thể bản ngã cô độc và hoàn
toàn chỉ biết mình.Sức mạnh sôi sục của căm thù khiến cho mọi trao đổi ý
tưởng lẫn nhau đều bất khả; và như thế căm thù làm cho tôi tan rã về
tinh thần, ngay cả trước khi tôi có thể làm cho kẻ thù của tôi tan rã.
Theo cách hiểu này, ta có thể nói rằng sống trong căm thù là sống mà như
chết, và căm thù, không ngừng thống trị tâm hồn, trở thành dục vọng tự
giao hoan với tử thi mà càng đồi trụy hơn nhiều. Các chế độ toàn trị và
các phong trào thuộc bất kỳ khuynh hướng nào cần căm thù để chống lại
chính xã hội của họ hơn để chống lại những kẻ thù và các mối đe dọa từ
bên ngoài, và để làm cho những người mà họ giáo dục và khích động căm
thù trở nên trống rỗng về tâm hồn và bất lực về tinh thần, khiến cho
những người này không thể nào kháng cự hơn để duy trì sự hăng say đấu
tranh. Thông điệp liên tục nhưng thầm lặng của chủ nghĩa toàn trị khẳng
định, “Bạn rất tốt, còn họ rất xấu. Lẽ ra bạn đã sống ở thiên đường từ
lâu rồi nếu kẻ thù độc ác của bạn không cản trở điều này.” Chức năng của
giáo dục này là để tạo ra sự tự mãn ở học trò của mình và khiến họ bất
lực về đạo đức và trí tuệ hơn là để tạo ra sự đoàn kết giữa những người
căm thù. Tự mãn của căm thù ban cho tôi cảm giác tôi là người sở hữu
hạnh phúc những giá trị tuyệt đối. Do vậy căm thù cuối cùng đưa đến sự
tự tôn thờ hóa kỳ quặc, mà, như ở những thiên thần sa ngã, chỉ là bề
trái của tuyệt vọng.
Nếu chúng ta thật sự yêu, chúng ta không phê bình đối tượng tình yêu của
chúng ta. Nếu chúng ta thật sự căm thù, chúng ta không phê bình bản
thân mình cũng như đối tượng căm thù của chúng ta; vì phê bình có nghĩa
là có thể phân biệt, nhưng căm thù làm chúng ta không thể nào phân biệt.
Căm thù đưa sự chính trực hoàn toàn và tuyệt đối của chúng ta ra đọ sức
với sự đê tiện hoàn toàn, tuyệt đối, và không thể nào chữa được của
những kẻ khác.
Cho nên đây chính là vũ khí bí mật của chủ nghĩa toàn trị: nhiễm độc
toàn bộ cấu trúc tinh thần của con người bằng căm thù, và như thế cướp
mất nhân phẩm của họ. Chính tôi bị hủy diệt vì cơn cuồng nộ hủy diệt của
mình. Nhân phẩm của tôi bị mất đi trong tự mãn và ngây thơ của mình; sự
gắn bó cá nhân của tôi cũng như mối liên lạc và đoàn kết với những
người khác theo đó cũng biến mất. Căm thù chẳng có gì giống đoàn kết;
những người căm thù không trở thành bằng hữu vì họ có chung kẻ thù bị
căm ghét. Ngoại trừ trong những lúc đánh nhau trực tiếp, họ vẫn còn xa
lạ và thù hằn lẫn nhau. Hầu như không có xã hội nào sôi sục căm thù bí
mật lẫn công khai và ganh tị bằng những xã hội cố gắng lấy căm thù làm
nền tảng cho sự đoàn kết và hứa hẹn thể chế hóa tình huynh đệ.
Hoàn toàn vô lý khi cho rằng nếu không có căm thù chúng ta bất lực trong
cuộc tranh đấu; sức mạnh tranh đấu được tạo ra từ sự hèn nhát của kẻ
thù hơn từ lòng căm thù của chúng ta. Sự hèn nhát của chúng ta mới chính
là kẻ thù nguy hiểm nhất của chúng ta; từ bỏ căm thù và cuồng tín hoàn
toàn không có nghĩa là rút lui ra khỏi cuộc đấu tranh. Có thể đúng là
nhiều người trong chúng ta không thể vượt qua hèn nhát ngoại trừ nhờ vào
cuồng tín và mù quáng tự hại mình. Nhưng nếu vì thế chúng ta kết luận
chúng ta phải động viên căm thù để thành công trong cuộc đấu tranh, thì
chúng ta ngay lập tức làm thương tổn giá trị của chính cuộc đấu tranh.
Giáo dục dân chủ là giáo dục nhân phẩm, và điều ấy giả định trước hai
điều: sẵn sàng tranh đấu kết hợp với không căm thù. Không căm thù mà đạt
đến chỉ bằng cách tránh các cuộc xung đột là đức tánh không có thật,
giống như trinh tiết của hoạn quan. Tuy nhiên, điểm chung cho tất cả các
cuộc xung đột của con người là quá trình tự thúc đẩy và tự tích tụ tự
nhiên. Không có gì phổ biến bằng cuộc xung đột mà thực ra chẳng quan
trọng nhưng tăng lên thành mối thù hận không đội trời chung, do cách
giải quyết xung đột càng tạo ra những xung đột mới và lớn hơn. Hòa giải
và sẵn sàng thỏa hiệp không hèn nhát, không lợi dụng bất chánh, và không
từ bỏ điều ta coi là cốt lõi của vấn đề - điều ấy chắc chắn là nghệ
thuật không phải ai cũng được thiên phú. Nhưng số phận của trật tự dân
chủ của thế giới phụ thuộc vào khả năng chúng ta nắm vững được nghệ
thuật này.
Đi trên đất đầm lầy không chắc chắn, đi lạc, đi trở lại, đôi lúc đi
vòng, chúng ta có vài điểm định hướng đáng tin cậy tùy ta sử dụng, mà có
thể rút lại thành vài điều răn và điều nên tránh đơn giản đã biết từ
lâu, gồm có những điều như sau: Muốn đấu tranh không có căm thù; nuôi
dưỡng tinh thần hòa giải mà không nhượng bộ những điều cốt yếu.
Trong thế giới chất chứa đầy căm thù, oán hận, và ganh tỵ, mà đối với
chúng ta dường như càng ngày càng hẹp lại hơn - do sự tham lam vô độ của
chúng ta hơn do thiên nhiên nghèo đi, căm thù là một trong những cái ác
này, ta dường như có thể nói, căm thù sẽ không bị loại bỏ qua bất kỳ
hành động thể chế nào. Trong trường hợp ấy, chúng ta có thể tin mà không
sợ người ta cười rằng mỗi người trong chúng ta có thể góp phần hạn chế
căm thù trong xã hội bằng cách hạn chế căm thù trong chính lòng minh;
nhờ thế mỗi người trong chúng ta có thể đạt được cho mình sự kỳ vọng bấp
bênh và mỏng manh về cuộc đời bền vững hơn trên chuyến tàu kiếp người u
mê vô định (1) của chúng ta.
Nguồn: Trích dịch từ bài diễn văn của Leszek Kolakowski đọc ở
Frankfurt vào ngày 16 tháng Mười 1977 nhân dịp nhận giải hòa bình của các nhà
xuất bản Đức. Tựa đề bản tiếng Anh “Education to Hatred, Education to Dignity”.
Dịch từ tác phẩm “Modernity on Endless Trial”của Leszek
Kolakowski, nhà xuất bản The University of Chicago Press, 1990, trang 255-261.
Chú thích:
Một ẩn dụ của Plato, Ship of Fools. (chú thích của người dịch).
Leszek Kolakowski (1927-2009) là triết gia Ba Lan, người đã khai tử về
trí thức chủ nghĩa Marx trong tác phẩm Main Currents of Marxism: Its
Rise, Growth and Dissolution (1976). Ông còn được coi là Socrates của Ba
Lan trong thế kỷ hai mươi.
Bản tiếng Việt:
0 comments:
Post a Comment